Lúc Bạch Chỉ Vi nghe tiếng Lục Húc Ngôn hô hoán, cho rằng thằng bé gặp chuyện gì, liền gạt người bịt mặt tấn công mình, chạy đến mạn thuyền. Cô vừa chạy vừa phân thần đề phòng người bịt mặt tấn công, không ngờ mọi người bịt mặt như thể nghe thấy tín hiệu rút lui, đột nhiên toàn bộ dừng tay nhảy xuống nước.
Tuy cô ngạc nhiên nhưng không kịp cả nghĩ, vội lao về phía Lục Húc Ngôn, thằng bé đang bị một sợi tơ bạc trói cứng trên ván thuyền.
“Chuyện gì thế?” Cô dùng vụ ẩn cắt dây.
“Đường tỷ tỷ bị Thích quỷ bắt rồi.” Lục Húc Ngôn nóng lòng: “Thích quỷ quá lợi hại, chúng ta không phải đối thủ đâu.”
Vụ Ẩn là bảo kiếm mỏng lại bén ngót, cắt sợi dây tơ rất dễ dàng, Bạch Chỉ Vi hất đoạn dây trói sau cùng ra, hỏi: “Thích quỷ mang Đường Mật đi đâu?”
Lục Húc Ngôn nhảy lên chỉ xuống nước: “Đó.”
Bạch Chỉ Vi nhìn theo tay thằng bé, nhíu mày: “Là lòng hồ mà, đệ cho rằng họ có bơi vào bờ không?”
“Tuyệt đối không sai, Thích quỷ phun tơ ra trói chặt Đường tỷ tỷ rồi nhảy xuống nước, bơi theo hướng đó.” Lục Húc Ngôn khẳng định.
Bạch Chỉ Vi nhìn khoảng nước mênh mông hướng về lòng hồ, nhưng không thấy mặt nước có động tĩnh gì, tỏ ra nghi hoặc: “Sao lại bơi nhanh thế? Không nhìn thấy gì.”
“Có thể là lặn xuống bơi một quãng dài rồi mới ngoi lên lấy hơi.” Không hiểu từ lúc nào Sử Thụy tới nơi, đứng sau lưng Bạch Chỉ Vi, lên tiếng: “Chi bằng để tại hạ xuống nước xem sao, công phu dưới nước của tại hạ không tệ đâu.”
Bạch Chỉ Vi nóng lòng: “Đường Mật bị trói thì lặn thế nào được, như thế còn sống được chăng?”
“Bạch, bạch cô nương đừng cuống.” Sử Thụy không thể dễ dàng gọi tên Bạch Chỉ Vi như lúc gọi Đường Mật, y ngừng một chốc rồi tiếp lời: “Tại hạ lặn xuống xem sao.” Đoạn cởi áo khoác ra nhảy xuống nước.
Bạch Chỉ Vi quay lại, Lục Lam đã tới, cô bèn nói: “Lục Lam, Đường Mật có lẽ bị Thích quỷ bắt xuống lòng hồ, chúng ta mau ra đó.”
Không ngờ Lục Lam khẽ thi lễ, khẩu khí khiêm cung cự tuyệt: “Xin lỗi biểu tiểu thư, chức trách của Lam là bảo vệ công tử và tiểu thư, không thể để họ mạo hiểm cứu người. Nếu muốn cứu, phải để tại hạ đưa họ vào chỗ an toàn rồi sẽ hiệp trợ biểu tiểu thư cứu người.”
“Lục Lam, ngươi…” Bạch Chỉ Vi nóng tiết, vốn định phát tác nhưng nghĩ đến hai hài tử mà Lục Triệt muốn bảo vệ, liền cố nén lại: “Chúng ta đợi Sử Thụy ngoi lên rồi chia ra hành động.”
“Không, ta muốn cùng Chỉ Vi tỷ tỷ đi cứu Đường tỷ tỷ.” Lục Húc Ngôn chen lời.
“Ta không đi, ta muốn cùng Lam về.” Lục Húc Dĩnh hoàn toàn không hợp tác.
Bạch Chỉ Vi vỗ vỗ đầu Lục Húc Ngôn, gượng cười: “Húc Ngôn, đệ về cùng Lục Lam đi, đệ mà đi thì tỷ tỷ lại phải phân tâm bảo vệ đệ, đệ cứ bình an vô sự là giúp tỷ rồi.” Dứt lời, cô ngước nhìn mặt hồ xanh biếc, một lá thuyền nhẹ đang nhanh chóng lướt tới, trên dầu thuyền có hai người đội nón rộng vành nên không nhìn rõ mặt. Thuyền đến gần, mới thấy một người mặc áo màu chàm, vạt áo thêu năm đóa hoa vàng, lối ăn vận này của kiếm đồng đã qua ngũ đại điện thí, bái làm môn hạ Thuật tông. Người bên cạnh mặc áo đen, hình như là người Kiếm tông.
Nháy mắt con thuyền nhẹ đã áp sát, hai người cởi nón, Bạch Chỉ Vi liền hoan hỉ vô ngần. Hóa ra kiếm đồng Thuật tông chính là Mộ Dung Phỉ đã lâu không gặp. Người cạnh y dung mạo đẹp đẽ, khí chất đặc biệt, nếu bảo là nam tử thì đôi mắt trong veo ẩn chứa mấy phần xinh đẹp của nữ tử, còn bảo là nữ tử thì cằm lại hơi bạnh ra theo kiểu nam nhi.
“Mộ Dung Phỉ, sao lại là ngươi?” Lần đầu tiên Bạch Chỉ Vi vui như thế khi thấy Mộ Dung Phỉ.
Mộ Dung Phỉ cũng tỏ ra ngạc nhiên: “Sao lại là cô nương, bọn tại hạ từ ngoài xa thấy có người giao đấu trên thuyền, tưởng xảy ra chuyện gì, định đến trợ giúp.”
Bạch Chỉ Vi thầm nhủ, dù sao cũng gặp được viện binh cứng, bèn không nói gì, nhảy sang lá thuyền nhẹ của Mộ Dung Phỉ: “Xảy ra chuyện rồi, Đường Mật bị Thích quỷ kéo xuống nước.”
“Ngươi nói đến kiếm đồng mắt to, cổ linh tinh quái của Ngự Kiếm đường hả?” Người đứng cạnh Mộ Dung Phỉ hỏi, nghe giọng nói này, Bạch Chỉ Vi mới xác định đấy là nữ tử.
“Đúng vậy, cô nương biết Đường Mật?” Bạch Chỉ Vi hỏi.
“Mới quen, cô nương nảy gặp chuyện thì nhất định phải cứu, nhân tuyển thượng thừa đấy.” Người đó nói xong, nháy mắt với Mộ Dung Phỉ.
Y tỏ vẻ không tự nhiên, ho mấy tiếng rồi tỏ vẻ nghiêm túc: “Đường tỷ, ai thì cũng phải cứu.”
Mặt nước chợt thò lên một cái đầu, hóa ra Sử Thụy quay lên, bám vào mạn thuyền, thở hồng hộc mấy hơi rồi nói: “Yêu vật lặn về phía lòng hồ, hình như mang theo một vật như cái kén trắng, cách xa quá nên tại hạ không nhìn rõ. Yêu vật giữ hơi tốt hơn tại hạ nhiều, nổi lên lấy hơi là bị cắt đuôi liền.”
“Được, chúng ta ra lòng hồ xem sao.” Bạch Chỉ Vi nghĩ ra Sử Thụy không biết võ công, liền bảo: “Sử Thụy, lên thuyền mau, cũng Húc Ngôn về trước. Bọn ta không biết chuyến này gặp phải gì, ngươi không biết võ công nên không cần theo, đừng để thụ thương, thậm chí nguy hiểm đến tính mạng.”
Sử Thụy ở cùng cô nhiều ngày, chưa bao giờ cô nói với y nhiều như thế, đừng nói đến chuyện lời lẽ đầy ý quan tâm. Niềm tự tin bất phàm của y càng dâng cao, nén niềm vui trong lòng xuống, nói dứt khoát: “Không được, tại hạ phải đi cùng cứu Đường Mật. Từ bé tại hạ đánh nhau chưa từng thua, thủy tính cũng khá, đến lúc lại có đất dụng võ.”
Bạch Chỉ Vi cho rằng y nói có lý, lại thông cảm y lo lắng cho Đường Mật, nên gật đầu đồng ý.
Đông hồ không phải vùng nước rộng lắm, lòng hồ không sâu lắm, nổi tiếng vì hồ kề với núi, bờ hẹp lại trải dài, có đến vạn khoảnh xanh biếc nối lền với trời xanh, sơn thủy hữu tình, gió đưa hương ngát, thuyền đi đến chỗ nào cũng gặp cảnh đẹp.
Lúc đó Bạch Chỉ Vi không còn lòng dạ nào ngắm cảnh, nhìn chăm chăm xuống mặt hồ ngưng thần không nói gì, hồi lâu mới nghe thấy có tiếng nói: “Có phải người Xích Ngọc cung nhắm đến Đường Mật?”
Hai người cạnh cô đều tập võ, giọng nói tuy nhỏ nhưng vẫn nghe rõ, Mộ Dung Phỉ hỏi: “Ý cô nương là mục tiêu của Thích quỷ không phải biểu muội của cô nương?”
“Ừ, di phu của ta đối địch với Xích Ngọc cung nhiều năm, là cột trụ của chính đạo võ lâm, nếu Xích Ngọc cung bắt người nhà của di phu cũng hợp tình hợp lý. Nhưng hôm nay có mấy người bịt mặt đến chặn bọn ta để Thích quỷ bắt Đường Mật, xem ra là nhắm vào Đường Mật, còn nếu nhắm vào di phu thì bắt Lục Húc Ngôn mới đúng.”
“Tiểu Phỉ, cha mẹ Đường Mật là ai?” Mộ Dung Trinh Lộ hỏi.
Mộ Dung Phỉ thấy có người gọi y là Tiểu Phỉ trước mặt người khác, ho khan mất tiếng không lấy gì làm tự nhiên: “Phụ mẫu Đường cô nương bị phỉ đồ sát hại, Đường cô nương cũng bị trọng thương, vừa hay Cố tông chủ đi qua, cứu về Thục Sơn chữa trị, lúc tỉnh lại đã quên hết mọi việc trong quá khứ.”
Đấy là lời giải thích của Đường Mật với y, các kiếm đồng đều cho rằng thân thế nó đáng thương nhưng Mộ Dung Trinh Lộ thoáng nghĩ rồi hỏi: “Có phải phụ mẫu cô bé đó không chỉ đơn giản chết trong tay phỉ đồ, thân thế còn có huyền cơ khác?”
Bạch Chỉ Vi tất nhiên biết rõ thân thế Đường Mật, lúc lần đầu tiên cô nghe Đường Mật bảo quê nhà nó ở thế giới khác, lòng cô cũng kinh ngạc vô vàn, có điều từ bé học được cách không thể hiện vui buồn ra mặt nên không biểu hiện ra. Sau này ở cùng nhau mới thấy Đường Mật khác thường nhưng cô đã hoàn toàn chấp nhận người bạn này, dù nó bảo mình là yêu quái thì cô cũng coi là thường. Việc hôm nay có liên quan đến lai lịch của Đường Mật chăng? Được Mộ Dung Trinh Lộ nhắc nhở, cô liền tập trung suy tư.
“Chí ít tạm thời cũng chưa chết được đâu, yêu vật mất công bắt Đường cô nương như vậy, chắc sẽ không giết.” Mộ Dung Trinh Lộ tiếp tục.
“Các vị, trước mặt là lòng hồ rồi, có đến không?” Thuyền phu hỏi.
“Giữa hồ chỉ có một hòn đảo hả?” Mộ Dung Trinh Lộ thấy chỉ nhìn là hết tầm, liền hỏi.
“Chỉ có một hòn đảo, trên đảo có ngôi miếu nát không ai trông nom, trừ ra chỉ có cỏ dại, cây cối đều không mọc.” Thuyền phu đáp.
“Trên đảo sao lại xây một ngôi miếu? Vì sao lại hoang phế?” Mộ Dung Trinh Lộ hỏi.
Bạch Chỉ Vi biết Mộ Dung Phỉ là người nước Tề, quốc gia sở tại của Thanh Nguyên tự, rất sùng bái Phật gia, miếu vũ nào cũng hương hỏa thịnh vượng, không thể hiểu được chuyện chùa miếu lại bị bỏ hoang, nên giải thích: “Miếu này xây dựng từ hơn trăm năm trước khi các nước đại tu miếu vũ, nghe nói lúc đó người ta dựng chùa chiền miếu vũ ở mọi nơi. Sau này vì phật địch Triệu vương phong bế miếu vũ, những kẻ không ưa phật giáo ở nước Sở chúng ta liền mượn cơ hội phản phật. Vốn nước Sở khác những nước còn lại, tín phụng vu thuật và bói toán, sau lần đó thế lực nhà phật giảm hẳn, những miếu vũ giao thông không thuận như ở đây đa phần đều hoang phế.”
“Bất quá, thuyền gia chúng tôi đều nói rằng nơi này có bồ tát hiển linh.” Thuyền gia chen lời: “Đồn rằng từ lâu lắm rồi, xảy ra con nước lớn, có người dạt lên đảo nhưng rồi đảo này cũng bị nhấn chìm mà người đó còn sống trở về, nói là được bồ tát hiển linh cứu giúp.”
Mộ Dung Trinh Lộ mỉm cười, nói với giọng trêu cợt: “Đến xem đi, biết đâu có người bắt Đường Mật đến bái tế bồ tát hiển linh.”
Mộ Dung Phỉ nghe vậy, cảm giác lời nói đùa ấy khiến người ta ớn lạnh, nhìn sang Sử Thụy và Bạch Chỉ Vi đều không cười nổi, y đành ho khan mấy tiếng phá đi bầu không khí ngượng ngùng.
Không ngờ Mộ Dung Trinh Lộ ghé sát tai y, nói với giọng ai cũng nghe rò: “Tiểu Phỉ bị bệnh hả, sao lại ho khù khụ thế?”
“Không phải, họng ngứa thôi mà.” Mộ Dung Phỉ vẫn giữ nụ cười tươi, khuỷu tay co lại đánh vào mắt Mộ Dung Trinh Lộ.
Mộ Dung Trinh giữ nguyên tư thế ghé sát, lật tay chặn lại, đẩy ra định hất y ngã. Ai ngờ Mộ Dung Phỉ thu thế lại trước khiến thân thể nàng ta hơi chao, suýt nữa đứng không vững.
“Tiểu Phỉ càng lớn càng ranh mãnh.” Mộ Dung Trinh Lộ cười bảo.
“Thế mới trị được đường tỷ.” Mộ Dung Phỉ cũng cười.
Sử Thụy đứng ngoài thấy hai người bất động thanh sắc trao đổi hai chiêu, liền thầm nhủ: Người Thục Sơn thú vị thật.
Lòng hồ rất nhỏ, thoáng nhìn là rõ hết.
Trên đảo từ cỏ dại và lau lách, chỉ có một ngôi chùa hoang đứng lẻ loi. Nhóm Bạch Chỉ Vi tìm khắp bãi cỏ, không thấy gì liền cùng vào ngôi chùa.
Ngồi chùa bé tẹo có nhiều nơi đã đổ nát, tượng bồ tát bằng đất sét vốn ngồi trên đài sen không hiểu biến mất đi đâu, miếu đường từng được sơn son thếp vàng đã xỉn màu, nơi nào cũng thấy mạng nhện.
Mộ Dung Phỉ và Mộ Dung Trinh Lộ từng học thuật cơ quan ở Thục Sơn, cùng tìm kiếm cẩn thận khắp ngôi miếu nhưng không phát hiện cửa ngầm hoặc lối vào địa đạo nào. Nhất thời bốn người ngẩn ra ở miếu đường, không biết nên làm gì.
“Có phải dưới nước có gì cổ quái chăng? Để ta xuống xem, các vị cứ đợi.” Sử Thụy định chạy ra cửa miếu.
“Mộ Dung Phỉ, người nước Tề các ngươi tin bồ tát lắm hả?” Bạch Chỉ Vi cùng Sử Thụy ra đến cửa miếu, nhìn mặt hồ óng ánh rồi hỏi.
“Tại hạ chỉ tin vào thứ mình thấy hoặc nắm vững.” Mộ Dung Phỉ đáp.
“Hồ lớn thế này, nếu nước lên, hòn đảo sẽ chìm nghỉm, trừ phi bồ tát hiển linh thì có rời đi được không?” Bạch Chỉ Vi hỏi tiếp.
“Dù cho có cơ quan ám đạo, bị nước nhấn chìm thì thoát thế nào được?” Mộ Dung Trinh Lộ gõ cái cột bong hết lớp sơn đỏ, ngẫm nghĩ rồi nói: “Nếu không phải truyền thuyết là thật thì người đó thoát bằng cách nào?”
“Nếu người đó ôm gỗ thì chắc không nói với người ta là bồ tát hiển linh. Nhất định xảy ra việc gì đó không thể giải thích, ví như tưởng chết chắc, vừa lạnh vừa mệt đến ngất đi, tỉnh lại thấy mình ở trên bờ rồi tất sẽ cho rằng bồ tát cứu giúp.” Mộ Dung Phỉ nhìn lên đài sen, cất tiếng giải thích.
“Xuống nước lâu mà không chết thì chỉ có cách dựa vào bảo vật tị thủy, rồi người đó vì muốn che giấu việc lấy được bảo vật nên nói là bồ tát hiển linh.” Mộ Dung Trinh Lộ nói: “Nếu thế, ở đây vốn có bảo vật tị thủy, nhưng hiện giờ không còn nữa.”
“Người tấn công chúng ta đều từ dưới nước lao lên rồi quay lại dưới nước. Có phải người Xích Ngọc cung có trong tay bảo vật tị thủy?” Bạch Chỉ Vi hồi tưởng lại tình hình bị công kích ban nãy.
Ba người đang thảo luận, chợt Sử Thụy ở ngoài cửa hô lớn: “Bạch cô nương, Bạch cô nương, dưới đảo có sông ngầm.”
Ba người phấn chấn, vội chạy ra. Sử Thụy toàn thân ướt sũng chạy vào, hưng phấn nói: “Dưới đảo có lòng động rộng cỡ một người, nước chảy từ đó ra, chắc là lối vào sông ngầm.”
“Có thể là lối vào đâu đó.” Mộ Dung Phỉ buột miệng.
Sử Thụy thở hồng hộc lắc đầu: “Không hẳn, thủy tính của tại hạ cũng khá mà không dám tiến vào. Ai biết dòng sông ngầm đó dài bao nhiêu mà nín hơi? Lẽ nào chuyên môn để yêu vật ra vào?”
“Dù yêu vật ra vào được, còn Đường Mật? Thở thế nào? Chúng mất công như thế, chẳng lẽ để bắt lấy một người chết?” Bạch Chỉ Vi lắc đầu, cảm giác có nhiều chỗ chưa thông.
“Đường Mật bị khốn trong một cái kén, có phải cái kén đó cổ quái, khiến cô nương đó thở được trong nước?” Sử Thụy lên tiếng.
Tim Bạch Chỉ Vi đập mạnh, chạy vào trong miếu, tiếp đó cô kêu to: “Sử Thụy, vào đây xem này.”
Sử Thụy không biết xảy ra việc gì, nhấc chân chạy vào trong, Bạch Chỉ Vi chỉ vào một con nhện đang đan mạng ở góc tường: “Ngươi xem, có giống Thích quỷ không?”
Sử Thụy thấy con nhện đó toàn thân đen ngòm, chỉ lớn cỡ móng tay, nhìn kĩ thấy đầu nó giống bọ ngựa, đầu có râu, quả nhiên khá giống Thích quỷ.
Lúc tối lần trước, Bạch Chỉ Vi thoáng thấy Thích quỷ ở khách sạn, không dám khẳng định nên hỏi Sử Thụy: “Nói đi, có giống không?”
“Đầu rất giống.” Sử Thụy lần đầu tiên thấy Bạch Chỉ Vi nóng lòng như thế, giọng nói ấy mang mấy phần nôn nao, lòng y run lên, đứng ngẩn ra.
Bạch Chỉ Vi không để ý, tuốt kiếm khều một ít tơ, quay người chạy ra mép nước.
Cô đến mép nước, che mạng nhện lên mặt, hít sâu một hơi rồi úp mặt xuống nước. Nước hồ mơn qua mũi, cô thử hít, quả nhiên một tia không khí chảy vào mũi.
“Ta tìm thấy rồi, đây là pháp bảo tị thủy.” Cô hưng phấn nhảy bật lên, nói lớn với ba người sau lưng.
Mộ Dung Phỉ thấy dáng vẻ hớn hở của cô, cảm giác như dải băng đọng dưới hiên nhà mùa đông đột nhiên gặp ánh nắng, thoáng chốc ánh lên chói mắt khiến người ta không mở nổi mắt.
Mộ Dung Trinh Lộ cầm mớ tơ nhện bị nước ngấm vào, học theo Bạch Chỉ Vi úp mặt xuống nước, một chốc sau ngẩng lên nói: “Nhờ mớ tơ này có thể hít thở được, cảm giác như cá ấy. Có lẽ người năm xưa thoát hiểm được vì hôn mê mà đầu úp lên mạng nhện, kết quả thoát được tai kiếp, tỉnh lại không hiểu nguyên do, mới cho là bồ tát hiển linh.”
“Thích quỷ chắc là người và yêu vật ở đây kết hợp lại, xem ra Đường Mật không đến nỗi bị chết đuối, chúng ta mau đi cứu.” Bạch Chỉ Vi nói xong, chạy vào trong miếu lấy tơ nhện.
Mộ Dung Trinh Lộ nhìn theo bóng cô vội vàng chạy đi, cười nói với Mộ Dung Phỉ: “Tiểu Phỉ, tiểu cô nương này cũng được, nhưng hơi khó chiều. Tiểu Phỉ thấy sao?”
Mộ Dung Phỉ ra bộ không nghe thấy gì, chạy luôn vào trong miếu.
Bốn người lấy đủ tơ nhện, chuẩn bị xong xuôi rồi lặn xuống nước. Được Sử Thụy chỉ dẫn, quả nhiên thất dưới lóp bùn có một động khẩu đủ cho người chui vào, lúc tới gần cảm giác được nước phun ra, ấm hơn nước hồ nhiều, nhưng chảy rất xiết, bốn người ngược dòng cũng mất khá nhiều công sức.
Vào trong động thì tối om, chỉ có làn sáng yếu ớt từ cửa động sau lưng rọi vào, Mộ Dung Trinh Lộ thầm niệm khẩu quyết, hoa lửa bừng nở trên đầu ngón tay nàng ta. Ảo hỏa nên màu sắc nhiều hơn hẳn lửa thật, biến ảo vô vàn. Sử Thụy cứ tấm tắc mãi, quân cả sợ hãi, bơi thẳng vào sâu trong động.
Bơi chừng một tuần trà, phía trước xuất hiện ánh sáng, bơi thêm một chốc, ánh sáng rõ hẳn, một vùng nước xuất hiện phía trên đầu chúng nhân, cả bốn ngoi lên mặt nước, phát hiện đã đến một lòng động rộng lớn, bốn vách có khảm huỳnh thạch lớn tày nắm tay, tỏa ra ánh sáng nhu hòa.
Bốn người lên bờ, bỏ tơ nhện ra, nhìn quanh một lượt, phát hiện trong động chỉ có một lối thông sang nơi khác, đứng trước cửa động liền cảm giác gió nóng táp vào mặt. Gió nóng nung người nhưng không đến nỗi không chịu nổi, cả bốn thương lượng một chốc rồi quyết định vào.
Cửa động nối với thông đạo thăm thẳm, thạch bích hai bên được mài nhẵn bóng. Bốn người đi vào trong, Mộ Dung Phỉ thông thạo thuật cơ quan đi đầu dò đường, được một đoạn mà không phát hiện cơ quan phòng bị nào.
“Người Ma cung không cẩn thận như chúng ta.” Mộ Dung Phỉ nói: “Có lẽ chúng cho rằng khó ai ở dưới nước được lâu như thế.”
“Ta thấy chỗ này để người từ dưới nước lên hong khô y phục.” Mộ Dung Trinh Lộ nói, giơ tay lên xem, phát giác đi qua thông đạo lồng lộng gió nóng, trừ dưới nách thì hầu như toàn thân không còn ướt nữa, bèn giơ tay quá đầu, nói với Mộ Dung Phỉ bằng giọng đùa vui: “Tiểu Phỉ, làm theo tỷ, người Ma cung nhất định cũng làm thế, hong khô y phục rồi mới vào trong.”
Mộ Dung Phỉ nhìn Mộ Dung Trinh Lộ càng nói càng hăng, tay giơ quá đầu, quay người trong không gian không lấy gì làm rộng rãi lắm, phảng phất muốn hong khô y phục thật mà y không biết nên khóc hay cười, chỉ mong không quen nàng ta. Y từ bé đã được giáo dục thành người hàm dưỡng phong độ, biết tiến biết thoái, nhưng mỗi lần gặp vị đường tỷ này là lại luống cuống. Y lại nhớ đến Đường Mật, cô nương đó tuy tính cách không hoàn toàn giống Mộ Dung Trinh Lộ nhưng cũng mang lại cho y cảm giác tương tự, chả trách Mộ Dung Trinh Lộ vừa gặp là thích, nói với y rằng nhất định phải đưa được Đường Mật về Mộ Dung gia. Y còn nhớ lúc Mộ Dung Trinh Lộ nói vậy, mắt sáng lên, hoàn toàn ra vẻ hận vì gặp cô bé quá muộn, lại tiếc nuối vì cô bé không phải con dâu của Mộ Dung gia.
Nghĩ đến việc phải đối diện với hai Mộ Dung Trinh Lộ, Mộ Dung Phỉ lại đau đầu.
Mộ Dung Trinh Lộ thấy không ai hưởng ứng, liền tỏ vẻ thật thà nói với ba người kia: “Chỗ này có lẽ có công dụng đó thật. Đồn rằng Ma vương rất chú trọng hình thức, lúc nào cũng chỉn chu rực rỡ. Có lần nàng ta và Đọa Thiên đại nhân tỷ võ, kết quả vì y phục của đại nhân xộc xệch, nàng ta liền không muốn đấu nữa, đợi đại nhân tắm gội. Dù địch hay bạn, Ma vương đều không thích đối phương ướt sũng tiến vào lãnh địa. Nơi này không có cơ quan bảo vệ, rất có thể vì để người ta yên tâm hong y phục, xem xét lại hình dáng.” Nói xong, nàng ta soi lên thạch bích nhẵn bóng như gương đồng, chỉnh lại mái tóc hơi rối.
Suy đoán của nàng ta tuy cổ quái ly kỳ, Bạch Chỉ Vi lại cho rằng có lý: “Chả trách Đọa Thiên đại nhân và vương là tử địch, đồn rằng đại nhân là người không chấp nên tiểu tiết, tính tình hai người này thật hoàn toàn tương phản.”
Sử Thụy cũng thấy những lời đồn này hết sức thú vị, hoàn toàn bất đồng với thái độ hoảng kinh cùng lời lẽ kính sợ dị thường của dân gian khi nói về Ma vương và Đọa Thiên, y càng hâm mộ người Thục Sơn hơn.
Ba người đi thêm một chốc, đến một khung cửa đá cực lớn.
Trên bức tường trước cửa khảm khung đồng điêu khắc nhị long hí châu, do bốn cái vòng đồng tâm tạo thành, hai cái vòng ngoài cùng đều khắc mười hai thiên can địa chi, chiếc vòng thứ ba khắc từ một đến mười hai, chiếc thứ tư khắc đến ba mươi.
“Này, tiểu tử Thuật tông, xem có cơ quan nào không?” Mộ Dung Trinh Lộ bảo Mộ Dung Phỉ.
Mộ Dung Phỉ nhận ngay ra loại khóa liên quan đến ngày tháng: “Nếu đệ đoán không sao, người Ma cung đều biết ngày tháng để mở khóa, ví như ngày hai mươi tháng Mươi năm Mậu Dần sẽ quay chữ Mậu ở chiếc vòng đầu tiên đến đến dưới mắt rồng, tiếp đó chuyển chữ Dần ở vòng thứ hai. Lần lượt số mười và hai mươi ở hai vòng thứ ba và thứ tư cũng làm tương tự, thạch môn sẽ mở ra.”
“Nếu thế thật, chẳng phải chúng ta không vào được ư? Nếu cứ tính toán ngày tháng kiểu đó thì chết già ở đây cũng chưa chắc thu được kết quả. Chẳn lẽ chúng ta phải nghĩ cách bắt người của Ma cung tra hỏi.” Bạch Chỉ Vi nhíu mày.
“Hoặc nghĩ cách ẩn mình đợi người Ma cung quay về, chúng ta lén xem ngày ra vào là bao nhiêu.” Sử Thụy lên tiếng.
“Đều quá mất thời gian. Tiểu Phỉ, người lập ra cách tính ngày tháng này phải có thói quen nào chứ, đúng không?” Mộ Dung Trinh Lộ hỏi.
“Đại đa số đều có thói quen nào đó, nhưng sao chúng ta biết ngày nào có ý nghĩa với người Ma cung?” Mộ Dung Phỉ hỏi ngược.
“Thử lấy ngày lễ thọ của Ma vương xem sao?” Bạch Chỉ Vi buột miệng.
“Ai biết được ả sinh khi nào, chỉ có cách về tra Triệu thư, bất quá Triệu thư cũng cho rằng ghi chép về Hoa Tuyền không lành, ghi hay không chẳng quan trọng.” Mộ Dung Trinh Lộ lắc đầu, nhún vai.
Mộ Dung Phỉ hơi động thần sắc, ngẫm nghĩ một chốc rồi nói: “Thử ngày mười năm tháng tám năm Đinh Hợi xem sao.”
Mộ Dung Trinh Lộ nhướng mày, thoáng tỏ ra nghi hoặc, nhưng vẫn đưa tay làm theo ngày Mộ Dung Phỉ bảo, lay động khung đồng. Nàng ta hỏi: “Tiểu Phỉ, ngày đó là gì?”
“Có thể là sinh nhật Ma vương.” Mộ Dung Phỉ đáp.
Mộ Dung Trinh Lộ xoay đến đúng ngày đó, Bạch Chỉ Vi đẩy thạch môn nhưng khung cửa trơ trơ.
“Không đúng rồi. Tiểu Phỉ, sao đệ biết ngày sinh của Hoa Tuyền? Có nhầm không?” Mộ Dung Trinh Lộ không nén được nghi hoặc, lên tiếng hỏi.
Mộ Dung Phỉ không đáp, nhìn khung đồng hồi lâu mới nói: “Thử ngày mười ba tháng Tư năm Ất Dậu.”
Sử Thụy thấy Mộ Dung Phỉ nói ra ngày tháng này, thần sắc Bạch Chỉ Vi và Mộ Dung Trinh Lộ đều biến đổi. Mộ Dung Trinh Lộ do dự đưa tay xoay vòng đồng, ngay khi số ba mươi của chiếc vòng trung tâm khớp với mắt rồng thì một tiếng cách vang lên, tựa hồ cơ quan nào đó được mở.
Bạch Chỉ Vi thử đẩy, cánh cửa đá vô thanh vô tức mở ra.
“Tiểu Phỉ, vì sao đệ lại đoán là ngày sinh Đọa Thiên đại nhân?” Mộ Dung Trinh Lộ càng không hiểu.
Mộ Dung Phỉ thản nhiên cười đáp: “Đoán mò thôi, lấy ngày sinh của tử địch là mật mã mở cửa rất phù hợp với tác phong của Ma vương.” Đoạn y bước vào khung cửa trước tiên.
Bạch Chỉ Vi theo sau, cho rằng sự việc không đơn giản như thế. Mộ Dung Phỉ tuyệt đối không phải loại người đoán mò, bất chợt cô thấy hiếu kỳ với y.
Chúng nhân vừa vào trong, trước mắt bừng sáng lên, phải nheo mắt lại một lúc mới thích ứng được. Đợi khi nhìn rõ, bốn người đều tự khen: Đúng là nhân gian tiên cảnh.
Hóa ra họ đến một lòng cốc bốn mặt là núi cao vây phủ. Trong cốc hoa nở như gấm dệt, cây cối xanh om, có cả dòng suối trong veo uốn lượn róc rách, ánh bạc lấp lánh. Giữa hoa cỏ, đình đài lầu các nửa ẩn nửa hiện, mái diềm khảm vàng dát ngọc tinh xảo xa hoa. Một con khổng tước lông trắng uốn lượn trên trời, dưới đất mấy con hươu sao tung tăng. Khói sương lờn vờn thoạt có thoạt không, ánh lên muôn vàn màu sắc như chốn vườn tiên.
“Phong cảnh Thục Sơn tuy đẹp nhưng hùng vĩ, cảnh trí khác hẳn chốn này.” Mộ Dung Trinh Lộ nói, hít sâu một hơi: “Ừ, gió ấm mơn man, hương hoa ngào ngạt, Ma vương đúng là biết hưởng thụ.”
Cả toán định đi tiếp. Mộ Dung Phỉ ngăn lại, nhìn con đường rải đá vụn dẫn xuống cốc sâu: “Nơi này không người canh giữ, biết đâu lại có cơ quan bẫy rập.”
Y móc mấy đồng tiền trong ngực áo ra ném về mấy chốc nghi ngờ nhưng không kích phát cơ quan, đang chuẩn bị cất bước thì Mộ Dung Trinh Lộ kéo lại: “Đừng đi, có chuyện không ổn.”
“Sao cơ?” Y hỏi.
Mộ Dung Trinh Lộ ngẩng đầu lên nhìn thinh không, lẩm bẩm: “Chúng ta đi đã bao lâu ở nơi không có ánh nắng? Tổng cộng không đến nửa canh giờ. Lúc xuống nước sắp chính ngọ, giờ phải đang trưa mới đúng. Nơi này tuy bị núi cao cách trở, không thấy vầng dương nhưng còn hướng đổ bóng thì sao?”
Ba thiếu niên đều cúi đầu nhìn xuống bóng in dưới đất, hóa ra dù là bóng người hay hoa cỏ lầu các đều hướng về phía tây bắc, hình ảnh này chỉ xuất hiện vào giữa trưa.
“Ảo ảnh.” Bạch Chỉ Vi hiểu ngay.
“Ảo ảnh cực mạnh, kết giới bảo vệ.” Mộ Dung Trinh Lộ gõ nhẹ lên trán Mộ Dung Phỉ: “Tiểu Phỉ, đường tỷ lại cứu đệ, giờ đến lượt đệ tử Thuật tông nghĩ cách hóa giải.”
Mộ Dung Phỉ biết tuy Mộ Dung Trinh Lộ là môn nhân Kiếm tông nhưng tạo nghệ pháp thuật không kém y, giờ nàng ta đưa ra câu đố, nhất định y phải nghĩ được cách giải quyết mới xong. Nhưng phá giải ảo ảnh luôn là đối kháng giữa tâm lực với tâm lực, bên nào mạnh hơn, không dễ bị mê hoặc là sẽ thắng lợi. Rõ ràng người bày kết giới mạnh hơn y, thậm chí cao hơn cả toán, phá giải thế nào đây?
Mộ Dung Phỉ nhắm mắt thu liễm tâm thần, thử dùng phương pháp phá giải ảo ảnh đột phá kết giới. Bởi ảo thuật mê hoặc tâm linh thông qua mắt, rồi từ tâm linh mà mê hoặc mọi cảm quan khác, chỉ cần một người ý thức được bản thân đang ở trong ảo cảnh, coi mọi thứ trước mắt là hư ảo thì sẽ chiếm tiên cơ, còn lại là tìm điểm đột phá chân thực, tụ lực vào một điểm chống lại sức mạnh mê hoặc mình.
Y ngưng thần nín thở, vận dụng mọi cảm quan trong bóng tối, dần cảm nhận được hơi thở chảy trong thân thể, lỗ chân lông mở rộng trong không khí, phảng phất vô số xúc giác trong veo từ mỗi tấc da đang tiến vào thế giới hư không.
Dần dần y cảm nhận được gió nóng quất lên mặt như đang đứng trước ngọn lửa rừng rực, cảm giác mát lạnh ban nãy tiêu tan, da lấm tấm mồ hôi. Y không ngờ nhanh chóng tìm được điểm đột phá như thế, bất giác vui mừng, toàn lực cảm ứng hơi nóng trong không khí. Thoáng chốc, y cơ hồ nắm bắt được thứ gì đó, trước mắt là hỏa diễm, sa mạc thậm chí nham tương, chứ quyết không phải ngày đẹp trời và nhân gian tiên cảnh, y nghĩ vậy liền mở bừng mắt.
Trước mắt y vẫn là cảnh đẹp hươu nai tung tăng, mặc cho y cảm giác được hơi nóng mà toát mồ hôi, mặc cho cảm quan của y đã thoát khỏi mê hoặc thị giác mà vẫn không thấy được điều gì chân thực. Y chấn kinh trước sức mạnh kinh hồn của ảo ảnh, nhìn cảnh sắc với vẻ kính sợ tận đáy lòng, hồi lâu mới nói: “Đường tỷ, kết giới này đệ không thể phá nổi.”
Mộ Dung Trinh Lộ thở dài: “Tâm lực thiên phú của Tiểu Phỉ cao như thế mà không được thì ta không cần thử nữa, chúng ta tám lạng nửa cân mà thôi.” Đoạn nói với Bạch Chỉ Vi: “Muội đừng mất công thử nữa, từ bé Tiểu Phỉ đã được trời phú cho tâm lực, khi y không phá được kết giới dù biết rõ thì chúng ta nên tìm cách khác.”
Bạch Chỉ Vi nhìn sang Mộ Dung Phỉ, y đang ngắm cảnh đẹp với ánh mắt sùng kính. Thật ra cô cho rằng ánh mắt y tựa hồ xuyên qua hoa cỏ lâu đài hư ảo, hướng đến sức mạnh hùng hồn ẩn tàng phía sau, cảm giác này khiến lòng cô thắt lại.
Đang lúc cả toán bó tay với ảo ảnh thì tất cả dần tan đi như sương sớm gặp ánh nắng, cảnh tượng chân thật ẩn tàng phía sau rốt cuộc cũng hiển hiện.
Cảnh tượng trước mắt khiến cả nhóm biết Mộ Dung Trinh Lộ đã cứu mạng họ, nếu bước thêm một bước sẽ sa xuống vực sâu vạn trượng, bên dưới là nham tương đỏ rực đang từ từ chảy, sóng nhiệt cuồn cuộn phả lên mặt bỏng rát.
Thật ra chỗ này không phải sơn cốc có núi non vây quanh, mà là một động huyệt khổng lồ do khoét rộng lòng núi tạo thành, có điều động huyệt quá lớn, sức người không thể thực hiện được.
Bên kia vực sâm trăm trượng, trên vách đá có một tòa tháp lưu ly màu lam, một thanh y nam tử thong thả bước ra, ở xa nên cả toán không nhìn rõ mặt hắn. Hắn vòng tay nói: “Các vị, nếu muốn sang xin cứ tự tiện, thứ cho tại hạ không thể đón từ xa.”
Vách đá bốn người đang đứng nối với bờ kia bằng một sợi xích sắt cỡ cổ tay, Sử Thụy thò tay ra: “Nóng thật.”
Bạch Chỉ Vi nói với người ở bờ kia: “Xin hỏi bằng hữu Đường Mật của bọn tại hạ có ở đó không?”
Người đó đáp: “Đường cô nương đích xác làm khách ở đây. Mỗ đã thống nhất với Đường cô nương là bằng hữu đến tìm qua được thì mới có thể đưa cô nương đi.”
Bạch Chỉ Vi liếc Sử Thụy, thoáng tỏ ra phiền muộn.
Sử Thụy biết cô phiền muộn vì y không qua được, tuy y muốn ưỡn ngực nói đầy hào khí rằng: “Đừng lo, xem bản lĩnh của Sử tam thiếu này.” Nhưng dù sao y cũng tự biết không thể, không phải lúc ra vẻ anh hùng, nên cúi đầu không nói gì.
“Thế có gì khó, bốn người chúng ta đều qua thì ngươi sẽ thả Đường Mật?” Mộ Dung Phỉ cao giọng hỏi.
“Tất nhiên, tại hạ và Đường cô nương đã thỏa thuận rồi.” Người đó đáp.
Mộ Dung Phỉ nói với Bạch Chỉ Vi: “Người đó chịu giải ảo ảnh, bất tất giở trò gì trên dây xích, ta thử xem sao.”
“Võ công của ta muốn qua còn miễn cưỡng, hơn nữa còn y.” Bạch Chỉ Vi không nói rõ nhưng ai cũng hiểu cô ám chỉ ai.
“Không sao, ta và đường tỷ có thể cõng các ngươi qua, khinh công của Thục Sơn chúng ta chú trọng đến chữ Ổn, bộ pháp vững vàng, cõng như thế cũng được mà.” Mộ Dung Phỉ tỏ vẻ tự tin.
“Vậy, vậy ngươi cõng ta.” Sử Thụy vội bước lên, thầm nhủ: Tuyệt không thể để tiểu tử này cõng Bạch Chỉ Vi.
“Ngươi nặng hơn, công phu của đường tỷ cũng cao hơn ta, để tỷ ấy cõng ngươi sẽ an toàn hơn.” Mộ Dung Phỉ nói xong liền đến cạnh Bạch Chỉ Vi.
“Không được, nam nữ thụ…” Sử Thụy chưa nói xong đã bị Mộ Dung Trinh Lộ nhấc lên: “Thụ thụ bất thân phải không? Ngươi để Tiểu Phỉ cõng mà mất đi tính mạng thì phải làm sao, ta không chê ngươi thì kêu la cái gì hả?”
“Không phải, ta muốn bảo là họ nam…” Sử Thụy mới nói được nửa chừng đã bị Mộ Dung Trinh Lộ cõng lên lưng, nham tương chảy bên dưới rít ùng ục, làm nhòa đi tiếng y nói. Y run lên, không dám lải nhải gì nữa, chỉ lén liếc Mộ Dung Phỉ đang cõng Bạch Chỉ Vi ở phía sau, không hiểu trong lòng mình cảm giác thế nào.
Bốn người sang đến bờ kia, thanh y nhân ra đón, hắn chừng trên dưới bốn mươi, mắt ưng mũi sư tử, diện mạo anh vũ, dù mỉm cười ôn hòa nhưng không che hết được lệ khí.
Hắn thấy bốn người an toàn qua được liền nói: “Công phu khinh thân của Thục Sơn quả nhiên danh bất hư truyền, thân nhẹ như yến, vững vàng như đá, tại hạ bội phục, xin mời theo tại hạ.”
Bốn người theo thanh y nhân vào lưu ly tháp, cánh cửa đóng lại, ngăn cách hơi nóng, không biết tòa tháp làm bằng chất liệu gì mà ở nơi nóng nực này vẫn toát ra khí mát.
Một bóng đỏ lao nhanh tới, ôm Bạch Chỉ Vi nói: “Ban nãy dọa ta sợ quá, Mộ Dung Phỉ thiếu chút nữa rơi xuống vách.”
Bạch Chỉ Vi biết ngay là Đường Mật nguyên vẹn không thiếu một phân, liền vui mừng: “Ban nãy ngươi mới dọa ta sợ quá, thật ra là chuyện gì?”
Đường Mật bĩu môi với thanh y nhân: “Vị Đông hộ pháp này muốn mời ta đến làm khách.”
Bạch Chỉ Vi liếc nhìn Đông hộ pháp: “Mời khách kiểu này không khách khí tí nào, Xích Ngọc cung hành sự xưa nay vẫn lén lút thế hả?”
Đông hộ pháp mỉm cười, tựa hồ không để ý: “Tất nhiên có thể đường hoàng mời Đường cô nương đến làm khách, có điều Xích Ngọc cung chúng tôi và Lục thành chủ, cả Bạch thông hầu không có quan hệ tốt nên mới dùng hạ sách này.”
Hắn khách khí nói với Đường Mật: “Đường cô nương, bằng hữu của cô nương đã an bình đến đây, có thể thực hiện việc đã đáp ứng rồi chăng?”
“À, đi gặp bằng hữu của ngươi hả?” Đường Mật bĩu môi: “Ta đi, chẳng qua trả lời mấy câu với lại đi cứu người, không cần gấp thế.”
“Vậy tốt rồi, mời cô nương.” Đông hộ pháp đưa tay mời Đường Mật lên lầu.
“Đường Mật, ngươi biết họ bảo ngươi làm gì hả?” Bạch Chỉ Vi kéo nó lại hỏi.
“Chỉ là hỏi han thôi, à, đại khái có liên quan đến cái kia.” Đường Mật nhìn vào sâu trong tháp.
Bạch Chỉ Vi phát hiện trên bàn thờ thần có cung phụng một cây bảo kiếm, chính là Vị Sương của Đường Mật.
“Không phải Vị Sương, ở đây cơ.” Đường Mật giơ kiếm lên: “Ta cũng không không hiểu lời vị Đông hộ pháp này nói, ta gặp bằng hữu của ông ta rôi, ông ta sẽ cho ta biết là chuyện gì.”
Đoạn nó xua tay với chúng nhân, đi lên lầu.