Mọi người đều lẳng lặng chờ nghe Âu Dương Đình trả lời vì “Phá Vân Thất Tiên” đã nhận thấy “Lãnh diện bạch mi Truy phong tẩu” là người cơ trí thông minh, chủ ý của ông ta tất không đến nỗi lầm lẫn. Âu Dương Đình trầm ngâm một lát rồi thủng thỉnh nói:
– Các hạ nói thế tất không phải là không có nguyên cớ, nhưng các hạ có thể giải thích rõ ràng hơn được không?
Vô Tâm nói:
– Tiềm lực của Nam Cung thế gia lớn lắm, rất có thể cách xa với ý liệu của các vị nhiều. Nếu các vị không đắn đo cẩn thận mà cứ làm bừa đi, tôi e rằng đả thảo kinh xà không những vô ích mà còn ảnh hưởng tới đại cuộc nữa.
Âu Dương Đình đôi mắt chợt sáng hẳn lên, hỏi:
– Đại cuộc gì?
Vô Tâm dằn mạnh từng tiếng:
– Chủ trì chính nghĩa vũ lâm, giải cứu đồng đạo bị hại, phá âm mưu của Nam Cung thế gia, báo thù cho những anh hùng hào kiệt bị chết oan, như thế không phải là đại cuộc ư?
 Dương Đình lại hỏi:
– Thế nào mới không phải là khinh cử vọng động?
Vô Tâm nói luôn:
– Các vị cần phải kín đáo đợi thời cơ, khi nào thấy có người nông nổi muốn vọng động thì ta phải hết sức ngăn cản.
Âu Dương Đình hỏi:
– Bao giờ tới thời cơ?
Vô Tâm nói:
– Khi nào thời cơ đến, tại hạ sẽ lập tức thông báo tới các vị.
Âu Dương Đình ngẫm nghĩ giây lâu rồi mới ngẩng lên nói với Bạch Đại tiên sinh:
– Việc này xin tùy đại kha quyết định.
Bạch Đại tiên sinh cũng cau lông mày trầm ngâm một lát rồi nói:
– Vị tướng công này nói cũng có lý…
Ông vừa nói đến đấy, chợt nghe ông già râu quai nón kêu to:
– Mặc dù hắn nói có lý hay vô lý, anh em ta không thể hoàn toàn tin lời một người hành tung quỉ bí, lai lịch mờ ám mà quyết định đại sự được!
Kim Thừa Tín cũng nói:
– Câu nói của lão tiền bối cũng trúng tâm lý tại hạ. Bảy anh em tôi hoàn toàn đồng ý với tiền bối.
Âu Dương Đình trên môi thoáng nở một nụ cười, rõ ràng là ông ta cũng tán thành ý kiến ấy. Bạch Đại tiên sinh nhướng cao lông mày, nói với Vô Tâm:
– Các hạ đã nghe rõ chưa? Dù các hạ có tài biện luận đến đâu, cũng khó lòng làm cho chúng tôi tâm phục.
Vô Tâm mỉm cười nói:
– Nếu thế tất các vị muốn bắt tại hạ phải nói ra mấy chuyện kinh hồn?
Bạch Đại tiên sinh nói:
– Hãy chờ xem câu chuyện của các hạ kinh hồn đến bực nào đã!
Vô Tâm ngửa mặt lên trời cười ha hả nói:
– Cái Bang ngũ lão xưa nay ngang dọc giang hồ, những chuyện kinh hồn tất nhiên trông thấy cũng nhiều. Tại hạ dẫu có nói đến rách lưỡi, cũng vị tất đã làm cho các vị hồi tâm chuyển ý. Nhưng nếu các vị cứ nhất quyết muốn đi, thì tối thiểu vũ công cũng phải thắng tại hạ, mới đủ tư cách…
Chàng đưa mắt nhìn khắp mọi người một lượt, rồi lại tiếp:
– Vì nếu không thế chẳng khác xua dê vào miệng cọp, chỉ có đi mà không có về…
Ông già râu quai nón nổi giận đùng đùng quát:
– Được rồi, để lão phu thử đấu với ngươi mấy hiệp, xem vũ công của ngươi cao đến bậc nào mà dám huênh hoang khoác lác!
Vô Tâm lạnh lùng nói:
– Các hạ đừng trách tại hạ ăn nói lỗ mãng, chớ vũ công của các hạ dẫu đấu với tên thư đồng của tại hạ đây, cũng còn kém một bực.
Ông già râu quai nón tức là Triệu Liệt Bân tóc râu dựng ngược, hét vang như sấm:
– Hừ, mẹ kiếp! Lão phu chỉ cần dùng ba chiêu là đủ bắt nó ngã sang Đông, nó quyết không dám trái lệnh ngã sang Tây cho mà coi!
Nhâm Vô Tâm biết cục diện hôm nay nếu không lấy vũ công trấn áp bọn họ, thì khó lòng mà bắt buộc họ phải theo ý mình, nên mới cố khiêu khích làm cho lão Triệu phải giận sôi sùng sục.
Lúc này chàng lại cười nhạt nói:
– Đừng nói ba chiêu, cứ đấu đủ ba trăm chiêu, nếu các hạ thắng được hắn, tại hạ xin cúi đầu nhận tội.
Triệu Liệt Bân giận lắm, day tay mắm miệng, nhấp nhỏm chỉ định xông ra. Vô Tâm xua tay nói:
– Khoan đã!
Rồi chàng đưa mắt nhìn khắp mọi người hỏi:
– Vị nào có nhã hứng, muốn đấu với tại hạ?
Bạch Đại tiên sinh thủng thỉnh đứng lên nói:
– Nhị đệ, lần này ta phải tự ra tay mới được.
Âu Dương Đình khom lưng đáp:
– Đại kha nên cẩn thận!
Bạch Đại tiên sinh xốc lại cổ áo, ngưng thần tĩnh khí bước tới trước mặt Nhâm Vô Tâm. Triệu Liệt Bân kêu to:
– Để tiểu đệ giáo huấn tên này, rồi đại kha sẽ động thủ!
Vừa nói lão vừa nhảy vọt tới trước mặt Tú Linh, xuất chiêu cực kỳ lăng lệ, quả nhiên thế như bạt núi băng ngàn. Tú Linh vẫn đứng yên, chờ cho đối phương đánh tới mới nhẹ nhàng xoay mình tránh thoát, miệng vẫn mỉm cười hỏi:
– Ngươi có muốn ta nhường trước ba chiêu không?
Vừa nói dứt lời, chợt nghe Nhâm Vô Tâm dùng thuật “Truyền âm nhập mật” nói vào tai:
– Người này có thần lực, nội ngoại công phu đã đạt tới bực lô hỏa thuần thanh, cô nương chớ coi thường, ta chỉ nên dùng thân pháp linh xảo mà trốn tránh, cốt làm tiêu hao chân lực của hắn, chọc cho hắn tức giận điên cuồng, nếu qua được ba trăm chiêu thì tức là mình thắng.
Tú Linh nhìn chàng bằng cặp mắt long lanh, miệng cười tủm tỉm, tỏ ý là mình đã hiểu lời chàng nói. Chỉ trong nháy mắt Triệu Liệt Bân đã tấn công được hai chục chiêu, khí thế hung mãnh như mưa gầm gió thét, mới trông thì tưởng là không có lề lối gì cả, kỳ thực thì mỗi chiêu mỗi thức đều tinh diệu tuyệt vời bao gồm cả thô hào và tế nhị.
Tú Linh nhớ lời Vô Tâm dặn quả nhiên chỉ dùng thân pháp nhẹ nhàng, chập chờn lẩn tránh trong màn chưởng ảnh của đối phương. Thỉnh thoảng cũng có đánh ra một chiêu nhưng chỉ đánh đến nửa chừng lại thu về, bộ vị xuất chiêu của nàng rất kỳ lạ, ít thấy ở trong vũ lâm.
Chiêu thức của Triệu Liệt Bân khác nào như nước sông Trường Giang cuồn cuộn chảy xuống không ngừng. Nhưng Điền Tú Linh thân hình khéo léo, chẳng khác gì con cá “lư” bơi ngược dòng sông, dẫu dồn hết nước sông cũng không ngăn cản nổi.
Bọn Cái Bang đứng ngoài xem, sắc mặt đều lộ vẻ âm trầm, bốn mặt chỉ nghe thấy tiếng quyền phong vù vù, áo quần phấp phới, lừa kêu dậy đất, ngựa hí vang trời, không khí đấu trường mười phần nghiêm trọng.
Bạch Đại tiên sinh đang lắng hết tinh thần theo dõi trận đấu, chợt nghe Âu Dương Đình dùng thuật “Truyền âm nhập mật” nói:
– Không ngờ một tên thư đồng oắt tì mà công phu đã cao thâm tới bực ấy? Anh chàng công tử kia xem chừng cũng không phải tay vừa. Lát nữa đại kha đấu với hắn cũng nên lưu ý.
Bạch Đại tiên sinh gật đầu. Bùi lão tam chợt nói:
– Tên thư đồng chiêu thức quả có mới lạ quỉ bí nhưng có vẻ hơi yếu, giống như con gái. Nếu vị công tử kia lát nữa cũng dùng những chiêu thức đó, đại kha chỉ nên dùng những chiêu hùng hồn trầm ổn mà đối địch, lấy chậm chế nhanh, lấy cương khắc nhu tất phải thắng.
Bạch Đại tiên sinh cũng gật đầu nhưng không nói gì cả.
Trong lúc ấy Điền Tú Linh với lão Triệu càng đấu càng mãnh liệt, trải qua một thời gian gắng sức mà chiêu thức của Triệu Liệt Bân vẫn không hề giảm sút, lực lượng chân khí tiềm tàng trong nội thể của ông ta giống như nước nguồn, nguyên nguyên bất tuyệt, dùng không cạn, lấy không hết.
Tú Linh nghĩ thầm: “Ông già này nội lực thật kinh hồn, coi chừng ông ta có thể đấu một ngày một đêm nữa cũng được. Nội lực của ta không đủ, làm sao mà chống cự lại được? Chi bằng ta dùng chiêu thức quỉ bí, cố thắng lấy một chiêu xem sao?”
Nàng nghĩ tới đấy bất giác quên phứt cả lời dặn của Nhâm Vô Tâm. Giữa lúc đó lại thấy Triệu Liệt Bân cong năm ngón tay lên như cái thùng, dùng chiêu “Xích thủ bát long” chĩa ra túm lấy vai bên trái và sườn bên phải của Tú Linh.
Chiêu thức của ông ta vốn dĩ vẫn uy mãnh cương liệt, lần này lại thấy đối phương từ lúc đánh đến giờ chưa tùng hồi thủ lần nào, lại càng không cần gìn giữ, bèn vươn hai tay đánh ra hai nơi, thành thử trước ngực bỏ trống.
Tú Linh không hề do dự lập tức xoay mình lại đánh ra một chưởng, xuyên qua chi phong của Triệu Liệt Bân, tay trái cong lại đánh vào uyển mạch của lão. Triệu Liệt Bân quát to một tiếng, hai bàn tay cùng khép lại giữ không môn, bắt tay địch, biến chiêu nhanh như điện chớp.
Tú Linh mừng thầm nghĩ bụng: “Chính ta chỉ cần có thế”. Nàng vừa nghĩ xong, lập tức cũng biến chiêu, tới khi chiêu của Triệu Liệt Bân dùng đã hết đà, nàng mới thốt nhiên hạ tay phải xuống vạch chéo một nhát theo hình nửa vầng trăng, điểm thật nhanh vào đại huyệt “Khúc trì” ở hai khuỷu tay của Triệu Liệt Bân, tay trái vung lên nghiêng bàn tay chặn đường tháo lui của đối thủ.
Một chiêu ấy gồm cả công lẫn thủ, bề ngoài trông tuy không có gì là đặc biệt, kỳ thực thì kỳ quỉ vô cùng, dù chưởng chiêu của Triệu Liệt Bân biến hóa thế nào cũng khó lòng tránh thoát được chiêu “Thiên la địa võng” ấy.
Chỉ thấy Triệu Liệt Bân buông thõng hai tay xuống, ép sát vào thắt lưng và hai bên đùi. Tú Linh thấy đối phương tuy tránh được chiêu ấy, nhưng toàn thân từ trên xuống dưới sơ hở rất nhiều, trong bụng càng mừng nghĩ thầm: “Biến chiêu cái kiểu ấy, chỉ tổ mua lấy cái chết”. Hai tay lập tức đưa lên định hạ sát thủ.
Không ngờ trong khoảng thời gian nháy mắt đó, Triệu Liệt Bân thốt nhiên đứng thẳng người như cây gỗ, ngã về phía sau hai chân thừa thế đá liên tiếp luôn bảy cái. Đại phàm công phu “Thiết bản kiều” toàn nhờ ở sự vững chắc, hai chân phải như đóng đinh xuống đất, thân hình mới không bị đổ. Không ngờ trong trường hợp ấy, Triệu Liệt Bân vẫn còn có thể giơ chân đá địch thủ được.
Tú Linh đã cầm chắc phần thắng nên sơ ý không đề phòng, lúc này trong bụng kinh sợ, chân tay luống cuống, đành phải nhảy lùi lại mấy bước. Không dè Triệu Liệt Bân trong khi đá liên hoàn luôn bảy đá, thân hình đã từ từ đứng dậy, đá tới cái thứ năm thì hai cánh tay đặt sát hai bên đùi lúc nãy, thốt nhiên vung lên phối hợp với công thế của đôi chân, chia ra đánh vào đầu bên trái và sườn bên phải của Tú Linh.
Chỉ trong thoáng chốc, một chiêu ông ta đã biến đổi tới bốn thức, đánh vào năm nơi trên, giữa, dưới, bên trái, bên phải của địch thủ. Tú Linh sợ quá liệu khó lòng tránh thoát, trong bụng chợt nảy ý ác, định thi triển một chiêu cực kỳ lang độc quyết cùng đối phương đồng quy ư tận. Nhưng vì nàng dùng sức còn kém đối phương xa, nên phần thua đã nắm chắc.
Giữa lúc Nhâm Vô Tâm vừa biến sắc mặt định xông vào, thì Bạch Đại tiên sinh đã nhanh như một mũi tên lao vụt tới, miệng thì quát:
– Dừng lại!
Hai tay đã dang ra ngăn giữa Triệu Liệt Bân và Điền Tú Linh. Tú Linh thừa dịp bước lùi lại phía sau, Triệu Liệt Bân cũng bị Bạch Đại tiên sinh đẩy ra khỏi vòng chiến. Ta nên biết ông ta đã giao du với Triệu Liệt Bân mấy chục năm trời, cùng tập vũ công một nhà, nên chiêu thức gia số của Triệu Liệt Bân thế nào, ông đã biết rõ lắm nên vừa ra tay giải ngay được nguy cơ, nếu là người khác dù vũ công có cao hơn ông ta, cũng không thể chỉ trong nháy mắt đã gỡ ngay được chiêu thức của hai người đang quyết liều một sống một chết.
Triệu Liệt Bân quát to một tiếng, lảo đảo lùi lại mấy bước mới đứng vững thân hình, miệng còn nghiến ngẫm:
– Đại kha kỳ quá, tiểu đệ rõ ràng đã thắng đến nơi rồi, sao đại kha lại xuất thủ bang trợ địch nhân?
Bạch Đại tiên sinh mỉm cười nói:
– Trong vòng ba trăm chiêu, nếu tiểu đệ không thắng nổi người ta thì kể như là thua rồi!
Triệu Liệt Bân ngẩn người hỏi:
– Không lẽ đã quá ba trăm chiêu rồi cơ à?
Bạch Đại tiên sinh thủng thỉnh đáp:
– Khi hiền đệ đá tới cái thứ tư thì đã được ba trăm linh một chiêu rồi.
Vô Tâm bất giác khâm phục vô cùng, tự nghĩ: “Bạch Đại tiên sinh quả là một bậc nhân kiệt, xử sự không những đã chính trực vô tư mà nhỡn quang cũng minh mẫn hiếm có, đáng kính đáng phục!”
Triệu Liệt Bân chớp chớp đôi mắt cười một cách gượng gạo:
– Ba trăm chiêu, trời sao mà chóng quá vậy? Tiểu đệ cứ yên trí là mới có mấy chục chiêu thôi chứ!
Bạch Đại tiên sinh cười nói:
– Tại hiền đệ chuyên chú vào chiêu thức đối địch quá nên mới quên hết mọi sự. Nhưng đối phương mới một tí tuổi đầu đã làm cho hiền đệ phải chú hết tinh thần chống chọi, vẫn không thắng nổi, nội một điểm đó cũng đủ thấy hiền đệ thua rồi, dẫu có hạ độc thủ để cần lấy thắng cũng chẳng vẻ vang gì!
Triệu Liệt Bân đỏ mặt tía tai cúi đầu lẳng lặng, xem chừng trong bụng ông ta lấy làm khó chịu lắm. Tú Linh lại cảm thấy bất nhẫn, thỏ thẻ nói:
– Thực ra thì vũ công của Triệu đại hiệp còn cao hơn tôi nhiều lắm, tôi đâu có…
Vô Tâm cười ha hả ngắt lời:
– Ngươi biết thế thì tốt lắm, nếu lúc đầu ngươi dám trả đòn ngay thì chỉ trong vòng ba chục chiêu đã thua rồi!
Triệu Liệt Bân ngẩng lên trông chàng bằng một đôi mắt chứa chan cảm kích, chợt vùng cười ha hả:
– Rõ ràng là lão phu thua rồi, công tử hà tất còn phải thếp vàng vào mặt lão nữa! Từ nhỏ đến giờ lão đánh nhau có cả trăm ngàn trận, thua có được có, việc gì phải bận tâm?
Vô Tâm cũng thầm phục ông ta là người sảng khoái, chợt lại nghe Bạch Đại tiên sinh mỉm cười nói:
– Quí quản gia đã cao minh như vậy, công tử vũ công tất phải kinh người? Xin cho lão phu thỉnh giáo mấy chiêu tuyệt kỹ.
Vô Tâm cũng mỉm cười bước lên mấy bước, Bạch Đại tiên sinh nói:
– Lão phu hơn tuổi, xin nhường công tử xuất thủ trước!
Vô Tâm nói:
– Nếu vậy tại hạ xin thất lễ!
Rồi chàng bước ngang ra ba bước, đặt tay trước ngực ngưng thần đợi địch. Hai người đối diện nhìn nhau một lúc, chưa ai chịu ra tay trước. Lúc này mọi người đều đã đứng lùi ra xa hơn một trượng, quây thành vòng tròn, nín thở chờ hai cao thủ lâm trận. Không khí thật trầm trọng, trong ngoài im phăng phắc, thậm chí nghe rõ cả hơi thở của từng người.
Chợt nghe “vút” một tiếng, thì ra Bạch Đại tiên sinh thân hình đã bay xa bảy bước, ngón tay trái nhè nhẹ búng một luồng chỉ phong vun vút xé luồng không khí bay ra.
Chiêu “Đàn chỉ thần thông” nguyên là một chiêu dùng để dụ địch, tuy không hại được đối phương nhưng có thể nhử cho đối phương hốt hoảng đón đỡ, mình sẽ thừa thế phản kích. Đó chính là cái lối người đi săn ném đá cho chim sợ bay ra khỏi rừng, để dễ giương cung bắn. Bạch Đại tiên sinh quả xứng đáng là tuyệt đại cao thủ, kinh nghiệm giang hồ thật lão luyện.
Không ngờ Vô Tâm tuổi tuy còn nhỏ nhưng tâm cơ trầm ổn, lúc lâm địch vẫn ung dung đối phó, không hề hấp tấp luống cuống, khi thấy chỉ phong đưa tới chàng vẫn đứng yên không tránh, mục quang vẫn chiếu thẳng vào Bạch Đại tiên sinh.
Chỉ nghe vèo một tiếng chỉ phong đã tan biến vào không khí, hai người lại đối diện nhìn nhau. Giây lâu, cả hai mới dần dần nhúc nhích bước đi, họ đều cố tình di chuyển thân hình làm mê hoặc nhỡn quang của đối phương, rồi mới dùng định lực trầm ổn của mình, bức đối phương phải phân tán tinh thần, chờ đối phương phân tán tinh thần sau đó mới dùng chiêu thức lăng lệ ào ạt tấn công , làm cho đối phương trở tay không kịp vì thế hai người cùng co hai cánh tay lại, lấy bàn tay hộ trụ thân thể, con mắt không dám rời nhau khoảnh khắc.
Giữa bầu không khí căng thẳng đến tột độ đó, không ai để ý đến mấy cái bóng đỏ vừa hiện ra trên nền tuyết trắng ở cách đấy một quãng xa xa. Thời gian qua một lúc khá lâu, tâm thần mỗi người càng lúc càng trở nên trầm trọng. Cũng trong khi ấy, những cái bóng đỏ đã tiến lại gần chỉ còn cách chừng vài trượng. Thì ra đó là bốn vị Lạt ma áo đỏ.
Bốn vị cao tăng đưa cặp mắt sắc như dao nhìn khắp mọi người một lượt, nét mặt đều lộ vẻ kinh ngạc, đứng dừng cả lại xem. Chợt nghe Nhâm Vô Tâm quát sẽ một tiếng, thân hình vụt nhảy lên không.
Mọi người đều ngẩng đầu nhìn theo chỉ thấy tà áo chàng tung bay phấp phới, đứng dưới trông lên không nhận rõ bộ vị chưởng thế của chàng ở đâu nữa. Bạch Đại tiên sinh cũng hơi biến sắc mặt, thân hình bay vèo đi như một đám mây, cuốn ra khỏi vị trí. Vô Tâm nhảy lên cao tới ba trượng, chợt lộn người lại hai tay dang ra, nhằm đầu Bạch Đại tiên sinh nhảy xuống.
Thân hình của chàng cực kỳ mềm mại nhẹ nhàng, không khác gì một con rồng đang uốn khúc nhào lộn trên không, quả thật vô cùng đẹp mắt. Bọn Cái Bang tứ lão đều đưa mắt nhìn nhau vừa kính phục, vừa lo lắng.
Bọn Quan Đông thất tiên trố mắt ra nhìn, xương sống lạnh toát. Điền Tú Linh quả tim cũng đập thình thình, vì lần này là lần thứ nhất mới được trông thấy Nhâm Vô Tâm thi triển thân pháp kinh hồn như vậy. Ngay cả bốn vị Lạt ma hồng y đứng ngoài xem cũng cảm thấy kinh dị, không ngờ vũ lâm quan nội lại có những cao thủ tuyệt vời như thế.
Chỉ trong nháy mắt đã thấy Vô Tâm lăng không đưa hai chưởng ra, mới trông thì tưởng là “Thất cầm thần chưởng” của Bắc Thiên sơn, nhưng nhìn kỹ thì chiêu thức còn cao hơn chưởng pháp Thiên sơn nhiều. Bạch Đại tiên sinh càng đánh càng nhanh, thốt nhiên vung mạnh hai tay, thân hình đã nhẩy lên khỏi mặt đất.
Tình hình lúc đó viết ra thì tỉ mỉ dài dòng, kỳ thực sự việc xảy ra chỉ trong chớp mắt. Trong lúc hai người một lên một xuống gặp nhau giữa lưng chừng trong một thời gian chớp nhoáng, người ta chỉ nghe thấy tiếng chưởng liên tiếp đánh ra vù vù.
Người không tinh ý tưởng là chỉ có một chưởng, thực ra trong cái chớp nhoáng đó, hai người đã trao đổi với nhau tới mấy chưởng. Mọi người ngẩng đầu trông theo thẩy đều giật mình biến sắc, nhưng ngay lúc đó hai bóng người đã dời ra hai ngả.
Nhâm Vô Tâm áo quần phấp phới lộn đi một vòng, rồi nhẹ nhàng rơi xuống đứng vào chỗ cũ. Bạch Đại tiên sinh thì bay ra tới hơn một trượng rồi mới rơi xuống, sắc mặt tươi tỉnh vừa rồi phút chốc đã biến thành u uất, ngực cũng phập phồng thở mạnh. Bọn người đứng xem toàn là hạng cao thủ, nên đã nhận ra Bạch Đại tiên sinh chân lực đã bị thương nhẹ đang phải vận khí điều tức.
Nhâm Vô Tâm cũng không thừa thế truy kích, đủ hiểu là chàng vẫn có ý nhường. Âu Dương Đình mắt sáng như điện đã thấy rõ tình hình, trong bụng ông ta tuy cũng cảm kích Vô Tâm là người có độ lượng, nhưng vì thanh danh Cái Bang ngũ lão mấy chục năm trời nên không muốn cho Bạch Đại tiên sinh nhận thua ngay, chỉ lẳng lặng đứng im.
Bạch Đại tiên sinh vừa điều tức xong, chợt lại xông vào tay trái dùng quyền, tay phải dùng chưởng đánh thẳng vào ngực và bụng Vô Tâm. Ông ta không nỡ phụ lòng mong mỏi của Âu Dương Đình, trong bụng tuy biết là vừa rồi mình đã bị thua nên lòng tranh thắng cũng bị sự xấu hổ làm nhụt bớt, vì vậy trong khi ra tay cũng không dè dặt quá như trước nữa.
Không ngờ trong bụng đã không lưu ý đến sự được thua, thì chiêu thức cũng trở nên linh lợi nhẹ nhàng, chỉ trong nháy mắt ông ta đã tấn công được bảy chiêu. Vô Tâm đã nắm chắc phần thắng, nhưng lúc này cũng không dám sơ hốt, trước hết lấy thế cho vững ung dung đón đỡ, chiêu thức thật là kín đáo không còn sơ hở nào.
Âu Dương Đình thấy chàng thủ thế nghiêm mật như vậy, bất giác cũng phải khen thầm. Thoắt chàng đã hồi thủ được ba chiêu, từ thủ biến ra công chiêu thức biến hóa, chỉ hay ở chỗ tự nhiên, không một vẻ gì là gượng ép. Đấu hết mười chiêu, Bạch Đại tiên sinh và Âu Dương Đình đều nhận ra rằng vũ công chiêu thức của chàng khác hẳn tên thư đồng lúc nãy.
Càng làm cho người ta kinh sợ hơn nữa là chiêu thức của chàng tuy đã tới tuyệt đỉnh của bốn chữ “lăng lệ, tấn tốc”, nhưng mỗi khi phóng chưởng hình như chàng vẫn chưa dùng hết sức, không ai hiểu trong mình chàng thiếu niên còn ẩn tàng bao nhiêu tiềm lực?
Đàn ngựa đứng trên mặt tuyết vì bị rét cóng, kêu không thành tiếng lúc này cũng bị kinh hoảng bởi hai đấu thủ thân hình bay qua lộn lại, chưởng phong chưởng ảnh vù vù nhấp nhoáng, bèn nhẩy loạn cả lên, chân gõ xuống đất cồm cộp, làm cho tuyết dưới đất bắn lên như mưa.
Trong lúc đàn ngựa lừa nhốn nháo kinh hoàng như thế, thì bọn người đứng xem trái lại, người nào cũng đứng ngây như pho tượng đá, bao nhiêu tinh thần đều đổ dồn cả vào chiến trường. Bên ngoài xảy ra sự gì họ cũng không biết, thậm chí đến bốn vị Lạt ma áo đỏ chỉ đứng cách họ có hơn một trượng, mà cũng không một người nào chú ý.
Vô Tâm và Bạch Đại tiên sinh chiêu thức đều cực kỳ thần tốc, chỉ trong khoảnh khắc đã đấu được mấy trăm chiêu. Tấm áo dài màu da đồng của Bạch Đại tiên sinh lúc này đã ướt đẫm mồ hôi dính sát vào lưng. Nhâm Vô Tâm thì sắc mặt vẫn giữ vẻ ung dung bình tĩnh. Tú Linh trông theo thân hình tiêu sái của chàng, bất giác trên môi cũng nở nụ cười tán thưởng.
Bọn “Phá Vân Thất Tiên” sắc mặt đều lộ vẻ kinh ngạc, họ đã từng nghe thanh danh “Cái Bang ngũ lão” từ lâu, mà ai có ngờ đâu một cao thủ danh tiếng lừng lẫy giang hồ như Bạch Đại tiên sinh mà lại bị thua bởi một kẻ thiếu niên vô danh tiểu tốt như Nhâm Vô Tâm.
Tú Linh ngẩng đầu nhìn bọn Cái Bang tứ lão còn lại, thấy sắc mặt bốn người đều tỏ vẻ nóng lòng sốt ruột, bất giác than thầm: “Mấy vị tiền bối trong Cái Bang ngũ lão thật đáng kính đáng phục, nếu phải là người khác thì khi thấy đại kha sắp bị thua đến nơi, tất phải xông vào đánh hôi để gỡ thể diện, nhưng đằng này họ chỉ đứng ngoài bực tức ngấm ngầm thôi, đủ hiểu họ là hạng người thế nào?”