Tuyệt Kiếm Đoạn Trường Nhai

Chương 6 - Thông Thiên Bửu Long

trước
tiếp

Thật ra ngay khi vừa trông thấy cảnh trí của Già Đương Tự cũng đã có ý nghĩ được trọn đời sống bình yên tại đây, song đó là mình cam tâm tự nguyện chứ không phải bị người dùng thủ đoạn làm hại.

Lão hòa thượng công lực cao thâm thế kia, muốn phản đối lão ta, đó thật là một điều hoàn toàn vô vọng.

Lý Thuần Như cởi áo cà sa để lên bàn, chợt nhớ hai quyển kinh Linh Tàng Bửu Lục hãy còn trong tay mình, hiện mình tuy võ công đã mất, nhưng nếu có kỳ thư võ học tuyệt đỉnh Linh Tàng Bửu Lục trong tay, tập luyện vài năm có lẽ võ công sẽ càng cao hơn trước.

Nghĩ đoạn, Lý Thuần Như lại cảm thấy vui mừng, bèn lấy hai quyển kinh Linh Tàng Bửu Lục ra, thấy ngoài bìa ghi rõ là quyển thứ nhất và quyển thứ nhì, tiện tay giở ra, trang đầu tiên toàn là Tạng Văn, Lý Thuần Như hoàn toàn không hiểu, biết là do Phật sống Đan Châu Nhĩ đã viết, cũng may bản thân kinh thư là hán tự, còn có thể xem hiểu, lại sợ xem giữa chừng thì bị lão hòa thượng thu hồi, bèn quyết định sao chép lại toàn bộ.

May thay, trong phòng có sẵn giấy bút, suốt một đêm, Lý Thuần Như đã chép xong hết hai quyển kinh Linh Tàng Bửu Lục và kể cả Tạng Văn do Phật sống Đan Châu Nhĩ đã viết, chàng cũng y theo từng nét viết lại, bởi chàng nghĩ mình sẽ ở đây chẳng rõ đến bao giờ, sớm muộn gì cũng học biết Tạng Văn, khi luyện tập cũng tiện lợi hơn.

Hôm sau, lão hòa thượng lại đến quả nhiên lão thu hồi hai quyển Linh Tàng Bửu Lục.

Lý Thuần Như cười thầm, nghĩ nếu một mai mình luyện thành võ công, không giết chết lão giặc trọc này để tiết hận thì cũng uổng làm người.

Liên tiếp mấy hôm, Lý Thuần Như đều mặc ai đặt đâu ngồi đó như là bù nhìn.

Một tháng trôi qua, Lý Thuần Như đã hiểu rõ giáo tông cần phải làm gì, đằng nào mọi sự đều do người điều khiển, và lão hòa thượng như cũng hoàn toàn yên tâm, Lý Thuần Như mới dám lén lút nghiên cứu Linh Tàng Bửu Lục vào lúc đêm đến.

Lý Thuần Như tuy đã có căn cơ về võ học cũng khá, song Linh Tàng Bửu Lục là một bộ kinh điển tinh ảo nhất trong Phật môn, có thể dẫn thẳng đến thân pháp kim cang bất hoại, Lý Thuần Như trong nhất thời làm sao thông hiểu được?

Song chàng quyết không sờn lòng, mỗi ngày chỉ cần có thời gian rảnh là lén lút luyện tập, thấm thoát nửa năm đã trôi qua.

Trong thời gian ấy, toàn thể tăng nhân áo vàng trong chùa, Lý Thuần Như chỉ có thể trò chuyện với một mình lão hòa thượng già ấy mà thôi.

Lý Thuần Như cũng đã biết lão hòa thượng ấy pháp danh Hiển Thắng, là trưởng lão Già Đương Tự, địa vị trong giáo chỉ thấp hơn mỗi mình giáo tông.

Trong nửa năm qua, Lý Thuần Như tuy ngày đêm không ngừng nghiên cứu Linh Tàng Bửu Lục, song kết quả thu được cũng chẳng nhiều. Chàng tự biết một môn võ học tuyệt đỉnh như Linh Tàng Bửu Lục, đâu thể chỉ một hai năm là đã có thể am tường.

Ngoại trừ thỉnh thoảng chàng không khỏi nhớ đến song thân và Đào Lâm, ở trong Già Đương Tự này tuyệt đối không phải lo nguy hiểm đến tính mạng. Mặc dù khi sờ lên cái đầu nhẳn bóng của mình, chàng thấy ở đây lâu dài không phải là thượng sách, song cũng quen dần với cuộc sống bình lặng trong hiện tại, một lòng một dạ chuyên cần nghiên cứu Linh Tàng Bửu Lục.

Trong khi Lý Thuần Như sống êm đềm trong Già Đương Tự thì chốn võ lâm Trung Nguyên lại xảy ra sóng gió kinh hoàng, nguyên nhân bắt nguồn chính là từ gia đình họ Thương ở Tứ Xuyên, một thế gia võ học lừng danh trên giang hồ tất cả hơn sáu mươi người thảy đều thảm tử.

Người phát hiện vụ thảm sát tại Thương Gia Bình là Kim Thần Ngũ Lâm, một hảo hớn vùng Hồ Bắc, một thân hoành luyện ngoại công vang danh võ lâm.

Ngũ Lâm bởi có việc ngang qua Tứ Xuyên, y rất có giao tình với những người thuộc đời thứ nhì thứ ba của nhà họ Thương nên tiện đường đến viếng thăm, song chưa đến Thương Gia Bình đã nhận thấy tình hình khác lạ, trên đường đầy xác chó và gà, thảy đều dập xương gãy cốt.

Ngũ Lâm nhìn qua biết ngay những con vật ấy là do cao thủ nội gia cực cao đã dùng nội lực đánh chết, không khỏi hết sức lấy làm lạ, bởi kẻ có nội công tuyệt đỉnh thế này đều là cao thủ võ lâm, tôn sư một giáo phái, vì sao lại hạ độc thủ với súc vật như thế này?

Trên đường đi, xác động vật mỗi lúc một nhiều, cả trâu bò heo ngựa cũng phơi xác khắp nơi.

Kim Thần Ngũ Lâm càng thêm kinh ngạc, vừa phi thân vào đến trong trang đã phát hiện xác người ngổn ngang, cả trang viện không còn một người sống sót.

Ngũ Lâm kinh hãi tột cùng, lập tức quay người bỏ đi. Chưa đầy nửa tháng sau, toàn võ lâm đều đã hay biết về vụ thảm sát tại Thương Gia Bình.

Thế nhưng vụ thảm sát ấy đã do ai gây ra? Không một ai được rõ!

Đương nhiên, trên thực tế chẳng phải không một ai biết, ít ra cũng có bốn người biết rõ, đó là Ngân Lệnh Huyết Chưởng Dị Cư Hồ, Đào Lâm cùng hai người may mắn sống sót là Thương Chân và Thương Phát.

Vào hai hôm trước khi Ngũ Lâm đến Thương Gia Bình, bấy giờ tất cả mọi người trong nhà họ Thương vẻ mặt đều hết sức nặng nề, bởi họ phóng hỏa thiêu đốt căn nhà đá đã hai ngày nhưng tiếng cười quái dị của Dị Cư Hồ vẫn không ngớt từ trong lầu đá vọng ra.

Mặc dù ngôi lầu đá này hết sức kiên cố, mỗi tảng đá đều nặng trên ngàn cân, với sức người tuyệt đối không thể thoát ra được, song mọi người cũng không nén được sợ hãi, bởi danh tiếng của Ngân Lệnh Huyết Chưởng Dị Cư Hồ quả thật quá lẫy lừng, ngay cả Ma Giáo từng làm khiếp đởm võ lâm khi xưa mà còn bị tiêu tan dưới tay lão ta, thử nghĩ đã bao năm trôi qua, võ công Dị Cư Hồ hiện nay cao siêu đến mức độ nào.

Thế nhưng, mọi người không ai chịu tỏ ra mình hèn nhát, trái lại còn cố ra chiều phấn khởi, bảo là khi Dị Cư Hồ chết đi uy danh của Thương Gia Bình sẽ vang lừng đến tột bậc.

Trong số đó chỉ có hai người, Thương Chấn và Thương Phát tuy trẻ tuổi nhưng rất hiểu biết. Sau khi phóng hỏa thiêu đốt lầu đá cả ngày trời mà bên trong vẫn vọng ra tiếng cười của Dị Cư Hồ, hai người đã khuyên Thương Linh hãy ngưng ngay việc phóng hỏa và nhận lỗi với Dị Cư Hồ, chỉ cần Dị Cư Hồ chịu hứa là sau khi ra khỏi lầu đá sẽ không trả thù thì hãy thả lão ta ra.

Nhưng Thương Linh đã không đồng ý. Hai người âm thầm bàn bạc, đều nhận thấy việc giam hãm Dị Cư Hồ trong lầu đá không phải là một điều tốt lành, vừa lúc Thương Gia Bình cần phái người đi mua vật dụng, hai người bèn nhận công tác rời khỏi Thương Gia Bình.

Nói về Dị Cư Hồ và Đào Lâm bị giam trong lầu đá, thấy người trong Thương Gia Bình đã phóng hỏa đốt lầu, Dị Cư Hồ tức giận đến tột độ.

Song lão biết vách đá ngôi lầu này rất dày, thiêu đốt hai ba ngày chưa chắc đã thấu, chỉ cần trong thời gian ấy nghĩ ra được cách thoát thân thì vẫn có thể tìm ra được cách báo thù tiết hận, nóng nảy cũng vô ích, nên lão liền bình tâm trở lại.

Còn Đào Lâm thì nghĩ tuy mình chết đi, nhưng Lý Thuần Như sẽ được yên ổn, nàng lại cảm thấy vô vàn an ủi, yên lặng ngồi dưới đất, chỉ miên man nhớ về những cảnh tượng bên nhau với Lý Thuần Như.

Đến đêm, từ lỗ nhỏ trên nóc lầu nhìn ra, ánh lửa rực đỏ cả bầu trời.

Dị Cư Hồ chấp tay sau lưng đi tới đi lui, bỗng buông tiếng cười vang, lướt đến bên Đào Lâm nói:

– Phu nhân, Dị mỗ đã có cách thoát thân rồi.

Đào Lâm giật nẩy mình, nghĩ nếu thoát được lầu đá này, rồi đây sẽ lại càng gặp nhiều đau khổ. Song nghĩ lại, làm sao có hy vọng thoát khỏi được ngôi lầu đá này?

Nên nàng ơ hờ nói:

– Phu quân, định số đã an bài, chúng ta phải táng thân tại đây rồi, phu quân nói vậy để an ủi thiếp chứ gì?

Dị Cư Hồ cười nói:

– Dị mỗ đã nói có cách thoát thân là có cách thoát thân, hà tất dối gạt phu nhân làm gì?

Đào Lâm kinh hãi:

– Thoát thân bằng cách nào?

Dị Cư Hồ cười rạng rỡ:

– Bọn nhà họ Thương hấp tấp quá, nếu họ cứ bỏ mặc chúng ta ở trong này, không ngó ngàng đến, tối đa một tháng là chúng ta sẽ chết đói. Nhưng họ lại quá nóng nảy, phóng hỏa thiêu lầu, như vậy đâm ra lại tạo con đường sống cho chúng ta.

Đào Lâm nghe vậy vô cùng thắc mắc, nghĩ vách lầu đá tuy dày, nhưng thiêu đốt hai ba ngày cũng sẽ nung đỏ hết, lúc ấy còn nấp vào đâu được nữa? Đó chẳng phải mơ tưởng hão huyền là gì?

Do đó, nàng cũng chẳng màng đến. Nhưng thấy Dị Cư Hồ quả là vui mừng thật sự chứ không phải là giả dối, nghĩ có lẽ lão ta cả đời cao ngạo, nay lại bị lâm vào hoàn cảnh tuyệt vọng nên mới có vẻ thất thường như vậy.

Đêm hôm ấy, Dị Cư Hồ đã ngủ một giấc say sưa. Hôm sau, trong lầu đá đã nóng rực, Dị Cư Hồ phi thân lên sờ vào vách đá, cười quái dị nói:

– Vẫn chưa đủ nóng.

Đào Lâm thấy vậy càng cho là mình đã nghĩ đúng. Lửa rừng rực lại thiêu đốt một ngày, trong lầu đã nóng đến mức cơ hồ ngạt thở.

Đào Lâm tình cờ chạm vào vách đá, nóng đến mức cơ hồ bỏng da, nhưng Dị Cư Hồ lại càng thêm vui mừng, thỉnh thoảng lại buông tiếng cười vang. Đành rằng nội công lão tinh thâm vô cùng, song lúc này cũng toàn thân ướt đẫm mồ hôi.

Đào Lâm nóng đến cơ hồ ngạt thở, nàng hít sâu một hơi không khí, lẩm bẩm nói:

– Thế là hết, cuộc đời kể như kết thúc tại đây.

Dị Cư Hồ nghe vậy liền đến cạnh nàng, cười nói:

– Phu nhân sao lại nói vậy? Chúng ta đã sắp có thể thoát ra khỏi đây rồi.

Đào Lâm ngẩng lên, chỉ thấy ánh mắt Dị Cư Hồ rực lên vẻ kỳ dị, chứng tỏ trong lòng lão rất là vui mừng, và trong ánh mắt ấy còn ngập đầy sát cơ, chứng tỏ trong lòng lão đã tính đến việc báo thù tiết hận.

Đào Lâm kinh ngạc hỏi:

– Phu quân… có cách gì để thoát thân?

Dị Cư Hồ cười ha hả:

– Đương nhiên là mở rộng cửa đi ra rồi.

Đào Lâm phì cười:

– Phu quân đã có thể mở cửa, tại sao không mở sớm để khỏi phải chịu khổ sở thế này?

Dị Cư Hồ lại cười:

– Hiện thời cơ chưa đến, không nên vọng động.

– Chỉ sợ khi thời cơ đến là chúng ta đã trở thành tro than rồi.

– Phu nhân không tin chúng ta có thể thoát thân ư?

Đào Lâm quả quyết:

– Không tin!

Dị Cư Hồ đưa mắt nhìn Đào Lâm một hồi mới hỏi:

– Xem ra phu nhân rất muốn chết tại đây phải không?

Đào Lâm vốn rất ghê sợ Dị Cư Hồ, song lúc này hai người đã sắp chết đến nơi, nỗi sợ hãi trong lòng đã tiêu tan, nên cười to nói:

– Đúng vậy!

Dị Cư Hồ sầm mặt:

– Vì sao?

Đào Lâm càng cười to hơn:

– Vì sao ư? Đương nhiên là Đào Lâm này chết tại đây thì tốt hơn, chả lẽ lại làm vợ lão suốt đời? Chả lẽ lại còn mong muốn lão thoát khỏi đây để rồi sát hại Lý Thuần Như hay sao? Ha ha, chúng ta dẫu sau cũng là vợ chồng, chết chung với nhau tại đây thì cũng tốt thôi.

Dị Cư Hồ mặt lạnh như tiền nghe nàng nói xong mới lạnh lùng nói:

– Phu nhân đã hoàn toàn sai rồi.

Đào Lâm nhoẽn miệng cười thật ngọt:

– Thiếp thật đã sai thế nào? Xin phu quân chỉ giáo cho!

Dị Cư Hồ mắt rực tinh quang:

– Tối đa một giờ nữa là chúng ta đã có thể ra khỏi đây, chúng ta vẫn sẽ tiếp tục là vợ chồng, và Lý Thuần Như cũng sẽ phải chết dưới tay Dị Cư Hồ này.

– Những mong là vậy.

Dĩ nhiên đó là câu nói mai mỉa của Đào Lâm, bởi nàng nhận thấy cho dù võ công Dị Cư Hồ cao đến mấy thì cũng không thể thoát khỏi ngôi lầu đá này được.

Thế nhưng, nàng nghe Dị Cư Hồ nhắc đi nhắc lại là nhất định có thể thoát thân, cũng không khỏi hết sức thắc mắc, nên lại hỏi:

– Nếu một giờ nữa đã có thể thoát khỏi đây, hãy nói thử xem chúng ta sẽ thoát thân bằng cách nào?

Dị Cư Hồ cười sắc lạnh:

– Dị mỗ đã nói rồi, chúng ta sẽ đẩy cửa ra, ngang nhiên đi ra.

Đào Lâm nghe vậy liền nghĩ, lúc này trong đây tuy nóng khủng khiếp, nhưng ngay cả chính mình còn chưa mấy lý trí, đương nhiên Dị Cư Hồ cũng chẳng đến nỗi thất thường, chả lẽ lão quả có cách thoát ra từ cửa thật ư?

Lại nghe Dị Cư Hồ cười nói:

– Phu nhân, Dị mỗ cũng xin nói thật, nếu bọn nhà họ Thương mà không phóng hỏa, chúng ta thật chẳng thể nào thoát khỏi đây được, nhưng bọn họ đã phóng hỏa, như vậy lại đâm ra cứu giúp chúng ta.

Đào Lâm vẫn chưa hiểu, chỉ trố mắt nhìn Dị Cư Hồ.

Dị Cư Hồ hai tay chắp sau lưng, tuy khắp người đã ướt đẫm mồ hôi, song lại ra chiều rất vui mừng, nói:

– Phu nhân, cánh cửa đá tuy nặng, nhưng Dị mỗ thừa sức đẩy mở, vậy mà chúng ta vẫn bị giam hãm trong đây, phu nhân có hiểu vì sao không?

Lúc bước chân vào đây, Đào Lâm có trông thấy trên cửa đá có xích sắt nối liền, bèn nói:

– Dĩ nhiên là vì trên cửa có khóa xích sắt nên chúng ta mới không đẩy được.

Dị Cư Hồ cười vang:

– Đúng vậy, lửa đã cháy suốt một ngày đêm, có lẽ xích sắt cũng sắp nóng chảy hết ra rồi.

Đào Lâm nghe vậy liền vỡ lẽ, với sức lửa mạnh thế này, quả là xích sắt sẽ nóng chảy, và một khi xích sắt đã nóng chảy, cửa đá dĩ nhiên là có thể đẩy mở.

Đào Lâm vừa nghĩ đến đó, bất giác thừ ra tại chỗ.

Dị Cư Hồ lại đi tới đi lui, hơn nửa giờ sau, bỗng cất tiếng huýt dài, đoạn nói:

– Có lẽ được rồi.

Lướt nhanh đến bên thi thể hai vợ chồng Lý Viễn, lão cười ghê rợn nói:

– Lý bằng hữu, còn phải nhờ tôn giá một phen nữa.

Đoạn lão vươn tay xách hai tử thi lên, xông đến gần cửa “bộp bộp” hai tiếng, đã dán hai tử thi vào vách đá. Lập tức, tiếng “xèo xèo” vang lên và bốc mùi khét gớm ghiếc.

Dị Cư Hồ hai tay đè lên hai tử thi làm đệm, chân khí vận chuyển, buông tiếng quát to, dồn hết sức bình sanh đẩy mạnh, chỉ nghe “kẹt” một tiếng, cánh cửa đá quả nhiên đã bị đẩy ra nửa thước.

Cánh cửa đá vừa bật mở, lửa khói liền tức thì ập vào. Dị Cư Hồ lại ra sức đẩy mạnh, cửa đá lại mở rộng thêm một thước, rồi mới lùi nhanh ra sau, mặc dù lão hành động cực nhanh, song đầu tóc và y phục cũng bị bốc cháy vài chỗ.

Dị Cư Hồ vừa lui ra, liền lập tức nhào lăn xuống đất, dập tắt lửa trên mình, đoạn cắp lấy Đào Lâm dưới nách, cất tiếng huýt vang, người như gió cuốn lao vào lửa đỏ.

Đào Lâm bị cắp dưới nách, chỉ nghe bên tai có tiếng gió vụt vù, rồi bỗng nhẹ người, đã lại trông thấy đất trời, và tiếng cười dài kinh tâm động phách của Dị Cư Hồ cũng liền tức thì vang lên, đến khi nàng định thần nhìn kỹ thì đã có năm sáu người bị chưởng lực của Dị Cư Hồ đánh bắn ra xa.

Những người trong Thương Gia Bình vốn đã nơm nớp lo âu, song nằm mơ cũng không ngờ Dị Cư Hồ lại từ trong lửa đỏ xông ra. Mặc dù trong số đó cũng có cao thủ bậc nhất, song bởi quá bất ngờ nên thảy đều thừ ra tại chỗ, mãi đến khi năm sáu người bị Dị Cư Hồ đánh chết mới giật mình bừng tỉnh, buông tiếng hô vang rồi bỏ chạy tán loạn.

Song Dị Cư Hồ đã thoát ra được, đâu còn để cho người của Thương Gia Bình có thể đào tẩu, trong tiếng cười dài vang dội, bỏ Đào Lâm xuống, người như làn khói lượn nhanh một vòng, lại có bảy tám người bị chộp trúng ngực, thảy đều hiện ra năm lỗ sâu hoắm, chết ngay tức khắc.

Dị Cư Hồ đầu tóc xõa tung, mồ hôi nhễ nhại, áo quần cháy nám và mặt mày đầy tro bụi, lão lướt đến đâu là xác người gục ngã đến đó, trông khủng khiếp hệt như ác ma.

Nhưng người trong Thương Gia Bình dẫu sau cũng chẳng phải hạng tầm thường, trong cảnh hổn loạn, chỉ nghe một giọng nữ lanh lảnh nói:

– Mọi người hãy bình tĩnh nào!

Rồi một người đàn bà trung niên tay cầm chùy đồng tám ngạnh tiến ra, chính là Thương Linh, theo sau là Thương Sở Bình và bốn cao thủ đời thứ hai.

Nhóm người này vừa hiện thân, tình hình liền lắng dịu khá nhiều, gần bốn mươi người còn lại cũng không hốt hoảng nữa, xếp thành hình vòng cung đứng sau lưng nhóm người mới xuất hiện.

Chỉ thấy Thương Linh nháy mắt ra hiệu với Thương Sở Bình. Thương Sở Bình hiểu ý, liền cùng hai mươi mấy người di chuyển sang bên hơn một trượng, thế là hình vòng cung đã trở thành hình vòng tròn, bao vây Dị Cư Hồ và Đào Lâm vào giữa, đồng thời mỗi người đều đã rút binh khí ra cầm tay.

Một trong hai tuyệt kỹ tổ truyền của Thương gia chính là Toàn Phong Chùy Pháp, lúc này mấy mươi người trong tay đều lăm lăm ngọn chùy đồng sáng loáng, dưới ánh nắng trông hết sức ngoạn mục. Qua đó chứng tỏ Thương gia quả có trình độ phi phàm về võ học, trong tình thế tệ hại như vậy mà cũng còn bày bố được một thế trận hết sức chặt chẽ. Phải chi lúc Dị Cư Hồ xuất hiện mà họ đã lập tức bày ra thế trận này ứng phó thì đâu đến nỗi chết nhiều người thế này.

Dị Cư Hồ quay người một vòng, buông tiếng cười dài, trong lòng cũng bội phục phần nào, trầm giọng nói:

– Ngôi lầu đá kiên cố thế kia mà còn chẳng giam được Dị mỗ, thế trận chùy đồng rời rạc thế này mà định giam hãm Dị mỗ ư?

Những người Thương gia im lặng nghe lão nói, họ thật chẳng sao hiểu nổi bằng cách nào mà Dị Cư Hồ ra khỏi được ngôi lầu đá, nên mọi người đều hết sức kinh hãi, chờ xem Thương Linh ứng phó thế nào.

Chỉ nghe Thương Linh nói:

– Dị tiên sinh quả nhiên thần thông quãng đại, thật khó ai bì kịp.

Dị Cư Hồ cười khẩy:

– Đến bây giờ mới dùng lời ngon ngọt với Dị mỗ thì đã quá muộn rồi.

Thương Linh biết Thương Gia Bình đã gặp đại kiếp, kéo dài thời gian cũng chẳng ích gì, nên cười khanh khách nói:

– Dị tiên sinh nghĩ chúng tôi phải dùng lời ngon ngọt, đó là tiên sinh đã nhầm rồi.

Vừa dứt lời đã chụm môi huýt dài, lập tức tám người cầm chùy đồng tiến tới mấy bước, buông tiếng quát vang, chỉ thấy ánh vàng lấp loáng, tám người đã nhất tề xông tới tấn công Dị Cư Hồ.

Toàn Phong Chùy Pháp của Thương gia gồm có tám chiêu, và tám người cùng lúc tấn công, mỗi người sử dụng một chiêu thức khác nhau, lại càng biến hóa vô cùng, khiến đối phương hoa mắt không biết đâu mà lường.

Nhưng Dị Cư Hồ chẳng chút nao núng, hai tay chắp sau lưng, ngoảnh đầu nói:

– Phu nhân, hãy cẩn thận.

Vừa dứt lời, tám người đã cùng lúc công đến, nhưng Dị Cư Hồ cũng đã nhanh nhẹn sấn tới một bước, vung tay chộp lấy một ngọn chùy đồng và đẩy mạnh sang bên, người ấy không kềm được, loạng choạng tạt sang bên hai bước “coong coong” hai tiếng, ngọn chùy đồng của y đã va vào chùy đồng của hai người khác, và khi đẩy, Dị Cư Hồ đã dồn nội lực vào chùy, thế là cả ba người cùng rú lên thảm thiết, ngã bật ra chết ngay tức khắc.

Trong khi ấy, năm người kia cũng đã lao tới, “bịch bịch” hai tiếng, hai ngọn chùy đồng đã trúng vào vai Dị Cư Hồ.

Nhưng Dị Cư Hồ sớm đã vận chân khí phòng bị, toàn thân rắn như sắt thép, hai ngọn chùy ấy chẳng những không đã thương được lão, trái lại chủ nhân của nó đã rú lên thảm thiết, bị sức phản chấn đẩy bật ra xa và ngã ngửa bất động.

Dị Cư Hồ thừa thế xoay người, vung tay đánh bật hai ngọn chùy đồng sang bên, ba người còn lại cũng liền nối gót theo sau năm người kia.

Khi nãy Thương gia tuy thiệt mạng mười mấy người, nhưng đó là trong lúc hổn loạn, mọi người chưa ai trông thấy Dị Cư Hồ đã xuất thủ ra sao.

Còn lúc này mọi người đang vây thành một vòng tròn, trông thấy hết sức rõ ràng tình trạng chết của tám người vừa qua, trước cái chết thảm thiết của người thân, mọi người vừa kinh hãi lại vừa tức giận, cùng đưa mắt nhìn Thương Linh.

Thương Linh lúc này cũng đã tiến ra nói:

– Tất cả cùng tiến lên.

Lập tức, tất cả mọi người nhất tề lao bổ vào, chỉ thấy ánh chùy loang loáng, cuộc hổn chiến diễn ra át liệt.

Dị Cư Hồ cất tiếng huýt dài liên hồi, chỉ đông đánh tây, chỉ nam đánh bắc, như hổ vào đàn cừu, không ai chống nổi, cao thủ Thương gia lần lượt gục ngã. Nhưng trong tình huống thế này, Dị Cư Hồ cũng khó thể bảo vệ cho Đào Lâm được nữa.

Đào Lâm vốn định đứng ngoài vòng chiến, nhưng mọi người xông vào tấn công, nàng chẳng thể không hoàn thủ. Sau khi đánh hạ một người, nàng đoạt lấy một ngọn chùy đồng cầm tay, tung mình ra ngoài.

Thấy Dị Cư Hồ đang ác chiến với mọi người, chợt động tâm nghĩ mình với Lý Thuần Như tình ý tuy thắm thiết, nhưng nay mình đã thất thân với Dị Cư Hồ, kiếp này ắt không thể kết tóc se duyên với Lý Thuần Như được nữa.

Song Dị Cư Hồ đã thoát thân, nhất định sẽ không buông tha cho Lý Thuần Như, nếu mình không nhân cơ hội này thoát khỏi sự kềm chế của Dị Cư Hồ, đi tìm Lý Thuần Như để bảo chàng lẩn tránh thì còn đợi đến bao giờ?

Vừa nghĩ đến đó, cõi lòng đã lịm chết của nàng liền tức thì sống lại, bởi nàng lại có ý nghĩ và mục đích sống, đó là phải tìm gặp Lý Thuần Như bằng mọi giá, để chàng không bị Dị Cư Hồ sát hại.

Khi nàng phóng ra ngoài, tuy cũng có vài người đuổi theo, nhưng Đào Lâm võ công vốn cũng chẳng kém, vượt vòng vây thoát ra khỏi Thương Gia Bình, ném bỏ chùy đồng, không màng chọn hướng phi thân phóng đi.

Một mạch vượt qua bảy tám dặm đường mới dám dừng chân, song ngay lập tức đã nghe tiếng huýt dài của Dị Cư Hồ và tiếng của lão gọi:

– Phu… nhân, phu… nhân!

Đào Lâm biết toàn Thương gia đã chết dưới tay Dị Cư Hồ, và hiện đang tìm kiếm nàng, đảo mắt nhìn quanh, thấy mình đang ở trong một sơn cốc nhỏ, không một chỗ nào có thể ẩn thân.

Nghe tiếng gọi của Dị Cư Hồ dần đến gần, Đào Lâm vô cùng lo lắng, vội chạy tiếp đến trước vài trượng, nhác thấy nơi xa có một hang động nhỏ trên vách núi, xem miễn cưỡng có thể chen vào, bèn bất chấp tất cả, phi thân lên chui vào ngay.

Nhưng hang động ấy thật quá nhỏ hẹp, nàng chui đầu vào, quả không còn cách nào quay người được nữa.

Chỉ nghe tiếng gọi của Dị Cư Hồ đã vào đến trong sơn cốc, và đượm vẻ tức giận nói:

– Phu nhân còn chưa hiện thân ư?

Đào Lâm nghe vậy biết ngay là Dị Cư Hồ chưa phát hiện ra mình nên không khỏi mừng thầm.

Dị Cư Hồ vào đến sơn cốc, thấy đây là một tử cốc không có lối ra, mặc dù cũng có trông thấy hang động nhỏ kia, nhưng không ngờ Đào Lâm đã trốn trong đó, ngỡ là mình đã lầm hướng, buông tiếng “hừ” hậm hực, mặt đầy tức giận quay trở ra.

Đào Lâm không biết Dị Cư Hồ đã bỏ đi hay chưa, ở trong hang động hẹp chờ rất lâu mới dám từ từ bò ra, hai khuỷu tay và đầu gối đều bị trầy trụa. Đào Lâm chỉ cầu mong đào thoát, đương nhiên là chẳng bận tâm đến chút thương tích xoàng ấy.

Ra khỏi động, Đào Lâm đứng thẳng lên, thấy trong sơn cốc im lìm không một tiếng động, biết Dị Cư Hồ đã đi xa rồi, bèn buông tiếng thở phào, vượt qua ngọn núi ấy đi về hướng bắc.

Đào Lâm bỏ trốn khỏi bàn tay Dị Cư Hồ là để tìm kiếm Lý Thuần Như, báo cho chàng để chàng lánh nạn. Nhưng Lý Thuần Như đang ở đâu? Đào Lâm không hề biết, nhưng khi hai người chia tay nhau là ở Ngân Hoa Cốc, nên Đào Lâm bèn quyết định đến Ngân Hoa Cốc một chuyến rồi hẵng liệu.

Nàng cũng biết, Dị Cư Hồ bị mình đào thoát, nhất định không chịu bỏ qua, ắt sẽ đi khắp nơi tìm kiếm mình.

Thế nhưng, mặc cho lão lòng đầy huyền cơ, thông minh tuyệt đỉnh, có lẽ cũng không bao giờ ngờ mình lại đến Ngân Hoa Cốc. Do đó, Đào Lâm hết sức yên tâm, ngày đi đêm nghỉ, gần mười hôm sau đã đặt chân trên vùng sa mạc Tây Vực, phóng mắt nhìn, cát vàng mênh mông bất tận.

Đào Lâm thấy sa mạc ngút ngàn, không khỏi lòng buồn vô hạn. Lúc nàng từ Ngân Hoa Cốc đến Tứ Xuyên cũng từng đi ngang bãi sa mạc này, khi ấy trên cỗ xe bốn ngựa cũng phải một ngày một đêm mới vượt qua được bãi sa mạc này.

Lúc bấy giờ nàng đã trở thành vợ của Dị Cư Hồ, sau khi qua khỏi sa mạc, đã nghe Dị Cư Hồ nói nếu lạc mất lối đi, bị giam hãm trong vùng sa mạc này, e cả đời cũng không thoát ra được.

Đào Lâm lúc ấy lòng đau buồn, dọc đường cũng trông thấy rất nhiều xương người và thú, nên đã có ấn tượng rất sâu đậm về những lời ấy của Dị Cư Hồ.

Thế nhưng, Đào Lâm cũng chỉ thoáng do dự rồi liền phóng đi vào sa mạc, bởi kiếp này nàng chỉ vì muốn cứu Lý Thuần Như mà sống, và chỉ cần cứu được Lý Thuần Như, kể gì một bãi sa mạc, cho dù núi đao biển lửa thì nàng cũng bất chấp.

Đào Lâm vừa phóng đi vừa toan tính về thời gian đã vượt qua bãi sa mạc này lần trước, bốn con tuấn mã bôn ba suốt một ngày một đêm, ít ra cũng trên ba trăm dặm đường, và nếu mình không ngưng nghỉ, có lẽ hai ngày hai đêm cũng có thể vượt qua được bãi sa mạc này.

Qua khỏi bãi sa mạc không xa là đến nơi nàng bị Dị Cư Hồ ép buộc thành hôn, khi đến đó là không còn cách Ngân Hoa Cốc bao xa nữa.

Lúc chiều tối, Đào Lâm bỗng nhận thấy cảnh tượng xung quanh khác lạ dị thường, nhưng cảm giác kỳ lạ ấy không sao diễn tả được, bởi chăúng có chút biến cố nào cả.

Đào Lâm tuy đang nóng lòng đi đường cũng phải dừng bước, bởi dù không hề có biến cố, song quá tĩnh lặng, tĩnh lặng đến lạ thường nên mới khiến người cảm thấy kinh ngạc.

Đào Lâm sau khi dừng bước, chỉ cảm thấy mình như đang ở trong một thế giới khác, tất cả đều rất quen thuộc, nắng chiều màu vàng, bầu trời cũng màu vàng, mặt đất cũng màu vàng. Những hạt cát trên mặt đất không chút động đậy, không chút tiếng động, xung quanh toàn một màu vàng, và tuy trời đất rộng bao la, nhưng nàng lại cảm thấy mình như đang bị giam trong một chiếc hộp vàng nhỏ hẹp.

Đào Lâm chẳng hiểu việc gì đã xảy ra, song nàng biết, hiện tượng kỳ dị này quyết không phải là một dự báo tốt lành.

Nàng tiến tới một bước, dấu chân liền bị cát lấp mất. Nàng lại đi thêm vài bước, bỗng một làn gió nhẹ thổi đến, nàng hít sâu vào một hơi không khí, lại tiếp tục phóng đi, song vừa đi được vài trượng thì trời bỗng tối sầm, và sắc vàng bốn bề cũng trở nên đậm đặc như keo sơn.

Nàng văng vẳng nghe có tiếng gào thét rất kỳ lạ, tiếng gào thét ấy vừa vọng vào tai đã vang rền, ầm ầm cuốn tới. Nàng nghiêng đầu nhìn, chỉ thấy trên mặt đất như nổi lên vô số mây vàng, ập đến như vạn mã phi đằng.

Trong khoảng khắc ấy, Đào Lâm đã biết rõ là việc gì rồi.

Trong sa mạc mà gặp giông tố… Đào Lâm thật chẳng đủ can đảm để nghĩ tiếp nữa. Vừa rồi bốn bề tĩnh lặng, mà giờ đây cuồng phong đã nổi lên, khắp đất trời đầy các tiếng động, y phục trên mình nàng bị gió thổi đến kêu phần phật, tóc bay phất phới cơ hồ rời khỏi đầu.

Đào Lâm không chỗ ẩn nấp, dưới cơn thịnh nộ của thiên nhiên, con người trở nên thật nhỏ bé. Nàng chỉ đứng thừ ra, tiếng gầm thét mỗi lúc càng thêm vang dội, và mây vàng từ dưới đất bốc lên cũng nhanh chóng ập đến.

Đào Lâm lặng người, không phải vì sợ chết, mà là đau buồn vì không còn ai báo cho Lý Thuần Như biết đại nạn sắp đến nữa.

Nàng nắm chặt hai tay hét to:

– Lý công tử! Đào Lâm này không thể cứu công tử được nữa rồi!

Tiếng nói của nàng vừa thoát khỏi miệng đã bị gió thổi tan, đến đỗi nàng cũng chẳng nghe mình đã nói gì.

Thốt nhiên, nàng nghe có một tiếng động khác, lắng tai nghe kỹ, thì ra là tiếng người.

Đào Lâm thoáng sửng sốt, định thần lắng nghe, tiếng nói rấy rõ ràng hơn:

– Chạy… đến đây… mau. Cát… mà ập đến… là mất… mạng đấy…

Đào Lâm nghe như đó là tiếng nói của một nam một nữ cùng phát ra, liền quay nhìn về hướng phát ra tiếng nói, chỉ thấy trong màu vàng mênh mang có một mảnh vải đỏ đang hướng về mình vung vẫy.

Mảnh vải đỏ kia không to và cách khá xa, nhưng vẫn trông thấy hết sức rõ ràng.

Trong khoảng khắc, Đào Lâm lại thấy mình còn có hy vọng sống, liền quay người gắng hết sức phóng đi về phía ấy. Những đám cát vàng như những áng mây to ào ạt ập tới, nàng thầm tự động viên:

– Tuyệt đối không được dừng lại. Hãy gắng lên, gắng lên!

“Ầm” một tiếng, một trụ cát từ trước mặt ập vào người nàng khiến nàng lảo đảo, song nàng vẫn không chững bước, vẫn tiếp tục gắng sức chạy tới.

Thật ra đó chẳng qua chỉ là một thời gian rất ngắn, song đối với nàng thì như là rất lâu vậy.

Sau cùng nàng cũng đã chộp được mảnh vải đỏ, chỉ cảm thấy người bị xô dậy và rơi xuống một cái hố.

Nàng chưa kịp nhìn kỹ ai đã cứu mình, thì một tiếng động đinh tai nhức óc đã như long trời lỡ đất ập xuống, cát vàng trút xuống như mưa.

Nhưng không bao lâu sau, tiếng vang động đã đi xa. Đào Lâm phủi sạch cát trên mình, đưa mắt nhìn kỹ, thì ra nàng đang ở dưới một cái hố cạn, trước hố có một cái vách đá chắn cản gió cát, nhờ vậy nàng mới không bị vùi chôn trong cát vàng.

Một nam một nữ đang đứng sát vào bức vách đá quay mặt về phía nàng, ba người vừa trông thấy rõ mặt nhau, lập tức thảy đều thừ ra.

Bỗng Đào Lâm nước mắt tuôn xối xả, môi mấy máy, đến khi nước mắt nhập nhòa, nàng mới thốt ra hai tiếng:

– Cha! Mẹ!

Và hai người kia cũng đồng thanh kêu lên:

– Lâm nhi!

Hai người ấy chẳng phải là ai khác, chính là Bát Tiên Kiếm Đào Tử Vân và Tam Thủ Quan Âm Trần Trân.

Rồi thì, Trần Trân và Đào Lâm nhào tới ôm chầm lấy nhau.

Kể từ lúc thuyền tách đôi và mọi người rơi xuống sông, Đào Lâm chỉ nghe được tin cha mẹ một lần duy nhất, hôm ấy nàng sở dĩ không đi tìm gặp song thân là vì đang ở cùng Lý Thuần Như, sợ khi gặp cha mẹ đôi bên thì tình bạn giữa mình với Lý Thuần Như sẽ không còn giữ được nữa.

Và từ khi ấy, nàng đã bị thương dưới chưởng lực của Tát Thị Tam Ma, cho đến nay đã trải qua biết bao biến cố, ngay trong hoàn cảnh tuyệt vọng bất ngờ lại gặp song thân, thử nghĩ lòng nàng xúc động đến dường nào.

Hai mẹ con ôm chặt lấy nhau hồi lâu, sau đó buông ra cùng đưa mắt nhìn nhau, mặt người nào cũng dính đầy bụi cát và nước mắt, chẳng thể nào trông rõ mặt mày, song hai người vẫn nhận ra được nhau, đó là người mẹ thân thương và đứa con gái cưng yêu nhất.

Chẳng những hai mẹ con rơi lệ, ngay cả Bát Tiên Kiếm Đào Tử Vân cũng nước mắt chảy dài.

Một hồi thật lâu, Đào Lâm mới chợt quay về thực tại nói:

– Cha và mẹ sao lại ở đây?

Đào Tử Vân không đáp mà hỏi ngược lại:

– Lâm nhi, hai ta cũng đang định hỏi ngươi, sao ngươi lại đến nơi này?

Đào Lâm thừ ra một hồi, nhớ lại cảnh ngộ của mình trong mấy tháng qua, thật chẳng biết phải kể lại từ đâu.

Tam Thủ Quan Âm Trần Trân lại ôm Đào Lâm vào lòng nói:

– Lâm nhi, mẹ biết con nhất định đã chịu nhiều khuất tất, bây giờ còn sợ gì nữa?

Mẹ đã ở bên con rồi.

Đào Lâm thầm kêu lên:

– Đã quá muộn rồi mẹ ơi!

Song nàng đã quyết định giấu giếm cảnh ngộ của mình, bèn nói:

– Lâm nhi… sau khi bị lật thuyền, đã bị nước cuốn đi, trôi đến một hòn đảo, sau đó đi khắp nơi hỏi thăm tin tức cha mẹ, nhưng từ đó đến nay vẫn không có kết quả.

Đào Tử Vân ngạc nhiên:

– Ủa, vậy thì lạ thật!

Tam Thủ Quan Âm Trần Trân tiếp lời:

– Lâm nhi, hai ta hôm đó bị nước cuốn đi không xa lắm thì đến bờ, từ đó đến nay cũng luôn hỏi thăm về tin tức của con, đâu lẽ nào con lại không tìm được?

Đào Lâm buông tiếng thở dài:

– Lâm nhi cũng có nghe cha mẹ đang ở tại nhà Diêm Phùng Hiểu, nhưng… chưa kịp đến đó đã bị Tát Thị Tam Ma đánh trọng thương.

Hai vợ chồng Đào Tử Vân đưa mắt nhìn nhau, lộ vẻ kinh hãi nói:

– Ngươi đã gặp Tát Thị Tam Ma ư?

Đào Lâm cười chua chát:

– Tát Thị Tam Ma có gì là đáng kể?

Đào Tử Vân nghiêm mặt:

– Sao ngươi lại nói vậy? Ba người đó võ công hết sức quái dị, ngay cả hai ta mà gặp họ cũng chưa chắc có thể thủ thắng.

– Họ so với Ngân Lệnh Huyết Chưởng Dị Cư Hồ thì sao?

Hai vợ chồng vốn cũng thuộc loại bậc nhất võ lâm, song nghe đến tên Ngân Lệnh Huyết Chưởng cũng không khỏi sửng sốt.

Hồi lâu Tam Thủ Quan Âm Trần Trân mới nắm tay Đào Lâm nói:

– Lâm nhi, chả lẽ con đã gặp lão đại ma đầu ấy rồi ư?

Đào Lâm nghĩ lại cảnh ngộ của mình, bèn vô vàn đau xót, bất giác nước mắt tuôn xối xả.

Trần Trân lại vội ôm con vào lòng nói:

– Lâm nhi, đừng khóc nữa, mẹ biết con đã gặp nhiều khuất tất, nhưng nay hai mẹ con ta đã cận kề bên nhau rồi, con còn sợ gì nữa?

Đào Lâm nghẹn ngào:

– Mẹ, con… con…

– Chả lẽ con đã gặp lão đại ma đầu Dị Cư Hồ hay sao? Mà dù có gặp thì bây giờ cũng đã thoát hiểm rồi, đừng sợ nữa.

Trong lòng người mẹ bao giờ cũng nghĩ con mình còn bé bỏng, nên Trần Trân tưởng là Đào Lâm hãy còn sợ hãi khi nhớ lại cảnh tượng kinh hoàng lúc gặp Dị Cư Hồ, nên mới khóc như vậy.

Đào Lâm ngưng khóc, xót xa nói:

– Lâm nhi chẳng những đã gặp Dị Cư Hồ mà còn bị lão cưỡng bức trở thành… vợ lão rồi.

Đào Tử Vân và Trần Trân bàng hoàng thất sắc, cùng đứng phắt dậy nói:

– Con nói sao?

Lúc này tuy giông gió đã qua đi, nhưng gió vẫn còn khá mạnh, hai người vừa đứng lên đã bị cát vàng ập đầy mình, nhưng họ chưa kịp gạn hỏi, Đào Lâm đã òa lên khóc và hét:

– Đừng hỏi nữa, đừng hỏi nữa mà!

Rồi bỗng dưng nàng đứng phắt dậy bỏ chạy, Đào Tử Vân vội quát:

– Lâm nhi, đứng lại!

Tam Thủ Quan Âm vung tay, ngón giữa búng nhẹ, một hạt Thiết Liên Tử bay vụt ra, trúng ngay huyệt Uy Trung nơi khuỷu chân Đào Lâm, nàng liền ngã lăn ra đất.

Đào Tử Vân lướt tới, đứng cản trước mặt, dằn mạnh từng tiếng nói:

– Lâm nhi, bất luận xảy ra việc gì thì con vẫn là con gái của cha mẹ, có điều gì không thể nói ra mà phải lẩn tránh cha mẹ chứ?

Đào Lâm nước mắt rơi xối xả nói:

– Con đã nói rồi, chỉ vậy thôi!

– Sau đó con đã bỏ trốn phải không?

Đào Lâm gật đầu, Đào Tử Vân lại hỏi:

– Dị Cư Hồ có đuổi theo không?

– Con định đến Ngân Hoa Cốc, có lẽ lão không ngờ đến, hẳn không đuổi theo đâu.

Trần Trân kinh ngạc:

– Con còn đến Ngân Hoa Cốc làm gì, để nạp mạng hả?

Đào Lâm thở dài não ruột:

– Con đến đó để cứu một người.

Vợ chồng Đào Tử Vân dĩ nhiên biết Ngân Hoa Cốc là nơi cư trú của Ngân Lệnh Huyết Chưởng Dị Cư Hồ, vậy mà Đào Lâm lại đòi đến đó mạo hiểm cứu người, hai người biết ngay đó là điều không đơn giản, đồng thanh hỏi:

– Cứu ai vậy?

Đào Lâm im lặng hồi lâu mới đáp:

– Người ấy cha mẹ cũng quen biết, chính là Lý Thuần Như, thứ nam của Lý Viễn.

Đào Tử Vân đăm đắm nhìn con gái hỏi:

– Con đã quen với y ra sao?

Đào Lâm nghe cha nói, lại nhớ đến những hình ảnh quen nhau với Lý Thuần Như, tuy đã lâu nhưng vẫn như vừa xảy ra hôm qua. Nàng buông tiếng thở dài, không nói gì cả.

Đào Tử Vân thấy giông gió đã gần lắng dịu, không gạn hỏi nữa, chỉ nói:

– Lâm nhi, cha mẹ đang cần đến một nơi, có lẽ sẽ đi ngang qua Ngân Hoa Cốc, con hãy cùng đi nhé.

– Dạ vâng!

Thế là bà người cùng lên đường, tâm trạng mỗi người một khác nên đâm ra thảy đều im lặng. Đi suốt ba ngày đêm mới ra khỏi vùng sa mạc.

Vừa đặt chân lên mặt đất, ba người đều bất giác thở phào. Đi tiếp không bao lâu thì đến nơi thành hôn giữa Đào Lâm với Dị Cư Hồ, chữ “Song Hỉ” to tướng vẫn còn trên tảng đá kia.

Đào Lâm vội vã bước qua, không hề nhìn ngó đến. Hai vợ chồng Đào Tử Vân đưa mắt nhìn nhau, hiểu ngay hẳn là có nguyên nhân trọng đại. Trong mấy ngày qua, hai người đã nhận thấy con gái mình đã khác hẳn trước kia, hệt như đã biến thành một người khác.

Tam Thủ Quan Âm Trần Trân nhanh bước đuổi theo, song chưa đuổi kịp Đào Lâm, bỗng nghe phía sau vang lên tiếng huýt dài ghê rợn, hệt như tiếng cú kêu.

Tiếng huýt vọng đến đứt quảng, ít ra cũng ở ngoài xa năm dặm, tức là từ trong sa mạc vọng đến.

Vợ chồng Đào Tử Vân vừa nghe tiếng huýt gió, liền cùng kêu “ồ” lên một tiếng.

Trần Trân hối hả nói:

– Tử Vân, chúng ta mau đến xem thử.

Đào Lâm đi trước, vừa nghe mẫu thân nói vậy, liền kinh ngạc nói:

– Mẹ, hai người còn định quay về sa mạc ư?

Trần Trân gật đầu:

– Phải!

Đào Lâm chau mày:

– Đã gần đến Ngân Hoa Cốc rồi, con không quay lại đâu.

Trần Trân xịu mặt buồn bả:

– Con vừa mới gặp lại cha mẹ, chả lẽ chẳng chút lưu luyến hay sao?

Đào Lâm mắt rướm lệ đáp:

– Mẹ, đó không thể trách con được, trong lòng cha và mẹ thật ra đã ẩn chứa một đại sự gì chưa cho con biết?

Đào Tử Vân và Trần Trân thoáng biến sắc. Đào Tử Vân gật đầu nói:

– Con nói rất đúng, trong lòng cha và mẹ quả có một việc vô cùng trọng đại chưa cho con biết, nhưng việc này rất dông dài, con hãy đi theo cha mẹ quay về sa mạc gặp người đã huýt gió gọi chúng ta là sẽ hiểu rõ ngay.

Đào Lâm bởi mấy hôm nay đi cùng song thân, hể mỗi lần hỏi hai người đi đâu, hai người đều ỡm ờ, nên nàng mới khẳng định là trong lòng họ có đại sự gì đó không chịu cho mình biết.

Vốn ra, Đào Lâm lúc này đối với bất kỳ đại sự gì thảy đều không cảm thấy hứng thú, chỉ mong sớm đến được Ngân Hoa Cốc tìm gặp Lý Thuần Như, rồi sau đó sẽ phiêu lưu khắp chân trời góc biển cho đến trọn đời.

Do đó, tuy nàng hỏi vậy nhưng không cần đến câu trả lời, giờ thấy phụ thân vẻ mặt quá trịnh trọng, cũng không khỏi động tâm nói:

– Cha, tại sao người đó không đến đây gặp chúng ta?

Đào Tử Vân giọng nghiêm nặng:

– Nghe tiếng huýt, dường như y đã gặp cường địch.

Đào Lâm ngạc nhiên:

– Người đó là ai vậy?

Đào Tử Vân vừa định đáp, tiếng huýt bỗng trở nên hết sức lảnh lót.

Trần Trân vội nói:

– Đã khẩn cấp lắm rồi, ta đi mau!

Đào Tử Vân liền đưa tay xuống lưng “choang” một tiếng, đã tuốt Hắc Bạch Kiếm ra cầm tay, rồi cùng Trần Trân tung mình phóng đi về phía sa mạc, thoáng chốc đã vượt đi rất xa.

Đào Lâm thừ ra tại chỗ, nhất thời không biết có nên đi theo hay không, bỗng nghe Đào Tử Vân nói:

– Lâm nhi, hãy… chạy mau… chạy mau đi!

Lúc này hai vợ chồng Đào Tử Vân đã cách rất xa, không thấy được hai người đang làm gì, chứng tỏ tiếng nói của Đào Tử Vân là do nội lực dồn ra, nhưng vẫn hết sức rõ ràng.

Đào Lâm vốn rất phân vân, nhưng nghe phụ thân bỗng bảo mình chạy mau trong khi mới vừa rồi còn bảo mình đi theo, nàng hết sức lấy làm lạ, bèn lớn tiếng hỏi:

– Cha, tại sao lại bảo con bỏ chạy hả?

Hồi lâu, mới lại nghe tiếng Đào Tử Vân vọng đến:

– Lâm nhi… chạy mau…

Đào Lâm nghe tiếng nói ít ra cũng ở xa ngoài ba dặm, lòng càng thêm kinh ngạc, chả lẽ đã xảy ra biến cố gì rồi sao?

Nàng chợt nghĩ đến ơn sanh thành dưỡng dục của song thân, nhận thấy sự phân vân vừa rồi của mình thật là bỉ ổi, nên bèn không do dự nữa, tung mình phóng đi ngay.

Võ công nàng vốn chẳng kém cõi, trong khi nóng lòng phóng đi càng nhanh khôn tả, thoáng chốc đã tiến vào sa mạc, gió cát cuồn cuộn. Nàng phóng đi trong sa mạc chừng hơn dặm, chẳng nghe chút tiếng động nào và cũng chẳng thấy một bóng người nào cả.

Đào Lâm vô cùng thắc mắc, lớn tiếng gọi:

– Cha ơi, mẹ ơi, hai người ở đâu vậy?

Nàng vừa gọi vừa phóng đi, lại vượt qua mười mấy trượng. Đột nhiên, nàng thừ ra tại chỗ.

Máu! Trước mắt nàng hiện ra một vũng máu tươi.

Trong sa mạc vốn là một màu vàng cùng khắp, nên vũng máu tươi hiện ra hết sức rõ rệt.

Vũng máu ấy rõ ràng mới từ cơ thể con người chảy ra chưa lâu, máu sắc tươi rói và mùi tanh tưởi nặc nồng.

Đào Lâm sau một thoáng ngớ người, trong đầu lập tức hiện ra cảnh tượng thọ thương của song thân, bất giác nghe lòng nóng như thiêu đốt. Nàng ngẩng lên nhìn, cách vũng máu không xa lại thấy có mấy đốm máu khác.

Những đốm máu ấy vươn dài tới trước. Đào Lâm vội lần theo phóng đi, được chừng nửa dặm, đã trông thấy một người nằm mọp trên mặt cát.

Đào Lâm vội đến bên cúi xuống xem xét, chỉ thấy người đó mặt vàng như nghệ, hiển nhiên đã thọ thương, nhưng không phải là song thân nàng.

Đào Lâm vội cúi sát hỏi:

– Gia phụ và gia mẫu đâu rồi?

Người đó hé mở mắt, hơi thở hào hển. Đào Lâm giờ mới thấy rõ nơi vai trái đối phương có một vết thương rất to, máu tươi chảy ròng ròng.

Đào Lâm định chữa trị cho y, song nhất thời chưa biết bắt tay từ đâu, thì đối phương bỗng gắng gượng cất lên năm tiếng huýt ba dài hai ngắn.

Đào Lâm sửng sốt lại hỏi:

– Gia phụ và gia mẫu của tôi đâu?

Người đó gắng gượng rướn người lên, thò tay vào lòng như định tìm lấy vật gì đó, song chưa kịp lấy ra thì cổ họng đã nấc lên một tiếng rồi tắt thở ngay.

Đào Lâm lặng người, nàng vốn định hỏi đối phương về tông tích song thân, nhưng trước khi chết y chẳng nói một lời, mà chỉ cất lên năm tiếng huýt, ba dài hai ngắn, đó là ý nghĩa gì?

Đào Lâm hết sức thắc mắc, vừa định tiếp tục đuổi theo, song vừa cất bước, lại ngoảnh nhìn người kia, chợt động tâm bởi bàn tay đối phương hãy còn thò vào lòng chưa rút ra.

Dường như ý định lấy gì đó ở trong lòng, nhưng chưa kịp lấy ra thì đã chết, và vật ấy có thể liên quan rất nhiều đến hành tung của song thân.

Nghĩ đoạn, Đào Lâm liền cúi xuống kéo tay y ra, chỉ thấy trong tay y nắm chặt một gói giấy mềm. Đào Lâm gỡ ngón tay đối phương lấy gói giấy ra, cầm trong tay thấy trỉu nặng, bèn mở nhanh ra, chỉ thấy bên trong là một con rồng vàng ngủ trảo rất sinh động, sáng lấp lánh và dài chỉ một tấc hơn.

Đào Lâm ngẩn người, chẳng hiểu vật này có ý nghĩa gì, lại lục soát trong lòng người đó, ngoài hỏa tập và ít bạc vụn, chỉ có một phong thư.

Đào Lâm vừa đưa mắt nhìn ngoài bì thư, bất giác giật mình, thì ra đó chính là nét chữ của phụ thân, viết là:

– Nhờ chuyển giao cho Tô Hoành huynh…

Đào Lâm ngẩn người, cái tên Tô Hoành hết sức quen thuộc, đó là một hảo hớn lừng danh khắp vùng hồ Hồng Trạch, nhưng lại là một người câm và tướng mạo không có gì là đặc sắc, chả lẽ chính là vị Á Hiệp Tô Hoành đó ư?

Đào Lâm rút thư ra, chỉ thấy trong viết là:

– Kính gửi Tô huynh! Nghe huynh có được một con Thông Thiên Bửu Long, chẳng rõ bao nhiêu? Nơi đệ hiện có hai con, nếu huynh có ý hợp tác, xin hãy cùng đến nơi ấy để bàn kỹ, đi đường nên hết sức thận trọng, đệ Đào Tử Vân bái.

Đào Lâm xem xong vẫn chẳng hiểu gì cả, song đã biết người này quả chính là Á Hiệp Tô Hoành, và cái gọi là Thông Thiên Bửu Long có lẽ cũng chính là con rồng vàng nhỏ này đây.

Trong khi phụ thân cũng có hai con rồng vàng này, hai người đã hẹn gặp nhau chẳng rõ tại đâu, nhưng Thông Thiên Bửu Long này hẳn là có liên quan đến một việc vô cùng trọng đại, nên dọc đường mới có người ra tay cướp đoạt, vì vậy phụ thân đã căn dặn Á Hiệp Tô Hoành phải hết sức thận trọng, vậy mà Á Hiệp Tô Hoành vẫn không tránh khỏi phơi xác trên sa mạc.

Nghĩ vậy, Đào Lâm không khỏi hết sức lo lắng cho song thân, bởi danh tiếng của Á Hiệp Tô Hoành trong võ lâm không kém hơn phụ thân, và một thân ngạnh công rất có hỏa hầu, vậy mà vẫn bỏ xác tại đây, e rằng song thân mình cũng đã gặp bất trắc rồi.

Đào Lâm vội nhét con rồng vàng và phong thư vào lòng, tiếp tục phóng đi, chừng dặm hơn bỗng trông thấy một vật đen nhánh nằm trên mặt cát. Đến gần xem, thì ra là thanh Hắc Bạch Kiếm quý hơn tính mạng và bất ly thân của phụ thân.

Đào Lâm vừa trông thấy thanh Hắc Bạch Kiếm rơi trên sa mạc, lập tức lặng người, nhất thời thậm chí không đủ can đảm để nhặt lấy thanh Hắc Bạch Kiếm lên.

Đào Lâm trong lòng tức khắc dâng lên một cảm giác chẳng lành, tưởng chừng song thân cũng như Á Hiệp Tô Hoành, đã phơi thây trên sa mạc rồi. Nếu quả thật như vậy thì thanh Hắc Bạch Kiếm này là vật duy nhất của song thân đã để lại cho mình.

Do đó, Đào Lâm lòng vô vàn đau xót, đến đổi không đủ can đảm nhặt lấy thanh kiếm. Hồi lâu, bỗng lại nghe một tiếng huýt lanh lảnh từ phía trước vọng đến.

Tiếng huýt ấy vang vọng không dứt, chẳng rõ từ bao xa vọng đến. Đào Lâm giật nẩy mình quay về thực tại, vội nhặt lấy thanh Hắc Bạch Kiếm rồi phóng nhanh đi.

Một thanh trường kiếm nửa đen nửa trắng xem ra chẳng chút đặc sắc, nhưng thật tình thì cực kỳ sắc bén, là một món binh khí lừng danh trong võ lâm.

Đào Lâm vừa cầm thanh kiếm trong tay, liền tức thì nhớ lại mọi hình ảnh về song thân, nàng vừa căm thù kẻ đã làm hại cha mẹ mình, vừa cảm thấy lương tâm vô vàn ray rứt, bởi lẽ khi bị Dị Cư Hồ kềm chế, khi bị giam hãm trong ngôi lầu đá, nàng chỉ nghĩ đến Lý Thuần Như chứ không hề nghĩ đến cha mẹ mình, và giờ đây có lẽ song thân đã cách biệt nàng vĩnh viễn rồi.

Đào Lâm phóng nhanh đi, gió thổi tung mái tóc, cát vàng ập vào mặt, nàng vận khí phong tỏa thất khiếu, vẫn một mực phóng đi, thoáng chốc lại vượt qua hơn ba dặm.

Đột nhiên Đào Lâm cảm thấy mắt hoa lên, nàng giật mình sửng sốt. Định thần nhìn kỹ, trước mắt đã hiện ra một kỳ cảnh, đó là một hồ nước trong vắt. Dưới ánh nắng soi rọi, mặt hồ gợn sóng long lanh, bên bờ hồ có rất nhiều cây nhỏ, cảnh sắc đẹp vô ngần.

Đào Lâm đứng trước kỳ cảnh ấy, bất giác ngây ngẩn cả người, nghĩ mình đã từng qua vùng sa mạc này đến hai ba lần, tại sao trước đây đã không trông thấy hồ nước này nhỉ?

Trông thấy hồ nước, Đào Lâm liền cảm thấy khát vô cùng, sao mình không uống lấy vài ngụm nước rồi hẵng tính?

Vừa định cất bước, bỗng thấy hai bóng người phóng nhanh đến, Đào Lâm vừa nhìn rõ hai người ấy, bất giác mừng rỡ lớn tiếng gọi:

– Cha, mẹ!

Nàng vốn nghĩ là song thân đã gặp bất trắc, giờ đột nhiên thấy cha mẹ xuất hiện, dĩ nhiên lòng mừng khôn xiết, tiếng gọi cũng vang đi rất xa, và hồ nước kia ở ngay trước mặt, lẽ ra Đào Tử Vân và Trần Trân phải nghe rõ mới đúng.

Vậy mà, hai người như không hề nghe thấy tiếng gọi của Đào Lâm, phóng thẳng đến bờ hồ mới dừng lại.

Đào Lâm lúc này cũng đã nhìn rõ, Đào Tử Vân và Trần Trân đều áo quần dơ bẩn, dáng vẻ thảm não và trên người có vài vết thương, máu tươi hãy còn không ngớt chảy.

Hai người vừa đến bờ hồ, Đào Tử Vân lập tức từ trong lòng lấy ra chẳng rõ vật gì, vung tay ném xuống hồ, nước văng tung tóe, nhưng cũng còn trông thấy được đó là một cái gói.

Đào Tử Vân vừa ném xong cái gói ấy xuống hồ, lập tức lại xuất hiện một con ngựa toàn đen, cõng trên lưng một người lao đến nhanh như gió cuốn.

Đào Lâm vốn định cất bước đuổi theo, nhưng bỗng nhận thấy sự việc quá kỳ lạ, bởi lẽ con ngựa đen phóng đi rất nhanh và cát bụi tung cao, đồng thời cũng trông thấy Đào Tử Vân và Trần Trân quay lại, miệng mấy máy như lớn tiếng gọi người trên ngựa, nhưng thảy đều không nghe một tiếng động nào cả.

Đào Lâm thật ngạc nhiên đến tột cùng, sau một thoáng ngớ người, nàng vừa lớn tiếng gọi vừa tung mình lao tới, được vài bước đã trông thấy một người áo đen vóc dáng rất cao từ trên ngựa phóng xuống.

Vóc dáng người áo đen ấy trông rất quen, như đã từng gặp qua ở đâu rồi vậy.

Người áo đen khi tung mình xuống đất, hai tay vung quét, hàng cây nhỏ bên cạnh thảy đều gãy đổ, cành lá tung bay, một số bay lên không, một số rơi xuống hồ, nước tung tóe cùng khắp.

Song tất cả cũng không vang lên một tiếng động nào.

Đào Lâm phóng tới, chỉ thấy người áo đen từng bước đuổi theo song thân, bỗng nàng giẫm lên một hố cát, hẫng chân ngã chúi tới, song nhờ khinh công khá cao, liền giở thế Liêu Oanh Xuyên Thoa lướt tới trước chừng hai trượng, rồi lại với thế Lý Ngư Đã Đỉnh bật thẳng người lên.

Song nàng vừa đứng lên, lập tức thừ ra tại chỗ. Trước mặt cát vàng mênh mang, dưới ánh nắng chói chang trông hết sức đơn điệu và gớm ghiếc.

Hồ nước, con ngựa đen, người áo đen, song thân và những ngọn cây bị người áo đen quét gãy bỗng chốc đã biết mất, chẳng còn lại chút dấu tích nào, như thể chưa từng xảy ra vậy.

Đào Lâm thoạt tiên tưởng là mình đã lạc hướng, liền quay người một vòng, bốn bề toàn là sa mạc, ngoài ra chẳng có gì khác. Nàng dụi mắt thật mạnh, song vẫn chỉ thấy cát vàng vô cùng tận.

Chả lẽ tất cả những gì vừa qua chỉ là một giấc mơ ư?

Không thể vậy được! Nàng đã chứng kiến tận mắt, tất cả hoàn toàn là sự thật, và xem ra võ công người áo đen cao hơn cha mẹ nàng nhiều, e rằng hai người sẽ phải táng mạng dưới tay người áo đen.

Thế nhưng, giờ đây tất cả đều biến mất, biết rõ song thân sắp lâm nguy, nhưng nàng chẳng biết làm sao hơn.

Hồ nước kia ở đâu? Nàng nên đi về hướng nào để tìm kiếm song thân đây? Hay tất cả những gì vừa rồi chỉ là ảo giác?

Nàng thật chẳng sao xác định được, bởi trong đời nàng chưa từng gặp một sự việc quái lạ đến vậy bao giờ.

Nàng vẫn theo hướng đi trước phóng tới, một mặt cố lục tìm trong trí nhớ, người đó vóc dáng quen thế kia, đó thật ra là ai?

Lát sau, nàng đã nhớ ra, người áo đen chính là kẻ đã xuất hiện trong khoang thuyền của mình, lúc nàng cùng song thân về đến sau khi ca ca Đào Hành Khản tỉ võ đã hạ sát Lý Bảo tại nhà Diêm Phùng Hiểu.

Người áo đen này nhất định chính là kẻ xuất hiện trong khoan thuyền lúc ấy.

Nhưng kẻ đó là ai? Đào Lâm chẳng biết mảy may.

Bao sự việc quái dị lại khiến Đào Lâm đầu óc quay cuồng, nàng gắng sức lớn tiếng gọi và phóng tới. Bị hố cát làm vấp ngã, lại đứng bật lên, nàng hoàn toàn không màng đến cái gì gọi là sức cùng lực kiệt, mà chỉ muốn tìm gặp hồ nước đã đột nhiên biết mất kia.

Bởi lẽ bên hồ nước ấy, rất có thể song thân nàng đang cố gắng kháng cự người áo đen kia.

Và cũng có thể, cha mẹ nàng đã thọ trọng thương, đang chờ nàng đến để nghe những lời trăn trối sau cùng.

Bởi nàng quả quyết đó không phải là giấc mơ mà hoàn toàn là sự thật.

Nàng chẳng rõ mình đã phóng đi được bao lâu và bao xa, chỉ cảm thấy chân mỗi lúc mỗi rã rời, mắt mỗi lúc mỗi hoa, miệng khô khốc đến cơ hồ phún ra lửa.

Song chung quanh nàng vẫn chỉ hoàn toàn cát vàng, chẳng thấy hồ nước kia đâu cả.

Sau cùng, Đào Lâm lại bị vấp ngã bởi một hố cát nữa, rồi thì không còn đứng lên được nữa.

Nàng gắng sức mấy lượt chỏi tay xuống đất toan đứng dậy, song kết quả đều thất bại.

Nàng buông tiếng thở dài thậm thượt, nằm mọp trên mặt cát, nửa người nàng bị cát nóng vùi lấp. Nàng gắng sức ngẩng đầu lên, mặt trời vẫn ở nguyên vị trí trước, chứng tỏ nàng phóng đi chưa được bao lâu, tối đa không quá một giờ.

Nhưng trong thời gian ấy, sức lực nàng bỏ ra vượt quá khả năng của mình. Nàng chỉ một mực phóng đi, không hề biết trong giờ qua mình đã chạy nhanh đến mức độ nào, giá như nàng biết được, chắc chắn sẽ kinh ngạc đến mức không thể tưởng tượng được.

Tốc độ ấy phải là người có công lực gấp ba hoặc gấp bốn so với nàng thì mới có thể đạt được, do đó chỉ một giờ nàng đã hoàn toàn kiệt sức, không còn đứng lên được nữa.

Đào Lâm đưa lưỡi liếm môi, đôi môi nàng đã khô đến mức cơ hồ nức nẻ, vẫn lầm bẩm nói:

– Cha và mẹ đang ở đâu? Hãy mau cho con biết, hồ nước kia thật ra là một nơi như thế nào?

Nhưng sau khi lặp đi lặp lại câu nói ấy vài lần, rồi mắt chợt tối sầm, hôn mê bất tỉnh.

Thời gian trôi qua chẳng rõ bao lâu, Đào Lâm bỗng cảm thấy mát rượi, nàng liền tỉnh táo trở lại, và cảm thấy có một bàn tay đang đặt trên vai mình.

Đào Lâm mở bừng mắt nhìn, thấy mình vẫn còn nằm trên cát, song trước mặt ướt sũng, bãi cát vàng chẳng rõ đã khô khan bao nhiêu năm, lúc này đang phát ra tiếng “xeo xeo”, hút lấy lớp nước trên mặt.

Đào Lâm cảm thấy miệng khát lạ thường, liền cúi xuống định hút lấy nước trong cát.

Đột nhiên, bên tai vang lên tiếng nói:

– Có nước đây!

Rồi thì một túi da nước trong đưa đến trước mặt nàng. Nhất thời, Đào Lâm cũng chưa nghe rõ tiếng nói ấy của ai, và cũng chẳng màng đối phương là bạn hay là thù, hai tay run run bưng lấy túi nước như sợ bị cướp mất, cơ hồ vùi hết cả đầu vào trong túi nước, một hơi uống hết nửa túi mới ngẩng đầu lên.

Chỉ thấy trước mắt là một văn sĩ trung niên rất anh tuấn phong nhã, song nơi giữa chân mày lại ngập vẻ hung tà, chính là chồng nàng Ngân Lệnh Huyết Chưởng Dị Cư Hồ.

Đào Lâm bất giác buông tiếng thở dài não ruột, lặng thinh không nói một lời.

Dị Cư Hồ nhếch môi cười nói:

– Phu nhân, hai ta lại cùng bên nhau nữa rồi!

Đào Lâm đờ đẩn nói:

– Lại cùng bên nhau nữa…

Dị Cư Hồ cười tiếp lời:

– Nếu phu nhân gặp ta mà cảm thấy căm ghét thì cứ việc bỏ đi, phu nhân hãy theo hướng đi trước, tối đa một ngày một đêm là có thể ra khỏi sa mạc, khi nào phu nhân muốn gặp ta, hãy đến Ngân Hoa Cốc, ta chắc chắn ở tại đó.

Dị Cư Hồ tuy nói rất bình thản, nhưng trong lòng vô cùng khích động.

Đối với Đào Lâm, việc nàng trở thành vợ Dị Cư Hồ là do bị bắt buộc, đương nhiên nàng hết sức uất hận, bởi Dị Cư Hồ đã hủy hoại cuộc đời nàng, khiến nàng vĩnh viễn không còn tìm được hạnh phúc nữa.

Thế nhưng, đối với Dị Cư Hồ thì khác hẳn, lão cho rằng việc Đào Lâm trở thành vợ lão, đó là một hạnh phúc to tát cho Đào Lâm, thậm chí là một ân huệ được lão ban cho, và đã cất nhắc nàng vượt bậc.

Tuy nhiên, đó không phải lão nghĩ là võ công và địa vị của mình trong võ lâm đã đem vinh quang cho Đào Lâm, mà là trong bao năm qua, lão luôn tự phụ mình phong lưu tiêu sái, thiên hạ vô song, là một đại tình nhân mà bất kỳ phụ nữ nào gặp cũng phải đem lòng si mê.

Trong tâm tưởng lão, khi xưa con gái của Quách ma đầu tuy xấu xí, nhưng cũng có rất nhiều người theo đuổi bởi thanh thế của Ma Giáo, song ma nữ chỉ một lòng một dạ si mê lão, do đó lão đã nghĩ rằng tất cả phụ nữ trên cõi đời này đều rất lấy làm vinh hạnh được trở thành vợ lão.

Vậy mà Đào Lâm lại bỏ trốn trong khi lão ra tay tàn sát tại Thương Gia Bình, việc ấy chứng tỏ Đào Lâm không hề yêu thương lão mặc dù đã trở thành vợ lão, đòn đã kích ấy thật hết sức nặng nề, chưa từng có bao giờ trong đời Dị Cư Hồ.

Sau khi không tìm được Đào Lâm, Dị Cư Hồ đã từng nộ khí xung thiên, nhưng sau cùng đã bình tĩnh trở lại, và trên đường quay về Ngân Hoa Cốc, gặp lại Đào Lâm, lão đã thốt ra những lời nói ấy.

Khi nghe Dị Cư Hồ nói vậy, Đào Lâm lại đâm ra băn khoăn, thừ ra hồi lâu, chợt nhớ Dị Cư Hồ đã quen thuộc địa hình ở đây như vậy, hẳn cũng có thể biết cái hồ nước mà mình chứng kiến tận mắt kia. Nên nàng bèn đứng lên hỏi:

– Phu… quân… có biết hồ nước nhỏ trong vùng sa mạc này không?

Dị Cư Hồ thoáng nhíu mày:

– Một hồ nước nhỏ ư?

Đào Lâm vội nói:

– Đúng vậy, một hồ nước nhỏ rất trong, xung quanh có nhiều cây nhỏ, khi nãy thiếp đã trông thấy, nhưng đột nhiên lại biết mất.

Dị Cư Hồ nhếch môi cười:

– Phu nhân, ta tin là khi nãy phu nhân có trông thấy một hồ nước nhỏ, nhưng hồ nước ấy ở cách đây hơn bốn mươi dặm, và phương hướng cũng không đúng.

Đào Lâm sửng sốt:

– Hơn bốn mươi dặm ư? Thiếp… trông thấy rất rõ ràng, chỉ xa chừng một dặm.

Dị Cư Hồ ngắt lời:

– Chả lẽ phu nhân chưa từng nghe nói đến trong sa mạc có những ảo ảnh do tầng khí quyển tạo nên hay sao? Những gì phu nhân đã gặp chỉ là ảo ảnh mà trong sa mạc rất thường thấy đó thôi.

Đào Lâm hét lên:

– Không phải ảo ảnh, không phải, gia phụ và gia mẫu đã gặp cường địch bên bờ hồ, và e rằng tính mạng khó có thể bảo toàn.

Dị Cư Hồ kinh ngạc:

– Ồ, thì ra lệnh tôn và lệnh đường đã gặp cường địch ở bên bờ hồ ư? Vậy phu nhân hãy cứ đi, ta tự đến đó xem sao?

Đào Lâm ngẩng lên nhìn, thấy cỗ xe trắng đang đỗ cách đó không xa, vội nói:

– Thiếp đi cùng phu quân!

Dị Cư Hồ cười:

– Phu nhân trước sau gì cũng ra đi, bây giờ lại ở bên ta làm gì?

Đào Lâm kiên quyết:

– Nếu phu quân không cho thiếp đi cùng, tự mình thiếp dù bò cũng quyết phải bò đến đó.

Dị Cư Hồ cười phá lên:

– Ha ha, ta sớm biết phu nhân rất có quyết tâm, thôi thì chúng ta cùng đến đó xem thử.

Vừa dứt lời, tay trái đã đặt vào bên lưng Đào Lâm, Đào Lâm chỉ cảm thấy có một luồng sức mạnh như bài sơn đảo hải xô nàng bay lên, rồi vững vàng hạ xuống chỗ ngồi trên xe cách xa ngoài hai trượng, trông hết sức ngoạn mục.

Nội công tuyệt đỉnh ấy của Dị Cư Hồ quả là kinh thế hãi tục, trên cõi đời này dễ mấy ai làm được như vậy.

Đào Lâm vừa ngồi yên trên xe, Dị Cư Hồ đã tung mình lên, nhẹ nhàng ngồi xuống cạnh Đào Lâm, lấy roi vung liên tiếp ba cái. Bạch mã liền xoãi vó lao tới, hất tung cát vàng, phóng đi nhanh như gió cuốn.

Chừng một giờ sau, xe ngựa đã qua khỏi sa mạc, cảnh vật hai bên vùn vụt lướt qua, chứng tỏ tốc độ xe nhanh đến tột cùng.

Thế nhưng, Đào Lâm lại còn muốn nhanh hơn nữa, bèn giật lấy roi da trong tay Dị Cư Hồ vung lia lịa, lát sau nàng đã ngửi thấy mùi không khí trong lành, định thần nhìn, hồ nước kia đã hiện ra trong tầm mắt.

Nước hồ vẫn bình lặng như trước, nhưng khi nãy nàng không hề ngửi thấy mùi không khí trong lành và cảnh vật cũng không được rõ rệt như vậy.

Đào Lâm lại ra sức quất thêm mấy roi, bạch mã dựng bờm tung vó, cất tiếng hí dài, phóng tới như bay rồi vụt dừng lại bên bờ hồ.

Xe ngựa vừa dừng, Đào Lâm đã chòi tay lên chỗ ngồi, tung mình xuống đất, lập tức nàng đã trông thấy hàng cây gãy kia.

Đào Lâm vốn không tin lắm về việc hồ nước nàng đã trông thấy khi nãy chỉ là ảo ảnh, song giờ đây trông thấy hàng cây gãy này, nàng đã tin hoàn toàn là trong sa mạc quả có sự kỳ dị như lời Dị Cư Hồ đã nói, có thể dời đến trước mắt cảnh tượng cách xa hàng mấy mươi dặm.

Đồng thời, nàng cũng liền nhớ đến cảnh tượng của song thân với người áo đen, hiển nhiên cha mẹ nàng đã lâm vào hạ phong, bèn vội chạy đến, song chỉ thấy cành lá gãy vụn cùng khắp, chẳng có bóng người nào cả.

Đào Lâm vội lớn tiếng gói:

– Cha ơi, mẹ ơi!

Nhưng gọi liền mấy tiếng đều không ai đáp lại, nàng chạy dọc theo bờ hồ một hồi, cũng chẳng trông thấy một bóng người nào.

Đào Lâm lòng nóng như thiêu đốt, nhưng vô kế khả thi, ngoảnh lại nhìn, thấy Dị Cư Hồ đang chắp tay sau lưng chậm rãi đi tới đi lui, hai mắt chăm chú nhìn từng ngọn cây gãy, ra chiều đăm chiêu nghĩ ngợi.

Đào Lâm cất tiếng hỏi:

– Chẳng rõ họ đã đi đâu rồi nhỉ?

Dị Cư Hồ không đáp, vẫn cắm cúi xem xét cây gãy, và còn đưa tay sờ vào chỗ gãy đoạn mới ngẩng lên nói:

– Phu nhân bảo là lệnh tôn và lệnh đường khi nãy đã giao thủ với một người áo đen trong sa mạc ư?

– Thiếp không trông thấy họ giao thủ nhưng xem ra nhất định sẽ phải giao chiến thôi.

Dị Cư Hồ lắc đầu:

– Phu nhân, ta nói ra xin phu nhân đừng buồn.

Đào Lâm rúng động cõi lòng, tiến tới nắm chặt lấy tay Dị Cư Hồ, run giọng hỏi:

– Gia phụ và… gia mẫu… đã sao rồi?

Dị Cư Hồ trái lại giọng hết sức bình thản:

– Lệnh tôn và lệnh đường e đã không còn trên nhân thế rồi.

– Ồ!

Đào Lâm bàng hoàng, hai mắt chợt tối sầm, cơ hồ ngã ra đất.

Dị Cư Hồ vội đỡ lấy nàng.

Đào Lâm định thần lại mới hỏi:

– Vậy… chính người áo đen kia đã sát hại họ phải không?

– Cũng chưa biết chắc. Theo lời phu nhân, khi hai người đến đây thì đã thọ thương, phu nhân hãy xem, chỗ gãy của những cây này thảy đều phẳng như bị đao sắc tiện ngang, chứng tỏ công lực của người áo đen đã đạt đến trình độ phi hoa thương địch, ném lá chết người.

Đào Lâm đưa mắt nhìn chỗ cây gãy, quả nhiên cây nào cũng nhẵn bóng, và đó bất quá chỉ là một chưởng tiện tay của người áo đen đã gây ra mà thôi.

Dị Cư Hồ lại nói tiếp:

– Trên cõi đời này hiếm ai có võ công cao đến mức như vậy, và người ấy chỉ phát ra một chưởng mà đã đạt đến mức độ thế này, đủ thấy nội lực của y khi ngưng tụ hệt như kiếm sắc, lệnh tôn lệnh đường ắt không phải là địch thủ, nên ta mới bảo có lẽ họ đã ngộ hại rồi.

Đào Lâm thừ ra một hồi mới nói:

– Vậy người áo đen kia thật sự là ai?

Dị Cư Hồ lắc đầu:

– Chưa biết chắc!

Lão lại ngửa mặt đi qua đi lại mấy bước, đoạn nói tiếp:

– Phu nhân, ta thấy nếu phu nhân đi một mình cũng khó tránh khỏi nguy hiểm, chi bằng theo ta cùng đến Ngân Hoa Cốc thì hơn.

Đào Lâm thở dài:

– Thiếp không muốn đến đó.

Khi nàng thốt ra câu đó, lòng hết sức lo sợ Dị Cư Hồ nổi giận.

Chẳng ngờ Dị Cư Hồ không hề tức giận, chỉ nhạt giọng nói:

– Cũng được, nhưng phu nhân phải hết sức thận trọng.

Dứt lời, lão cúi đầu chậm rãi bước đi, được một quãng, không ngoảnh lại, lão nói:

– Phu nhân muốn đi đâu tùy thích, nhưng chốn giang hồ nhiều hiểm ác, phu nhân thân yếu một mình không được an toàn lắm, ta để lại cỗ xe này cho phu nhân, đại đa số cao thủ võ lâm đều biết lai lịch, hẳn không đến đổi gây khó khăn cho phu nhân, còn như nếu có kẻ nào không biết lai lịch cỗ xe này, nhất định là hạng vô danh tiểu tốt, cũng chẳng đáng e sợ.

Nói xong lão mới thi triển khinh công phóng đi nhanh khôn tả, thoáng chốc đã mất dạng.

Đào Lâm thấy Dị Cư Hồ để lại xe ngựa, lòng cũng có phần cảm kích, nghĩ nếu mình không phải bị cưỡng bức, lão mà chịu chăm lo cho mình như thế này, mình nhất định xem lão là một đại ân nhân. Thế nhưng, nay tuy lão tử tế với mình, song làm sao bù đắp được những gì mình đã mất đi?

Nàng đứng thừ ra hồi lâu mới lên xe chạy dọc theo bờ hồ một vòng. Hồ nước này không lớn lắm, chưa đầy một khắc đã quay trở về vị trí cũ, không thể phát hiện một bóng người nào.

Đào Lâm biết Dị Cư Hồ không hù dọa nàng, cha mẹ mình e đã thật sự chết dưới tay người áo đen rồi, nhưng tại sao lại chẳng thấy thi thể đâu cả thế này?

Đào Lâm ngồi thừ ra trên xe một hồi, chợt nhớ song thân nàng khi gặp người áo đen đã ném một cái gói nhỏ xuống hồ, tuy không biết đó là gì, song rất có thể liên quan đến tính mạng của cha mẹ nàng.

Đào Lâm vội phóng xuống xe, cởi bỏ áo ngoài, dựa theo vị trí trong trí nhớ phóng xuống hồ.

Đừng thấy hồ không lớn và nước trong veo, nhưng thật ra lại rất sâu. Đào Lâm lặn xuống nước, đáy hồ rất bằng phẳng, nàng lần mò thật kỹ một hồi, nhưng không tìm thấy gì cả.

Song nàng không sờn lòng, lại mở mắt ra kỹ lưỡng tìm kiếm, hai tay không ngừng mò mẫm, chừng sau nửa giờ, nàng đã mò trúng một cái gói nhỏ.

Đào Lâm mừng rỡ, hai chân chỏi mạnh, trồi lên mặt nước, tung mình lên bờ, nhún nhảy mấy cái cho ráo nước rồi mới đưa tay ra xem, đúng là cái gói do song thân đã ném xuống hồ khi nãy.

Đào Lâm đến ngồi lên trên xe, khoác lại áo ngoài, mở cái gói nhỏ ra, chỉ thấy ánh vàng lấp lánh, thì ra là hai con rồng vàng giống hệt như con rồng vàng đã tìm gặp trong mình Á Hiệp Tô Hoành.

Ngoài ra không còn vật gì khác nữa. Đào Lâm săm soi ngắm nhìn một hồi, chẳng thấy có gì khác lạ, vừa định nhét hai con rồng vàng vào lòng, bỗng nghe sau lưng có người cười khà lên một tiếng.

Đào Lâm giật nẩy mình, vừa định quay phắt lại, song đã bị hai bàn tay đặt lên vai và đè mạnh xuống, áp lực nặng tựa ngàn cân.

Đào Lâm cả người cũng không xoay chuyển được, kinh hãi hỏi:

– Tôn giá… là ai?

Người sau lưng lại buông tiếng cười khà.

Đào Lâm gắng sức quay đầu được một chút, chỉ thấy bóng mình và bóng đối phương bị ánh nắng soi xuống đất, bóng người kia dài hơn mình rất nhiều và hết sức gầy ốm, nàng nhận ra đó chính là người áo đen.

Đào Lâm liền nghe máu nóng sục sôi, gằn giọng nói:

– Tôn giá… đã làm gì song thân tôi rồi?

Người ấy buông giọng sắc lạnh:

– Chẳng làm gì cả.

– Tôn giá… thật ra là ai?

Người ấy vẫn không đáp, chỉ thò tay qua vai Đào Lâm chộp lấy hai con rồng vàng trên tay này, nhờ vậy Đào Lâm bỗng cảm thấy trên vai giảm nhẹ, lập tức vận chân khí vùng mạnh, đồng thời vung tay ném hai con rồng vàng ra xa.

Thế là nàng đã thoát ra khỏi sự kềm chế của đối phương, rơi xuống đất. Chỉ nghe người ấy buông tiếng cười gằn, một luồng kình phong lướt qua. Đào Lâm nghoảnh lại nhìn, thấy người ấy đã tung mình lướt tới trên không, hai con rồng vàng chưa rơi xuống đất đã bị y đón lấy trong tay.

Đào Lâm vẫn chưa trông thấy rõ mặt người ấy, nhưng đã thấy đối phương toàn thân áo đen, chính là người áo đen kia.

Đào Lâm biết, ngay cả Dị Cư Hồ khi đề cập đến người áo đen này cũng có vẻ kinh khiếp, đủ thấy võ công người này nhất định đã cao đến mức xuất thần nhập hóa.

Và xem ra, cha mẹ mình ắt đã dữ nhiều lành ít, và người áo đen này cũng chính là kẻ thù bất cộng đới thiên của mình. Đào Lâm thật muốn xông tới báo thù cho song thân, nhưng nàng biết nếu làm như vậy, chẳng những mình chắc chắn chết tại đây, mà huyết hải thâm thù của song thân cũng không còn ai biết, càng khỏi phải nói đến việc báo thù nữa.

Do đó, Đào Lâm cố dằn nén nỗi căm thù tột độ trong lòng, chỏi tay xuống đất tung mình ngồi lên xe, không chờ người áo đen quay lại đã vung roi lia lịa, bạch mã cất tiếng hí dài, xoãi vó phóng đi như gió cuốn, bên tai chỉ nghe người áo đen cất tiếng huýt lảnh lói và đuổi theo sau.

Đào Lâm kinh hãi, bởi xe ngựa lúc này phi nhanh đến mức cảnh vật hai bên lùi ra sau như bài sơn đảo hải, vậy mà người áo đen còn ra sức đuổi theo, thật khó thể tưởng tượng được.

Nàng ngoái lại nhìn, chỉ thấy bóng người như làn khói đen bám sát theo sau xe, khoảng cách chỉ chừng mười trượng.

Đào Lâm thấy vậy càng thêm kinh hãi, lại liên tiếp vung thêm mấy roi, ngựa càng chạy nhanh hơn, cỗ xe tung nhổm lên, cơ hồ hất Đào Lâm xuống đất, nàng vội vận đề chân khí, người lên xuống theo xe, thoáng chốc đã vược qua hơn mười dặm.

Thế nhưng, khi nàng tưởng đã thoát khỏi sự rượt đuổi của người áo đen, ngoái lại nhìn, người áo đen vẫn như làn khói đen bám sát theo sau, chẳng những vậy mà khoảng cách còn rút ngắn bốn trượng nữa.

Đào Lâm kinh hoàng thất sắc, vội lại ra roi giục ngựa, bạch mã hí vang, lao vút tới chừng ba trượng, cả cỗ xe tung bỗng lên rồi rơi mạnh xuống, “rắc” một tiếng giòn giã, càng xe gãy lìa, bạch mã một mình lao vút đi.

Cỗ xe dừng lại tại chỗ.

Đào Lâm lặng người, mắt nhìn theo con bạch mã kia buông tiếng thở dài.

Chẳng ngờ tiếng thở dài của nàng chưa dứt, người áo đen đã lướt qua cạnh nàng.

Đào Lâm thấy vậy bất giác ngẩn người, bởi người áo đen rõ ràng là đuổi theo nàng, nay ngựa đã rời xe, nàng vô kế khả thi, nhưng người áo đen lại không đếm xỉa đến nàng, vậy là sao thế này?

Chỉ thoáng chốc người áo đen đã đuổi đến gần bạch mã, y buông tiếng huýt dài, bỗng tung mình lên không, từ trên cao song chưởng giáng xuống, lập tức con ngựa trắng bốn chân khuỵu xuống, người áo đen lại buông tiếng huýt dài, người đã hạ xuống ngay lưng ngựa, rồi thì hai chân kẹp mạnh, bạch mã cất tiếng hí dài, lại đứng trở lên xoãi vó phóng vút đi, thoáng chốc đã ra xa tít, chỉ còn là một đốm đen nhỏ.

Đào Lâm bị hành động của người áo đen khiến cho ngây ngẩn người, thừ ra một hồi lâu mới hiểu, thì ra người áo đen không phải đuổi theo mình, mà là đuổi theo con bạch mã.

Đào Lâm thở phào nhẹ nhõm, nhưng vừa rồi trông thấy võ công người áo đen thật cao thâm đến mức không thể tưởng tượng được, mà xui khiến sao y lại là kẻ thù bất cộng đới thiên với mình, xem ra mối huyết hải thâm thù của mình kiếp này không sao báo phục được nữa rồi.

Nàng bất giác buông tiếng thở dài, đưa mắt nhìn cỗ xe, giờ đã không còn ngựa, cỗ xe cũng trở nên vô dụng, vừa định bỏ đi, bỗng lại nghe tiếng huýt dài từ xa vọng đến, trong tiếng huýt có kèm theo tiếng nói tuy rất khẽ nhưng rõ ràng:

– Phu nhân không sao chứ?

Đào Lâm sửng sờ, nhận ra ngay tiếng nói đó chính là tiếng nói của Dị Cư Hồ, giọng nói của lão đầy quan tâm, khiến nàng không khỏi cảm động.

Lát sau, bóng dáng Dị Cư Hồ đã hiện ra và thoáng chốc đã đến trước mặt, thấy Đào Lâm đang đứng thừ ra, Dị Cư Hồ lộ vẻ kinh ngạc nói:

– Ủa, phu nhân chẳng việc gì cả ư?

Đào Lâm gật nhẹ đầu:

– Thiếp không việc gì cả.

– Khi nãy ta thấy người áo đen cưỡi bạch mã phóng vút qua, tưởng đâu phu nhân đã gặp bất trắc, nếu đã vô sự thì ta đi đây.

Chưa dứt lời lão đã quay người đi.

Đào Lâm buộc miệng nói:

– Phu quân…

Dị Cư Hồ ơ hờ nói:

– Phu nhân có gì dặn bảo?

Đào Lâm buông tiếng thở dài:

– Phu quân, thiếp chỉ cầu xin một điều, nếu phu quân bằng lòng chấp thuận, thiếp nguyện sẽ một lòng một dạ trọn đời trọn kiếp kề cận bên phu quân.

Dị Cư Hồ lắc đầu:

– Phu nhân khỏi nói nữa, ta đã biết đó là việc gì rồi.

Đào Lâm biết là Dị Cư Hồ chắc chắn đã đoán trúng, điều cầu xin của mình chính là đừng sát hại Lý Thuần Như, trông vẻ mặt Dị Cư Hồ, chắc chắn không bao giờ chấp thuận, bất giác rơi nưới mắt, nói:

– Đã vậy thì… thiếp không dám ép buộc.

Dị Cư Hồ bỗng nói:

– Xin phu nhân hãy nhớ thật kỹ, tuyệt đối không được có ý định báo thù cho song thân!

Đào Lâm ngạc nhiên:

– Sao vậy? Phu nhân đã biết kẻ thù là ai rồi phải không?

Dị Cư Hồ gật đầu:

– Khi nãy ta đã trông thấy rõ người áo đen kia là ai rồi! Ôi, thật không ngờ quả đúng là y.

Đào Lâm kinh ngạc:

– Chả lẽ võ công người áo đen còn cao hơn phu quân ư?

Dị Cư Hồ cười dài:

– Cao hơn ta ư? Rõ là chuyện đùa, ta gặp y tuy ngần ngại, song y gặp ta thì cũng vậy thôi. Nay xem ra y hẳn là có việc khẩn cấp, nên mới bất chấp tất cả cướp lấy bạch mã của ta.

– Lạ thật, y vốn có một con hắc mã kia mà.

– Đúng vậy, con hắc mã của y có tên là Truy Phong Hắc, nhưng không sánh bằng được với con Thiểm Điện Bạch của ta. Chúng ta hãy đi quanh đây tìm con Truy Phong Hắc rồi hẵng tính.

Đào Lâm biết bên trong hết sức phức tạp, và mọi sự có lẽ thảy đều liên quan đến người áo đen này. Dị Cư Hồ không chịu tiết lộ người áo đen là ai, tìm được con hắc mã của y thì cũng tốt, bèn gật đầu đồng ý.

Thế là, hai người lòng vòng tìm kiếm suốt hơn nửa giờ, bỗng nghe tiếng vó ngựa đều đặn từ hướng đông nam vọng đến. Hai người liền ngẩng lên nhìn, chỉ thấy một con ngựa đen đang chậm rãi bước tới.

Dị Cư Hồ cất tiếng huýt dài, nói:

– Quả ta đã đoán không sai, con Truy Phong Hắc của y đúng là đã ở quanh đây.

Nói đoạn lão nắm tay Đào Lâm tiến tới, khi đến gần mới hay còn có hai người đang nằm mọp trên lưng ngựa.

Đào Lâm vừa nhìn rõ hai người trên lưng ngựa, lập tức lớn tiếng gọi:

– Cha, mẹ!

Dị Cư Hồ giật mình:

– Phu nhân, hai người này là lệnh tôn và lệnh đường ư?

Đào Lâm đâu còn thốt nên lời được nữa, chỉ còn biết rơi lệ mà thôi.

Dị Cư Hồ tung mình ba lượt đã đến bên ngựa đen, đưa tay nắm lấy dây cương, con hắc mã quì xuống ngay.

Dị Cư Hồ lẹ làng xách vợ chồng Đào Tử Vân từ trên lưng ngựa xuống, tay vừa chạm vào mình hai người, đã biết họ sống chết ra sao, ngoảnh lại nói:

– Lệnh đường đã bất hạnh, nhưng lệnh tôn hãy còn một hơi thở.

Đào Lâm mắt ngấn lệ, nghẹn ngào nói:

– Còn cứu sống được không?

Dị Cư Hồ lắc đầu:

– E không thể được, nhưng lệnh tôn có di ngôn gì còn có thể dặn lại.

Đoạn lão đặt hai người xuống đất. Đào Lâm nằm mọp lên người mẫu thân nức nở, bỗng nghe tiếng phụ thân gọi:

– Lâm… nhi…, Lâm… nhi…

Đào Lâm ngẩng lên, thấy Dị Cư Hồ đang đặt tay trên huyệt Linh Đài phụ thân, phụ thân mặt trắng bệch, mắt đờ đẫn vô thần.

Đào Lâm vội nhào tới nói:

– Phụ thân, ai đã hại hai người vậy?

Đào Tử Vân thở hồi lâu mới nói:

– Lâm nhi… phụ thân thật…. Có lỗi với… các con.

Đào Lâm kinh ngạc:

– Phụ thân sao lại nói vậy?

Đào Tử Vân tay run run giơ lên, định đặt lên đầu Đào Lâm, song cách tay chỉ nhấc được ba bốn tấc đã uể oải buông trở xuống.

Dị Cư Hồ vội nói:

– Đào tiên sinh có di ngôn gì hãy nói mau, đừng dùng nhiều khí lực kẻo mất thời gian!

Đào Tử Vân buông tiếng thở dài:

– Lâm nhi… đại ca ở đâu, con… có biết không?

Đào Lâm lắc đầu:

– Không!

Đào Tử Vân cũng nước mắt chảy dài:

– Trước khi thọ thương… cha đã ném… hai con… Thông Thiên Bửu Long… xuống hồ nước…

Đào Lâm gật đầu:

– Con biết và đã vớt lên rồi!

Đào Tử Vân mắt rực sáng lên, song chỉ khoảng khắc đã tắt lịm:

– Lâm nhi… con hãy hết sức… giữ gìn hai con… Thông Thiên Bửu Long đó… và quan trọng hơn hết là… mảnh vải gai kia… tuyệt đối không được… để cho kẻ khác biết kẻo… nguy hại đến tính mạng.

– Cha đừng nói đến những việc ấy nữa, thật ra người nào đã hại cha vậy?

Đào Tử Vân trợn mắt, như cố gắng sức nói gì đó, nhưng sau cùng chưa nói được tiếng nào, cổ họng đã nấc lên rồi xuôi tay nhắm mắt.

Đào Lâm thừ ra bên thi thể song thân hồi lâu, lòng nàng thật đau xót đến tột cùng, nên trái lại không có nước mắt.

Dị Cư Hồ lẳng lặng đứng lên, hồi lâu mới nói:

– Phu nhân, lệnh tôn và lệnh đường sau khi trọng thương mà còn có thể lên ngựa được, đó là điều không dễ dàng rồi, phu nhân hà tất quá đau buồn làm gì?

Đào Lâm thờ thẩn nói:

– Thiếp đâu có đau buồn.

Dị Cư Hồ thở dài:

– Phu nhân bất tất dối lòng, lệnh tôn trước khi chết đã đề cập đến hai con Thông Thiên Bửu Long, đó là vật rất hệ trọng, chúng ta…

Đào Lâm cười áo não:

– Hai con Thông Thiên Bửu Long ấy đã bị người áo đen cướp đi mất rồi.

– Ồ!

Dị Cư Hồ bật lên một tiếng sửng sốt, mặt lộ vẻ hết sức thất vọng.

Đào Lâm bỗng hỏi:

– Phu quân muốn Thông Thiên Bửu Long đó lắm phải không?

Dị Cư Hồ vội nắm tay nàng nói:

– Phu nhân, Thông Thiên Bửu Long ấy có quan hệ trọng đại, thật khó giải thích tận tường, sao phu nhân lại để cho y đoạt mất.

Đào Lâm bèn thuật lại sự việc lúc bấy giờ, đoạn nói:

– Nhưng thiếp hãy còn một con!

Dị Cư Hồ mừng rỡ:

– Hay lắm! Phu nhân bảo là sau khi ném hai con rồng vàng ra, người áo đen đã bỏ đi ngay phải không?

– Vâng!

– Vật gói hai con rồng vàng ấy có phải là một mảnh vải gai không?

Đào Lâm thoáng ngẫm nghĩ:

– Thiếp không nhớ rõ lắm, không chừng đúng như vậy.

Dị Cư Hồ vội nói:

– Mảnh vải gai ấy ở đâu rồi?

– Khi mở ra xem, có lẽ đã tiện tay xé bỏ rồi.

Dị Cư Hồ ra chiều rất căng thẳng:

– Vứt bỏ ở đâu?

Đào Lâm thấy Dị Cư Hồ cứ gặng hỏi mãi, bực mình ngoảnh đi phía khác:

– Ai mà còn nhớ chứ!

Dị Cư Hồ giậm chân:

– Phu nhân, nếu phu nhân muốn báo huyết hải thâm thù thì phải tìm bằng được mảnh vải gai ấy.

Đào Lâm ngạc nhiên:

– Tại sao vậy?

– Chẳng lẽ phu nhân chưa từng nghe nói đến lời đồn đại về Thông Thiên Bửu Long hay sao?

– Chưa!

– Kể ra rất dông dài, chúng ta hãy mai táng lệnh tôn và lệnh đường rồi hẵng nói cũng chẳng muộn.

Đào Lâm thừ ra một hồi rồi nói:

– Vậy thì động thủ đi!

Hai người qua loa mai táng vợ chồng Đào Tử Vân xong, Dị Cư Hồ nói:

– Phu nhân, tạm thời ta cũng chưa về Ngân Hoa Cốc, phu nhân đi với ta được chăng?

– Phu quân định đi đâu?

– Ta phải đuổi theo người áo đen.

Đào Lâm kinh ngạc:

– Ủa, phu quân biết người áo đen đi đến đâu hay sao?

– Lẽ ra ta cũng không biết, nhưng lệnh tôn trước khi chết đã đề cập đến Thông Thiên Bửu Long, và người áo đen cũng đã cướp lấy Thông Thiên Bửu Long của phu nhân, vì vậy ta mới biết nơi đến của y.

Đào Lâm nghe xong vẫn chẳng hiểu gì cả, nhưng nàng cũng chẳng màng hỏi tiếp, chỉ nói:

– Chúng ta không đi tìm mảnh vải gai kia hay sao?

– Đương nhiên là phải tìm, nhưng người áo đen cũng chưa chắc đã biết chính xác địa điểm, chúng ta có đến muộn một chút cũng chẳng sao. Phu nhân lên ngựa đi.

ào Lâm tung mình lên hắc mã. Dị Cư Hồ theo bên, hắc mã xoãi vó phóng vút đi.

Dị Cư Hồ xem ra như ung dung đi dạo, nhưng cước bộ nhanh khôn tả, mặc cho hắc mã chạy đến bụi tung mù mịt, Dị Cư Hồ vẫn luôn theo sát bên cạnh.

Lát sau hai người đã đến bên bờ hồ. Đào Lâm ghìm cương dừng ngựa.

Dị Cư Hồ hỏi:

– Phu nhân vứt mảnh vải gai ấy ở đâu, chả lẽ lại không nhớ được ư?

Đào Lâm ngơ ngẩn:

– Thiếp đã tiện tay vứt bỏ, chẳng rõ đã vứt ở đâu cả.

Dị Cư Hồ ngẫm nghĩ một lúc, nói:

– Chúng ta hãy tìm kỹ xem, nếu tìm không được thì thôi.

Đào Lâm thì lại nghĩ khác, nàng biết trước lúc chết, phụ thân đã dặn một cách trịnh trọng như vậy, đương nhiên chẳng phải không có nguyên nhân.

Nên nàng tung mình xuống ngựa tìm kiếm một cách kỹ lưỡng, cơ hồ lật tung từng bụi cỏ ra xem, song tìm suốt cả nửa giờ vẫn chẳng thấy mảnh vải gai ấy đâu cả.

Dị Cư Hồ buông tiếng thở dài nói:

– Phu nhân, đã tìm không được thì thôi.

Đào Lâm tuy không muốn, nhưng cũng chẳng biết sao hơn, đành đứng thẳng lên, nào ngờ vừa ngẩng lên nhìn, chợt thấy mảnh vải gai ấy đang treo trên một ngọn cây nhỏ cách đó không xa, có lẽ do gió đã thổi lên.

Đào Lâm mừng rỡ reo lên:

– Phu quân hãy xem kìa!

Dị Cư Hồ ngẩng lên nhìn:

– Đúng là cố công tìm thì chẳng thấy, mà lại gặp một cách hết sức dễ dàng.

Đoạn lão tung mình lướt tới, đưa tay chộp lấy mảnh vải gai trên cây, rồi quay trở về bên cạnh Đào Lâm. Hai người cùng xem, chỉ thấy mảnh vải gai ấy hết sức bình thường, và còn được dệt rất thô thiển, chẳng có đặc điểm gì cả.

Thế nhưng, nơi giữa mảnh vải gai có năm đốm tròn màu đỏ sậm, trông rất giống vết máu và xếp thành hình hoa mai năm cánh rất tề chỉnh, ngoài ra không có gì khác.

Đào Lâm xem chẳng hiểu gì cả, ngẩng lên nhìn Dị Cư Hồ, thấy y đang chau mày suy tư, hồi lâu mới bỗng vỗ tay reo lên:

– À, ta hiểu rồi!

Đào Lâm vội hỏi:

– Phu quân đã hiểu gì vậy?

– Chúng ta đi mau rồi hẵng nói.

Đào Lâm trố mắt:

– Chúng ta đi đâu?

– Xa lắm, có lẽ phải đi hằng mấy tháng.

Nói đoạn lão liền nắm lấy tay Đào Lâm, đưa nàng lên lưng ngựa, rồi y cũng tung mình lên, hai người một ngựa thẳng tiến về hướng bắc.

Đào Lâm thầm nghĩ, không về Ngân Hoa Cốc thì Lý Thuần Như sẽ tạm có thể bình an vô sự. Nàng đâu có biết rằng, từ khi nàng rời khỏi, Ngân Hoa Cốc đã xảy ra biến cố trọng đại, và Lý Thuần Như cũng đã rời khỏi Ngân Hoa Cốc từ lâu.

Ngựa phóng đi hơn dặm đường, Dị Cư Hồ mới nói:

– Phu nhân chưa từng nghe nói đến Thông Thiên Bửu Long, nhưng có nghe lời đồn đại về bảy quái nhân Ba Tư râu đỏ không?

Đào Lâm ngẩn người:

– Đương nhiên là có, nhưng đó chỉ là để dọa trẻ con thôi, chả lẽ là sự thật hay sao?

Dị Cư Hồ nghiêm túc:

– Phu nhân hãy nói thử xem.

– Hồi còn rất bé, mẹ vẫn thường kể chuyện ấy để dỗ thiếp ngủ, khi lớn lên thì không còn kể nữa. Sự tích ấy cũng chẳng rõ là hồi bao nhiêu năm trước, bỗng có bảy quái khách Ba Tư râu đỏ đến Trung Nguyên, bản thân họ chẳng có chút bản lĩnh gì, nhưng lại đòi giới võ lâm Trung Nguyên phải tôn họ làm lãnh tụ. Lúc đầu, mọi người tưởng đâu họ có thần công khôn lường gì đó, nhưng về sau mưu đồ của họ bị bại lộ, thì ra chỉ là một bọn vô tích sự, lẽ đương nhiên là đều chết tại Trung Nguyên.

– Những gì phu nhân được nghe chỉ có vậy thôi ư?


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.