Tào Cẩm Nhi ngẩn người ra, bà ta chợt trợn mắt mắng: “Năm xưa Lữ sư thúc rộng lượng chỉ giết kẻ thủ ác, không hỏi tội nối giáo cho giặc của ngươi, hôm nay ngươi có mặt mũi nào đến làm loạn trước mộ người!” Hòa thượng ấy cười lạnh: “Hôm nay ta đến đây là muốn kết thúc vụ án năm xưa! Nói thực cho ngươi biết, năm xưa sư phụ ta bị giết thê thảm, nay ta phải trả thù rửa hận cho người. Ta đâu chỉ làm loạn, ta phải đào mộ Lữ Tứ Nương lên, hủy quan tài của mụ ta, đốt xương cốt của mụ thành tro, sau đó chỉnh đốn lại môn hộ Mang Sơn!”
Té ra nhà sư già này tên gọi Diệt Pháp Thượng Nhân, là học trò của Liễu Ân.
Độc Tý thần ni vốn có cả thảy tám học trò, trong đó Liễu Ân đứng đầu, ngoại trừ Lữ Tứ Nương là đệ tử quan môn của Độc Tý thần ni, sáu người còn lại, Tào Nhân Phụ, Lý Nguyên, Châu Tầm, Bạch Thái Quan, Lộ Dân Đảm, Cam Phụng Trì đều được Liễu Ân truyền thụ võ công, sau đó vì Liễu Ân đại nghịch bất đạo, phản thầy phản quốc, Lữ Tứ Nương phụng lệnh của sư phụ cùng đồng môn giết chết Liễu Ân trước mộ Độc Tý thần ni, lúc đó Liễu Ân đã nhận hai học trò, vì bọn họ chưa làm ác nhiều, có thể nói vì phải tuân theo lệnh thầy cho nên Lữ Tứ Nương chỉ giết Liễu Ân chứ không truy cứu họ. Nhưng sau khi các đồng môn bàn bạc với nhau, mọi người đã quyết định đuổi đệ tử của Liễu Ân ra khỏi phái Mang Sơn.
Từ đó về sau hai học trò của Liễu Ân không lộ mặt trên giang hồ nữa, khoảng mười năm trôi qua, đại đồ đệ của Liễu Ân chết sớm, nhị đồ đệ xuất gia làm sư, tự đặt tên là Diệt Pháp hòa thượng, y là kẻ thâm trầm, mười năm qua chỉ tu luyện võ công, chỉ vì y sợ Lữ Tứ Nương cho nên khi bà ta còn sống thì không dám xuất hiện. Tuy Tào Cẩm Nhi biết người này, nhưng y đã im hơi lặng tiếng, cho nên bà ta hầu như đã quên bẵng y. Không ngờ hôm nay y lại dắt thêm hai học trò xuất hiện ở Mang Sơn Trong Giang Nam thất hiệp, ngoại trừ Lữ Tứ Nương, võ công của sáu người còn lại đều do Liễu Ân truyền thụ, Diệt Pháp hòa thượng kế thừa võ học của Liễu Ân, cũng nắm được sở trường của sáu người kia, vừa rồi y dùng công phu Triêm Y Thập Bát Điệt đánh ngã hai đệ tử của Mang Sơn chẳng qua chỉ là trò vặt mà thôi.
Sau khi Diệt Pháp hòa thượng nói rõ thân phận của mình, lập tức hỏi: “Tào Cẩm Nhi, ai đã để ngươi làm chưởng môn nhân?” Tào Cẩm Nhi cả giận nói: “Ngươi có tư cách gì hỏi ta?” Diệt Pháp hòa thượng nói: “Sư phụ của ta là đại đệ tử của Độc tý thần ni, ta là đệ tử duy nhất của người, tuân theo vai vế, khi nào mới đến lượt ngươi? Dù ta khiêm nhường không nhận, các ngươi đề cử chưởng môn cũng phải hỏi ta trước” Dực Trọng Mâu lạnh lùng nói: “Diệt Pháp hòa thượng, ngươi đã không còn là đệ tử của phái Mang Sơn. Tào sư tỷ tiếp nhậm chưởng môn là do Lữ sư thúc chỉ định khi còn sống, đâu đến lượt ngươi lên tiếng?” Diệt Pháp hòa thượng cười lạnh: “Năm xưa Lữ Tứ Nương có thân phận nhỏ nhất trong bổn môn, phạm thượng làm loạn, giết hại chưởng môn sư huynh, chèn ép bọn ta, nay ta sẽ lật lại vụ án này, ta không thừa nhận những điều bà ta đã làm. Cho nên hôm nay phải lập lại chưởng môn!”
Dực Trọng Mâu mắng: “Liễu Ân phản thầy đầu hàng kẻ địch, năm xưa bổn phái thanh lý môn hộ đã chỉ rõ tội của y, võ lâm đồng đạo đều chẳng có ý gì khác, minh chứng đã rõ rành rành, làm sao có thể thay đổi? Ngươi không nhớ đến ơn tha chết của tiền bối bổn phái mà lại còn dám đến đây làm càn, phái Mang Sơn nào có thể tha cho ngươi?” Diệt Pháp hòa thượng cười lạnh: “Dực Trọng Mâu, nay ngươi là một tông chủ của phái Mang Sơn (giải thích: Giang Nam thất hiệp chia thành bảy nhánh, mỗi người là một tông; trong đó nhánh Cam Phụng Trì, Bạch Thái Quan là cường thịnh nhất, là hai tông lớn của phái Mang Sơn) lại là bang chủ của Cái Bang miền Giang Nam, coi như cũng có chút tiếng tăm trong võ lâm, uống nước phải nhớ nguồn, lẽ ra ngươi cũng phải nhớ ơn sư phụ của ta! Ngươi có biết rằng, võ công của Cam Phụng Trì sư phụ ngươi cũng là sư phụ ta truyền thụ hay không? Hôm nay ngươi dám gọi thẳng tên sư phụ của ta ra, chỉ riêng một điểm này ta đã không thể tha cho ngươi! Còn nhà ngươi, Tào Cẩm Nhi, năm xưa ngươi bắt chước Lữ Tứ Nương phạm thượng làm loạn, nay lại nắm giữ chức chưởng môn thì càng không thể tha thứ! Nay ta có hai con đường cho ngươi lựa chọn, thứ nhất là ngươi đơn đả độc đấu với ta, chỉ cần tiếp được mười chiêu của ta thì ta sẽ thừa nhận ngươi là chưởng môn phái Mang Sơn; thứ hai là ngươi phải dập đầu tạ tội, chọn chưởng môn khác, ngoài ra phải xây mộ lập bia cho sư phụ ta, mang áo gai chịu tang để kết thúc vụ án năm xưa!”
Tào Cẩm Nhi tức giận đến nỗi thất khiếu bốc khói, không đợi Diệt Pháp hòa thượng nói xong thì lập tức vung cây gậy đầu rồng đánh về phía y, Dực Trọng Mâu cũng vung cây trượng sắt phụ với Tào Cẩm Nhi. Diệt Pháp hòa thượng cười ha hả, nghiêng người qua tránh cú đánh của Tào Cẩm Nhi, y không trả đòn mà quát Dực Trọng Mâu: “Sao ngươi không trả cây thiền trượng của sư phụ ta cho ta?” Té ra sau khi Liễu Ân chết, Cam Phụng Trì đã rút cây thiền trượng mà Liễu Ân cắm trong vách núi Mang Sơn ra sửa thành cây gậy sắt truyền cho đại đệ tử của ông ta là Lữ Thanh, vì thế mà Lữ Thanh có ngoại hiệu Thiết Quải Tiên, sau khi Lữ Thanh chết đi, cây gậy được trao cho Dực Trọng Mâu, cho nên Diệt Pháp hòa thượng mới nói thế.
Diệt Pháp hòa thượng vừa lên tiếng đã phóng tới, chỉ thấy y tránh cây gậy của Tào Cẩm Nhi, lập tức phóng tới trước mặt Dực Trọng Mâu. Dực Trọng Mâu đánh ra một chiêu Lôi điện giao oanh, cây gậy sắt vẽ thành một vòng tròn, bổ xuống đầu Diệt Pháp hòa thượng, Diệt Pháp hòa thượng quát: “Hay lắm!” Rồi vươn vai tiếp lấy. Bốp một tiếng, cây gậy chạm vào vai Diệt Pháp hòa thượng, Dực Trọng Mâu chợt cảm thấy cây gậy trượt sang một bên, nói thì chậm, nhưng sự việc diễn ra rất nhanh, Diệt Pháp hòa thượng đã chém tới một chưởng, chưởng thế phiêu hốt cùng cực, Dực Trọng Mâu võ công cao cường nhưng cũng không biết y đánh vào hướng nào, vừa dùng công phu Thiết bản kiều né tránh thì Diệt Pháp hòa thượng đã tóm được đầu gậy đẩy về phía trước, Dực Trọng Mâu cảm thấy một nguồn lực lớn dồn tới, theo võ công của ông ta mà luận, tuy ông ta chẳng phải là đối thủ của Diệt Pháp hòa thượng nhưng ít nhất cũng có thể đỡ được vài mươi chiêu, chỉ vì mấy ngày trước ông ta đã bị Mạnh Thần Thông đả thương bằng Tu la Âm Sát Công, tuy đã uống Bích Linh đơn của phái Thiên Sơn nhưng nguyên khí vẫn chưa hồi phục, bị Diệt Pháp hòa thượng đẩy ra phía sau, Dực Trọng Mâu té ngửa xuống, cây gậy đã bị y đoạt mất. Nhưng khi Dực Trọng Mâu ngã xuống cũng đã trả lại một chưởng, chưởng ấy trúng vào cổ tay của y.
Diệt Pháp hòa thượng rút tay lại, Dực Trọng Mâu văng ra cách đó một trượng, Diệt Pháp hòa thượng giật được cây gậy trong tay, cười ha hả: “Dực Trọng Mâu, ngươi cần phải khổ luyện thêm võ công Triêm Y Thập Bát Điệt của bổn môn!” rồi y xoay người, Tào Cẩm Nhi vừa đánh ra chiêu thứ ba Ngũ Đỉnh Khai Sơn, Diệt Pháp hòa thượng đã vung cây gậy lên, hai gậy giao nhau, chỉ nghe tiếng kim khí vang lên chói tai, hổ khẩu của Tào Cẩm Nhi tê rần, bà ta không dám liều tiếp cho nên rút gậy đâm tới như phán quan bút, trong khoảnh khắc đã đâm vào bảy đại huyệt của Diệt Pháp hòa thượng. Nhưng Diệt Pháp hòa thượng kế thừa võ công của Liễu Ân, chiêu này của Tào Cẩm Nhi tuy lợi hại nhưng cũng chẳng làm gì được y, chợt thấy y vung cây gậy cũng đánh ra một chiêu Ngũ Đỉnh khai sơn, cây gậy sắt điểm xuống năm lần hóa giải toàn bộ chiêu số của Tào Cẩm Nhi, trái lại còn đâm vào huyệt toàn cơ của Tào Cẩm Nhi, Tào Cẩm Nhi vội vàng thu trượng hộ thân, lại tiếp của y một trượng nữa, lần này kình đạo mạnh hơn lúc nãy, Tào Cẩm Nhi lảo đảo thối lui ba bước, Diệt Pháp hòa thượng đuổi theo như hình với bóng, đánh hết gậy này tới gậy khác khiến Tào Cẩm Nhi chẳng thể nào thở nổi.
Đệ tử Mang Sơn thấy thế đều kinh tâm động phách, Tào Cẩm Nhi là chưởng môn nhân, đích thân ra tay, các đệ tử không ai dám dồn lên giúp đỡ. Huống chi Diệt Pháp hòa thượng lên tiếng đòi thử võ công bổn môn với Tào Cẩm Nhi, nếu đệ tử phái Mang Sơn thắng nhờ số đông, mà ở đây lại có rất nhiều anh hùng hào kiệt võ lâm, thì dù có thắng cũng mất mặt.
Hai võ quan đi cùng Diệt Pháp hòa thượng nhìn không chớp mắt, đến chiêu thứ năm thì Diệt Pháp hòa thượng đã hoàn toàn chiếm được thượng phong, trượng ảnh dầy đặc bao trùm Tào Cẩm Nhi, hai tên võ quan thở phào, nhìn nhau cười. Diệt Pháp
hòa thượng chợt quát: “Hai tên nhãi ranh ngu xuẩn, các người đến Mang Sơn làm gì?
” Sao còn chưa mau quật mồ Lữ Tứ Nương?”. Hai tên võ quan vội kêu một tiếng ” tuân lệnh” rồi giở cuốc bổ xuống mộ Lữ Tứ Nương.
Lúc này hai đệ tử của phái Mang Sơn tên Vu Hiệu và Cầu Ngọc không nhịn được nữa, cả hai chạy ra, họ là đệ tứ đắc ý của Bạch Thái Quan, trong các đệ tử đời thứ hai của phái Mang Sơn, võ công của họ chỉ kém Dực Trọng Mâu, Tào Cẩm Nhi, Lư Đạo Lân, Lâm Sinh, nay Tào Cẩm Nhi tỉ thí với Diệt Pháp hòa thượng, Dực Trọng Mâu đã bị thương, hai người Lư Lâm vì có việc không tham gia, cho nên họ là người có võ công cao cường nhất trong số các đệ tử Mang Sơn.
Hai tên võ quan nghe sau lưng có tiếng gió lướt lên, không thèm quay đầu lại, rút phắt thanh trường kiếm trở tay đánh ra sau, còn một tay thì vẫn giở cuốc bổ xuống.
Bạch Thái Quan có ngoại hiệu Thần Đao thủ trong Giang Nam thất hiệp, đao pháp của ông ta nổi tiếng võ lâm là nhanh, dữ, đa biến, hai người Vu, Cầu là đệ tử nhập thất của ông ta, vừa xông lên đã triển khai tuyệt kỹ của sư môn, khoái đao chémxuống, chỉ nghe tiếng leng keng vang lên không ngớt, tựa như có mấy chục thanh đaocùng chém xuống một lượt, nhanh đến khó hình dung.
Thế nhưng hai tên võ quan này không hề quay đầu mà dùng trường kiếm trở tay lại tiếp đao, cả hai cũng thi triển tuyệt kỹ khoái đao, đao kiếm và kiếm pháp vốn là có khác nhau, nay họ lại dùng kiếm như đoản đao, tuy là đao pháp giống nhau nhưng vì kiếm có hai lưỡi, mục tiêu chém ra, độ nặng nhẹ của lực đạo lại khác hẳn đoản đao, hai người Vu, Cầu không biết biến đổi, đánh rất nhanh, bại cũng rất nhanh, chém được đến đao thứ mười sáu thì nghe tiếng soạt soạt vang lên, cổ tay của hai người đều bị vạch đứt một đường.
Họ tuy chém mười sáu nhát đao chỉ trong chớp mắt, trong lúc đó Tào Cẩm Nhi cũng chỉ đỡ được một chiêu của Diệt Pháp hòa thượng, thấy hai sư đệ đã bại thì vừa kinh vừa giận, suýt nữa đã bị Diệt Pháp hòa thượng đánh trúng. Diệt Pháp hòa thượng cười ha hả: “Các người tự xưng là đệ tử đời thứ ba của phái Mang Sơn, cả học trò của ta mà đánh không lại, rõ ràng đã quá trễ nải luyện tập võ công của bổn môn, ngươi còn mặt mũi gì làm chưởng môn nhân?” Nếu Diệt Pháp hòa thượng không bị đuổi ra khỏi Mang Sơn, hai tên võ quan này coi như cũng là đệ tử đời thứ tư của phái Mang Sơn, luận về vai vế hai người Vu, Cầu là sư thúc của họ. Tuy võ nghệ của Bạch Thái Quan là do Liễu Ân truyền thụ, nếu tính ra đồ tôn của Liễu Ân cũng coi như là đồ đệ của Bạch Thái Quan, nhưng về mặt danh nghĩa hai người Vụ, Cầu rốt cuộc cũng lớn hơn một bậc, trưởng bối bại trong tay vãn bối, đó là chuyện mất mặt nhất trong võ lâm. Hai người Vu, Cầu tức giận đến nỗi thất khiếu bốc khói, lấy võ công của họ mà luận, vốn là có thể thắng được hai tên võ quan này, nhưng vì không thích ứng được với đao pháp của chúng cho nên mới thất bại, quả thực cảm thấy rất không đáng, nhưng bọn họ là cao thủ có tên tuổi trong phái Mang Sơn, trong võ lâm cũng là người có địa vị, họ có thân phận sư thúc mà thua sư diệt của mình, nếu không chịu nhận thua lại đến đánh tiếp thì không chỉ mất mặt mà cũng gần giống với kẻ vô lại. Bởi vậy cảhai người tuy bốc lửa giận ngất trời nhưng cũng chỉ đành im lặng.
Trong lúc đệ tử của phái Mang Sơn còn đang chần chừ, không biết sai ai đến ngăn chặn, hai tên võ quan lại bổ cuốc xuống mộ Lữ Tứ Nương, Dực Trọng Mâu kêu lớn: “Phản rồi, phản rồi ” rồi gắng gượng đứng dậy giật một cây thiết xích từ trong tay đồ đệ toan lao tới liều mạng.
Ông ta vừa mới bị thương, đồng môn phái Mang Sơn nào dám để ông ta tái chiến, có vài người đến ngăn cản, cũng có vài người chạy ra, trong khoảnh khắc nguy cấp, họ bất đắc dĩ chỉ đành lấy số đông kìm chế hai người ấy rồi tính tiếp.
Đang lúc ồn ào, đệ tử của phái Mang Sơn chưa kịp chạy đến thì chợt thấy có một bóng người phóng vọt lên rồi từ trên không trung lao bổ xuống, hai tên võ quan chưa kịp xoay người lại, vừa mới vung cuốc lên thì bị người ta tóm lấy ném ra, ngã soài trước mặt Dực Trọng Mâu, bốn vó chổng lên trời chẳng thể nhúc nhích. Người đó chính là Kim Thế Di.
Kim Thế Di ra tay khiến mọi người đều bất ngờ, lúc nãy chàng vừa mới bị người của phái Mang Sơn bao vây mà nay lại giúp cho họ bắt hai tên võ quan kia. Trước kia Diệt Pháp hòa thượng chưa từng gặp Kim Thế Di nhưng nghe danh đã lâu, vừa thấy cử chỉ dung mạo thì đã biết chàng chính là Độc Thủ Phong Cái, bất đồ giật mình, thầm nhủ: “Quả nhiên danh đồn không ngoa, xem ra võ công chẳng kém gì mình.” Thế rồi vung cây gậy đẩy Tào Cẩm Nhi thối lùi ba bước, rồi ngửa mặt cười lớn nói: “Tào Cẩm Nhi, ngươi là chưởng môn mà nhờ vào người ngoài giúp đỡ sao? Uổng cho phái Mang Sơn xưng là danh môn chính phái, dù ngươi nhờ người ngoài giúp đỡ cũng không nên nhờ Dọc Thủ Phong Cái! Ha ha, có mặt anh hùng thiên hạ ở đây, chỉ nội điểm này ngươi cũng đã mất thể diện, hôm nay ta phải đưa ngươi ra khỏi sư môn!” Tào Cẩm Nhi sắc mặt đỏ ửng, cả giận mắng: “Ai mời người ngoài giúp đỡ Ngươi cứ nói càn, hãy nếm một gậy của ta!”. Bà ta vốn toan mắng Kim Thế Di nhưng chợt nghe lại chàng làm thế là đã giúp bà ta cho nên không nói ra lời được. Huống chi lúc nãy đôi bên lại có xích mích với nhau các lộ anh hùng đều thấy tận mắt, cần gì phải tranh biện? Song Tào Cẩm Nhi vừa không dám mắng Kim Thế Di, lại không giải thích cho mình, suy đi nghĩ lại thì chỉ có mắng Diệt Pháp hòa thượng, Diệt Pháp hòa thượng cười lạnh tỏ vẻ không tin.
Khi Diệt Pháp hòa thượng cười lạnh, Kim Thế Di cũng phát ra tiếng cười chói tai, át cả tiếng cười của Diệt Pháp hòa thượng, Diệt Pháp hòa thượng trừng mắt: ” Ngươi cười cái gì?” Kim Thế Di nói: “Ta cười nhà ngươi đánh rắm.” Diệt Pháp hòa thượng vung cây gậy, đẩy lui Tào Cẩm Nhi ba thước, tức giận nói: “Ta có nói sai cho ngươi không?” Kim Thế Di cười lạnh: “Tào Cẩm Nhi là người như thế nào mà mời được ta?” Diệt Pháp hòa thượng nói: “Vậy ngươi đến đây làm gì?” Kim Thế Di nói: “Tào Cẩm Nhi tuy tầm thường, ta coi khinh bà ta. Nhưng Lữ Tứ Nương là người ta khâm phục nhất đời, nay ta đến cúng tế trước mộ bà ta, có ai dám đụng một cành cây ngọn cỏ trên mộ của bà ta thì Kim Thế Di này sẽ không tha?” Diệt Pháp hòa thượng nói: “Ồ, té ra ngươi chỉ vì Lữ Tứ Nương?” Kim Thế Di nói: “Ta không thèm màng đến chuyện của các người. Nhưng lúc nãy ngươi vừa mới mắng ta, ta phải tính sổ với ngươi?”
Diệt Pháp hòa thượng nghe chàng bảo không màng đến chuyện phái Mang Sơn thì trong lòng như trút một tảng đá lớn, lập tức đáp: “Ngươi muốn tính sổ với ta? Hay lắm, hay lắm, đợi ta giải quyết xong chuyện hôm nay thì sẽ chiều theo.” Y liếc mắt nhìn, chỉ thấy Kim Thế Di đứng trước mộ Lữ Tứ Nương, quả nhiên không đến giúp đỡ.
Vì Kim Thế Di làm thế, Diệt Pháp hòa thượng không dốc hết toàn lực đối phó Tào Cẩm Nhi, Tào Cẩm Nhi lại đánh tiếp hai trượng, tuy bị Diệt Pháp hòa thượng đẩy lùi, cũng tính là đã đánh hai chiêu, Diệt Pháp hòa thượng thấy đã đánh nhau với Tào Cẩm Nhi trước sau được tám chiêu, y đã có lời rằng trong vòng mười chiêu sẽ hạ được Tào Cẩm Nhi.
Khi Tào Cẩm Nhi đánh gậy xuống, Diệt Pháp hòa thượng quát: “Đến rất hay?” rồi đánh ra một chiêu Tiềm Long Thăng Thiên, cây gậy giơ lên đón lấy gậy của Tào Cẩm Nhi, đây chính là chiêu cực kỳ lợi hại trong Phục Ma Trượng Pháp, chỉ nghe keng một tiếng, tựa như búa lớn gõ vào chuông, âm thanh vang vọng khắp núi rừng, những đệ tử có công lực hơi kém thì chấn động đến nỗi lỗ tai kêu lùng bùng, máu chảy ra, còn cây gậy của Tào Cẩm Nhi thì cong queo. Diệt Pháp hòa thượng tiếp tục đánh một chiêu Phiên Giang Đảo Hải, cây gậy đánh tròn ra như gió, Tào Cẩm Nhi bị một nguồn lực lớn của y dẫn dắt, thân hình bất đồ xoay chuyển theo cây gậy của y, xem ra sắp ngã xuống đến nơi!
Ngay trong khoảnh khắc ấy, người ta chợt nghe một tiếng thét lanh lảnh, một chiếc bóng trắng phóng lướt qua đầu đệ tử phái Mang Sơn, một tiếng keng lại vang lên, lúc này mọi người mới nhìn rõ lại, té ra đó là Cốc Chi Hoa, chỉ thấy nàng đâm kiếm vào, tách hai cây gậy ra. Tào Cẩm Nhi nhất thời cũng đứng không vững, Trình Hạo và Lý Ứng vội vàng nhảy lên đỡ bà ta trở về.
Theo võ công của Cốc Chi Hoa mà luận, nàng vốn kém xa Diệt Pháp hòa thượng, sở dĩ nàng có thể tách được hai cây gậy ra chỉ nhờ dùng xảo kình. Sớm Huyền Nữ Kiếm Pháp của Lữ Tứ Nương rất thích hợp với nữ nhi, khí lực của nữ nhi thông thường chẳng bằng nam nhi, cho nên điểm tinh diệu nhất của bộ kiếm pháp này làdùng xảo giáng lực, lấy kỳ chế thắng, Huyền Nữ Kiếm Pháp tề danh cùng Thiên Sơn kiếm pháp, về mặt hùng hậu thì không bằng Thiên Sơn kiếm pháp, nhưng về mặt kỳ xảo thì có phần hơn. Nhát kiếm này của Cốc Chi Hoa đã nắm đúng thời cơ. Nàng nhân lúc Diệt Pháp hòa thượng đã dốc hết kình lực, nhẹ nhàng dẫn gậy của y qua một bên, vì thế mới dễ dàng tách hai cây gậy ra. Đó cũng bởi Diệt Pháp hòa thượng quá nôn nóng, muốn trong vòng một chiêu đánh bại Tào Cẩm Nhi, nếu y để lại ba phần hậu kình dùng để phòng bị đột kích thì Cốc Chi Hoa không dễ dàng đắc thủ.
Thế nhưng điều đó đã khiến Diệt Pháp hòa thượng cả kinh, nhất là Cốc Chi Hoa là một thiếu nữ trẻ tuổi, y chưa kịp lên tiếng thì Cốc Chi Hoa đã nói: “Sư tỷ, giết gà đâu cần dao mổ trâu, tên hung tăng này dám hủy hoại phần mộ của sư phụ muội, theo lý phải do muội phát lạc, mong sư tỷ cho muội đánh thay.”
Diệt Pháp hòa thượng ngạc nhiên nói: “Ngươi là đệ tử của Lữ Tứ Nương?” Cốc Chi Hoa vung cây Sương Hoa Kiếm của Lữ Tứ Nương, mắng rằng: “Lão lừa trọc, tên của sư phụ ta đâu có xứng cho ngươi gọi!” Ánh kiếm lóe lên, nàng đã đâm vào cổ Diệt Pháp hòa thượng bằng một chiêu Ngọc Nữ Xuyên Châm.
Lúc này Tào Cẩm Nhi đang thở phì phò, nghe Cốc Chi Hoa nói như thế thì trong lòng khó xử, nếu cho phép nàng, họ chẳng phải đã thừa nhận nàng là đệ tử của bổn phái, lại còn là truyền nhân của Lữ Tứ Nương? Nếu không cho thì ai có thể chống nổi Địa Pháp hòa thượng? Dực Trọng Mâu khẽ nói: “Sư tỷ, may có Cốc Chi Hoa dũng cảm đứng ra, cứ để nàng thử xem sao.” Tào Cẩm Nhi nghĩ bụng rồi cao giọng nói: “Cốc Chi Hoa hãy cẩn thận, đánh lui tên hung tăng ta sẽ có cách xử lý. Lời nói của bà ta rất mơ hồ, nhưng cũng đã thừa nhận nàng là đệ tử của bổn phái.
Tào Cẩm Nhi chưa nói xong câu ấy thì Cốc Chi Hoa đã ta tay với Diệt Pháp hòa thượng, tiếng kim khí giao nhau kêu lên lanh lảnh, át cả tiếng của Tào Cẩm Nhi.
Cốc Chi Hoa biết công lực của bản thân không bằng Diệt Pháp hòa thượng, cho nên vừa xông lên đã dùng thế công, chỉ thấy nàng nắm chắc kiếm quyết, chỉ đông đánh tây, chỉ nam đánh bắc, lúc ở phía trước, lúc ở phía sau, mềm mại như lá liễu, nhẹ nhàng tựa chim hồng, kiếm thế quả thật kỳ ảo vô cùng, những người đứng ở ngoài đều hoa cả mắt. Diệt Pháp hòa thượng vung cây gậy múa tròn nhanh đến nỗi gió mưa chẳng lọt, Cốc Chi Hoa tuy xuất kiếm nhanh đến cực điểm nhưng mũi kiếm đều bị y gạt ra, có điều kiếm quang của nàng đã bao trùm Diệt Pháp hòa thượng, trong nhất thời y cũng không thể nào dễ dàng phản công. Chỉ nghe tiếng leng keng vang lên không ngớt trong tai, trong chớp mắt đôi bên đã giao nhau đến mười chiêu có dư.
Tất cả những anh hùng đứng bên ngoài, ngoại trừ Kim Thế Di, đều kinh ngạc? Ai cũng thấy võ công của Diệt Pháp hòa thượng cao cường, khi Cốc Chi Hoa mới xuất hiện, ai cũng lo lắng cho nàng, Dực Trọng Mâu vốn biết nàng tinh thông Huyền Nữ Kiếm Pháp nhưng cũng mong nàng có thể tiếp nổi vài ba chiêu lấy lại sĩ diện cho đệ tử phái Mang Sơn, nào ngờ cả chưởng môn phái Mang Sơn là Tào Cẩm Nhi cũng không chống nổi mười chiêu của Diệt Pháp hòa thượng mà nàng có thể đỡ được hai mươi chiêu, lại còn chẳng hề nao người! Mọi người đứng bên ngoài đều mừng rỡ, mỗi khi nàng đỡ được một chiêu thì họ lại reo hò trợ oai, tiếng reo vang lên như sấm, Tào Cẩm Nhi nghe thế thì vừa mừng vừa giận, mặt lúc xanh lúc đỏ, Kim Thế Di lén nhìn sắc mặt bà ta cũng thầm cười.
Tại sao trong vòng mấy mươi chiêu đầu Diệt Pháp hòa thượng bị nàng đẩy xuống thế hạ phong? Ở đây có một nguyên cớ. Té ra Huyền Nữ Kiếm Pháp là do Độc Tý thần ni nghe ra lúc tuổi đã về chiều, bà ta chỉ truyền thụ cho một mình Lữ Tứ Nương.
Bao nhiêu võ công khác Độc Tý thần ni đều truyền cho Liễu Ân hòa thượng, chỉ trừ bộ Huyền Nữ Kiếm Pháp này. Diệt Pháp hòa thượng kế thừa võ học của Liễu Ân, đương nhiên hiểu rõ võ công của Tào Cẩm Nhi, Dục Trọng Mâu, đã sớm phòng bị, tiện tay phá giải không hề mất sức, chỉ có bộ Huyền Nữ Kiếm Pháp này, Liễu Ân vẫn chưa học, y đương nhiên một ý cũng chẳng thông. Diệt Pháp hòa thượng vốn nghĩ rằng mình chắc chắn sẽ thắng, trước khi y hiểu rõ bộ kiếm pháp này, sợ rằng sẽ thất thủ sẽ bị võ lâm chê cười cho nên không dám liều tiến tới.
Hơn ba mươi chiêu trôi qua, quá nửa những chiêu số tinh hoa của Huyền Nữ Kiếm Pháp đã lộ ra, Diệt Pháp hòa thượng thầm nhủ, kiếm pháp của Cốc Chi Hoa tuy tinh diệu, nhưng công lực vẫn chưa đến cảnh giới nhất lưu, mình tinh thông các loại võ công như thế, chắc chắn có thể thắng được nàng, thế là chuyển thủ thành công, cây gậy sắt to như miệng bát triển khai thế đánh như sấm sét, chỉ thấy bóng gậy như núi, kiếm quang tựa cầu vồng. Trong chớp mắt đôi bên đã lại giao nhau đến ba mươi chiêu nữa.
Quần hùng nhìn mà kinh tâm động phách, tiếng reo hò trợ oai dần dần ngừng lặng, đang lúc kịch đấu, chợt thấy Diệt Pháp hòa thượng quát lớn một tiếng, cây trượng quét ngang một chiêu Bát Phương Phong Vũ, chiêu số đánh ra có tiếng sấm sét, chợt thấy tựa như có mười mấy cây gậy sắt táng về phía Cốc Chi Hoa. Bốn bên của Cốc Chi Hoa đều bị bịt kín. Trong khoảng sát na ấy toàn trường như ngừng lặng, chỉ nghe liếng trống ngực người bên cạnh đập thình thình.
Diệt Pháp hòa thượng đánh ra sát chiêu, buộc Cốc Chi Hoa cũng thi triển công phu tuyệt diệu của mình, khi mọi người đang thót tim, Cốc Chi Hoa chợt phóng vọt ra khỏi màn trượng ảnh, keng một tiếng, mũi kiếm điểm vào đầu gậy rồi nàng lại phóng vọt lên mấy thước, tránh khỏi chiêu Bát Phương Phong Vũ của Diệt Pháp hòa thượng!
Trong số quần hào có vài người tuổi quá sáu mười, năm xưa khi phái Mang Sơn thanh lý môn hộ họ cũng có mặt làm chứng. Lúc này Cốc Chi Hoa dùng khinh công tuyệt đỉnh phối hợp với kiếm pháp thượng thừa đánh ra tuyệt chiêu lợi hại giành lấy chiến thắng trong thất bại, họ đều nhận ra đó là chiêu mà Lữ Tứ Nương năm xưa dùng để giết chết Liễu Ân, đều bảo lịch sử lặp lại, thế là buột miệng reo lên.
Đáng tiếc kiếm thuật của Cốc Chi Hoa tuy cao cường, nhưng rốt cuộc nàng vẫn là một thiếu nữ mới xuất đạo, làm sao có thể so với lúc Lữ Tứ Nương giết Liễu Ân?
Lúc Lữ Tứ Nương mới xuất đạo cũng không đấu lại Liễu Ân, phải gần mười năm sau đó, võ công và dược lực của bà ta có tiến bộ, Liễu Ân lại ác đấu với sáu sư huynh của bà ta một trận, công lực hao tổn thì Lữ Tứ Nương mới giết được Liễu Ân. Nay võ công của Cốc Chi Hoa quá lắm cũng chỉ bằng lúc Lữ Tứ Nương mới xuống núi, mà Diệt Pháp hòa thượng đã trải qua mười năm tu luyện, hầu như còn hơn cả sư phụ năm xưa.
Chợt thấy Cốc Chi Hoa lại đánh ra một đóa kiếm hoa từ trên cao đâm xuống, đó là chiêu Lữ Tứ Nương năm xưa đã giết Liễu Ân, Diệt Pháp hòa thượng quát lớn: “Hay lắm!” rồi cả chưởng lẫn gậy đều đánh ra vù một tiếng, chưởng trái vỗ ra một đòn Phách Không chưởng, cây gậy trên tay phải đâm vào huyệt đan điền của Cốc Chi Hoa. Mũi kiếm của Cốc Chi Hoa bị Phách Không chưởng của y đánh lệch qua một bên, người đang lơ lửng trên không, không thể nào né tránh được. Xem ra đã sắp mất mạng bởi thiết trượng của Diệt Pháp hòa thượng.
Tiếng reo lên đã trở thành tiếng kêu hoảng, thế nhưng trong khoảnh khắc cực kỳ nguy hiểm ấy, Cốc Chi Hoa đã giở ra bản lĩnh phi phàm của nàng, chỉ thấy nàng gập người lại, điểm nhẹ trên đầu gậy rồi phóng vọt ra xa mấy trượng, trong các đệ tử của phái Mang Sơn, ngoại trừ vài người như Tào Cẩm Nhi, Dục Trọng Mâu, những người còn lại đều không thấy được, chỉ tưởng rằng Cốc Chi Hoa đã mất mạng bởi thiết trượng của Diệt Pháp hòa thượng, mọi người đều che mặt không dám nhìn. Kim Thế Di ngửa mặt cười lớn: “Hay lắm, hay lắm! Đây gọi là lấy sở trường của mình để đánh sở đoản của địch! Tào Cẩm Nhi, bà đã thấy rõ chưa?” chàng dùng nội công thượng thừa Truyền Âm Nhập Mật gây chấn động lỗ tai Diệt Pháp hòa thượng. Diệt Pháp hòa thượng đã để cho Cốc Chi Hoa thoát được chiêu ấy, trong bụng đang bực bội, lại bị Kim Thế Di chê cười, trong lòng không khỏi rối bời, nhưng y lại sợ chọc giận Kim Thế Di, lúc này lại càng không dám đụng tới chàng, chỉ đành tịnh khí ngưng thần chuyên tâm đối phó với Cốc Chi Hoa.
Nói thì chậm, sự việc lúc ấy diễn ra rất nhanh, chỉ nghe Cốc Chi Hoa thét lên một tiếng lanh lảnh, vung kiếm đánh tới. Cốc Chi Hoa được Kim Thế Di nhắc nhở, vừa xông lên thì kiếm pháp đã thay đổi, chỉ thấy nàng như bươm bướm xuyên hoa, chuồn chuồn giỡn nước, kiếm chiêu vừa phát ra đã thu lại, hơi vươn tới đã lùi ra, nàng cứ dùng thân pháp nhẹ nhàng triển khai kiếm pháp lẹ làng đa biến để du đấu với Diệt Pháp hòa thượng. Lúc này tình hình đã khác trước, không hề nghe có tiếng binh khí chạm nhau, chỉ thấy gậy sắt tung hoành, kiếm quang bay bổng, tà áo của Cốc Chi Hoa phất phới, trong ánh kiếm bóng trượng, chỉ thấy nàng chợt tiến chợt lùi, chiêu kiếm đánh ra hiểm hóc hơn lúc trước.
Khinh công của Cốc Chi Hoa nhỉnh hơn Diệt Pháp hòa thượng một bậc, nếu nàng muốn rút lui thì vẫn có thể được, nhưng nàng vì sự vinh nhục của sư môn cho nên phải quyết đấu với Diệt Pháp hòa thượng, nhưng công lực của Diệt Pháp hòa thượng cao hơn nàng nhiều, tuy thời gian đã kéo dài, Diệt Pháp hòa thượng chỉ cảm thấy hơi nhọc sức còn nàng thì mồ hôi đã tuôn đầm đìa.
Kim Thế Di thầm nhủ: “Lão lừa trọc này không hề huênh hoang tí nào, quả nhiên là có chân tài thực học. Nếu đơn đả độc đấu mình cũng chưa chắc thắng được y.
Giờ đây Cốc Chi Hoa đã núng thế, cứ đánh mãi nữa thì cuối cùng cũng bại, mình đã đến Mang Sơn thì làm sao có thể ngồi yên mà nhìn?” Nhưng chàng suy đi nghĩ lại mà vẫn chẳng có cách gì giúp Cốc Chi Hoa, nếu dùng độc châm đối phó với hạng người này thì chẳng phí chút sức, nhưng nếu Diệt Pháp hòa thượng phát giác ra, chàng chưa chắc đả thương được y. Hôm nay Cốc Chi Hoa chiến đấu vì sự vinh nhục của sư môn, nếu nàng thắng nhờ sức người ngoài thì cũng chẳng vinh quang gì. Huống chi Kim Thế Di đã bảo hôm nay quyết không màng đến chuyện của phái Mang Sơn, dù cho chàng có ý quyết một trận thư hùng với Diệt Pháp hòa thượng cũng không thể thay thế Cốc Chi Hoa lúc này.
Một hồi sau Cốc Chi Hoa và Diệt Pháp hòa thượng đã đánh nhau hơn trăm chiêu, Diệt Pháp hòa thượng càng đánh càng mạnh, cây gậy sắt triển khai kêu lên vù vù, trong vòng một trượng vuông, Cốc Chi Hoa không thể nào tiến sát tới, nhưng thanh kiếm của nàng múa tít bay bổng, nhanh chóng lẹ làng, cho nên Diệt Pháp cũng không thể nào tiến tới. Những người bên cạnh đều đã thấy họ đang ngang sức nhau, không ai biết rằng Cốc Chi Hoa đang núng thế. Nhưng khi binh khí của họ chạm nhau, Kim Thế Di có thể nghe được kiếm của Cốc Chi Hoa đã yếu đi hai phần, nếu cứ đánh nữa thì chắc chắn sẽ bại. Kim Thế Di chưa nghĩ được cách cho nên trong lòng rất lo. Hai tên võ quan đào mộ vừa bị Kim Thế Di tóm lấy ném đến trước mặt Dực Trọng Mâu, đệ tử phái Mang Sơn đã trói chúng lại thống vẫn chưa rảnh thẩm vấn, lúc này Tào Cẩm Nhi thấy Cốc Chi Hoa và Diệt Pháp hòa thượng đánh nhau đến khó phân thắng bại thì bảo đệ tử đẩy hai tên võ quan tới bàn với Dực Trọng Mâu nên xử lý thế nào. Trong số khách khứa đến dự lễ có một lão anh hùng tên gọi Hoặc Bảo Hiến, ông ta là tổng tiêu đầu của Chấn Nguyên tiêu cục ở Bắc Kinh, Hoặc Bảo Hiến đột nhiên bước tới khẽ nói: “Hai người này là thống lĩnh rất được trọng dụng trong ngự lâm quân, được hoàng thượng ban cho mặc hoàng mã quải. Người cao tên gọi là Cẩn Thuần, kẻ thấp tên là Tần Đại.”
Khi đang nói thì hai tên võ quan đã bị đẩy tới, Cẩn Thuần trợn mắt, lớn giọng nói: “Tào Cẩm Nhi, ngươi muốn làm gì bọn ta?” Tào Cẩm Nhi tức giận nói: “Nhà ngươi dám đến Mang Sơn làm loạn, đào mồ cuốc mã người ta, tội không thể dung, chưởng hình đệ tử hãy đến đây, đánh bọn chúng ba trăm gậy rồi đuổi xuống núi!” TầnĐại cả cười nói: “Tào Cẩm Nhi, ngươi thật lớn gan.Trừ phi ngươi dám giết chết bọn ta, nếu không thì tội làm nhục mệnh quan triều đình không những người gánh không nổi mà cả phái Mang Sơn cũng thế! Phái Mang Sơn của ngươi so với chùa Thiếu Lâm thì thế nào? Chùa Thiếu Lâm chống đối triều đình đã bị hỏa thiêu. Nếu không có gan giết ta, ta sẽ báo thù!”
Độc Tý thần ni sáng lập phái Mang Sơn là để phản Thanh phục Minh, Lữ Tứ Nương giết chết hoàng đế Ung Chính, cần gì phải sợ hai tên võ quan? Nhưng phái Mang Sơn đang âm thầm thực hiện công cuộc phản Thanh phục Minh, tuy người trong võ lâm ai cũng biết Lữ Tứ Nương giết chết Ung Chính, nhưng họ cũng chỉ đồn với nhau chứ không dám công khai bàn luận. Còn về phía triều đình thì càng không chịu thừa nhận hoàng đế đã bị người ta ám sát. Chính vì thế cho nên triều đình tuy căm ghét phái Mang Sơn nhưng cũng không dám công nhiên ra tay.
Đệ tử của Chu Tầm là Trình Hạo, trong số đệ tử đời thứ ba của phái Mang Sơn, vị trí của y chỉ kém Tào Cẩm Nhi, Dực Trọng Mâu, y được xếp hàng thứ ba, tính tình của y tương đối thâm trầm, nghe khẩu khí của hai tên võ quan thì thầm kêu không xong, thế nên kẻo Dực Trọng Mâu sang một bên, thì thầm nói: “Ba mươi năm trước Lữ cô cô giết chết Ung Chính, triều đình nhà Thanh đã căm hận phái Mang Sơn chúng ta, chỉ vì chưa có cớ đối phó với chúng ta mà thôi, chúng ta tuy âm thầm phản Thanh, nhưng bề ngoài thì chưa bao giờ làm chuyện giết quan chiếm phủ, không có cớ cho triều đình nắm, nay không thể vì hai tên ngự lâm quân mà công khai đối địch với triều đình.” Dực Trọng Mâu nghĩ bụng quả đúng như thế, thầm nhủ: ” Dù cho giết hai gã này bịt miệng, ở đây có rất nhiều người, người đông thì miệng nhiều, chuyện này cũng khó che giấu. Giết cũng không được mà thả cũng không xong, vậy phải làm thế nào?”
Tào Cẩm Nhi nghe hai tên võ quan nói thế thì tức nghẹn lời. Nhưng nghĩ lại thì cũng thấy có lý, nhưng làm sao có thể thả bọn chúng, nghĩ ngợi một hồi thì lạnh lùng nói: “Ngươi đến đây quật mồ tiền bối phái Mang Sơn ta, ta chỉ xử lý theo quy củ võ lâm, mặc kệ bọn ngươi có phải là mệnh quan triều đình hay không!” khẩu khí đã mềm mỏng hơn. Cẩn Thuần cười lạnh nói: “Người đã không thừa nhận bọn ta là đệ tử phái Mang Sơn, ta cũng không thừa nhận ngươi là chưởng môn phái Mang Sơn, ngươi còn lên mặt với bọn ta, dù cho bọn ta là kẻ cường đạo đào trộm mộ, ngươi cũng chỉ có thể đưa bọn ta đến nha môn quan phủ, sao sao có thể tự tiện dùng tư hình? Chả lẽ triều đình không có pháp luật?” y nói một hồi cũng có lý của mình, Tào Cẩm Nhi giận run, đang định mặc kệ tất cả, kêu đệ tử chưởng hình chấp hành, Tần Đại lại cười lạnh: “Tào Cẩm Nhi, ngươi là người có gia sản con cháu, bọn ta mất mạng ngươi cũng khó tránh khỏi họa nhà tan cửa nát, ta chỉ nói có thế mà thôi, ngươi muốn giết muốn mổ thì cứ việc!” Chồng của Tào Cẩm Nhi là danh môn đại tộc, ông ta không phải là người trong võ lâm, Tần Đại vừa nói đúng tim đen của Tào Cẩm Nhi, dù cho bà ta không tiếc mình cũng phải thương cho chồng. Bà ta liếc mắt nhìn thì thấy Dực Trọng Mâu và Trình Hạo đều có sắc mặt nặng nề, cả hai đều lắc đầu tới bảo bà ta không nên làm càn.
Khi Tào Cẩm Nhi còn đang khó xử, chợt nghe Kim Thế Di cười rộ nói: “Tào Cẩm Nhi, hai tên này là do Kim Thế Di ta bắt, sao bà dám tự tiện xử lý? Muốn tra khảo cũng chưa đến lượt bà!” Té ra nhân lúc mọi người đang chú ý đến trận ác đấu, Kim Thế Di đã âm thầm bước tới.
Dực Trọng Mâu cả mừng, vội vàng nói: “Kim huynh, huynh cứ việc đem bọn chúng đi!” Tào Cẩm Nhi tuy tức giận nhưng cũng mừng vì thoát được gánh nặng cho nên chẳng lên tiếng. Kim Thế Di cười ha hả, tóm hai tên võ quan rồi bước tới trước mộ Lữ Tứ Nương, day mặt về phía Diệt Pháp hòa thượng và Cốc Chi Hoa, lúc này Diệt Pháp hòa thượng và Cốc Chi Hoa đã đánh nhau đến hơn hai ba trăm chiêu, Cốc Chi Hoa tuôn mồ hôi ròng ròng, kiếm pháp, cũng không còn lanh lẹ như trước.
Kim Thế Di ném hai tên võ quan xuống đất, ngửa mặt cười lớn ba tiếng, đột nhiên trừng mắt, mặt đầy sát khí khiến cho cả hai đều khiếp đảm.
Tất cả những người đứng trên núi đều đưa mắt nhìn về phía Kim Thế Di, cả Cốc Chi Hoa và Diệt Pháp hòa thượng đang đại chiến cũng phải liếc mắt nhìn.
Chỉ thấy Kim Thế Di đạp chân lên người hai tên võ quan, lớn giọng cười: “Ta không cha mẹ, không thê thiếp, không có sản nghiệp, không con cháu, trên chẳng sợ trời, dưới chẳng sợ đất, hoàng đế Thát Tử của các người nếu rơi vào tay ta cũng bị đánh ba trăm gậy, giết hai tên võ quan nhãi nhép các ngươi cũng chỉ như giết chết hai con kiến mà thôi!” hai tên võ quan hoảng sợ đến nỗi hồn bay phách tán, kêu khổ không ngớt, bọn chúng lấy thân phận võ quan ngự lâm quân có thể uy hiếp được Tào Cẩm Nhi, uy hiếp được tất cả đệ tử phái Mang Sơn, nhưng lọt vào tay Kim Thế Di thì bọn chúng đành bó tay. Trong hai người thì Cẩn Thuần gan dạ hơn, y đánh liều mắng: “Tên khốn kiếp Độc…Độc… ôi chao, ôi…” y chưa kịp mắng bốn chữ Độc Thủ Phong Cái thì chợt thấy trong người tựa như có hàng trăm hàng ngàn con độc xà đang cắn xé, đau đến nỗi chết đi sống lại, y muốn mình chết đi nhưng không thể nào chết được, tuy đau đớn đến tận gan ruột nhưng đầu óc thì vẫn tỉnh táo!
Kim Thế Di cười nói: “Con chó hai đầu nhà ngươi sao không mắng nữa? Ngươi muốn khích cho ta giết các người? Đâu có dễ như thế? Lão tử sẽ từ từ dày vò các ngươi!” rồi hai chân đạp lớn huyệt quy tàng lên lưng của bọn chúng, đây là cao điểm của kỳ binh bát mạch, Kim Thế Di hơi nhấn ngón chân, hai lên võ quan ấy kêu rú lên tựa như hai con thú hoang bị thương, những người hơi nhát gan đều bịt tai không dám nghe. Hai tên võ quan là ái đồ của Diệt Pháp hòa thượng, Diệt Pháp hòa thượng bảo bọn chúng lên kinh tìm cách chui vào ngự lâm quân để chuẩn bị cho ngày hôm nay, lấy bọn chúng làm công cụ uy hiếp phái Mang Sơn, y nằm mơ cũng không ngờ rằng lại có Kim Thế Di xuất hiện! Lúc đó y nghe hai tên ái đồ kêu rú lên, dù cho y tịnh tu mấy mươi năm nhưng cũng không khỏi bốc lửa giận, tinh thần rối loạn.
Lúc này Cốc Chi Hoa đang ở thế hạ phong, nàng chỉ chuyên tâm đối phó với Diệt Pháp hòa thượng, trong mắt nàng chỉ có cây gậy sắt của Diệt Pháp hòa thượng, tai nàng chỉ lắng nghe phương hướng gậy đánh tới, còn những chuyện khác thì nàng chẳng nghe chẳng thấy. Một người thì phân tâm, một người thì chăm chú, thế là tình thế đã thay đổi, chợt thấy Cốc Chi Hoa thừa thế phản công, kiếm khí như cầu vồng, ánh hàn quang dồn ra, nàng đâm soạt soạt mấy kiếm, đẩy lùi được Diệt Pháp hòa thượng.
Diệt Pháp hòa thượng thầm kêu không xong, dù cho lúc đó y muốn phóng ra đấu với Kim Thế Di cũng không thể, y vội vàng định thần, tiếp tục tung ra sát chiêu. Đôi chân vừa mới đứng vững chỉ nghe Kim Thế Di lại mắng : ” Lữ Tứ Nương là người ta kính ngưỡng nhất trên đời, các ngươi đám đào mộ bà ta, ta phải dạy cho các ngươi một bài học mới được. Giờ đây ta có hai con đường cho các ngươi chọn lựa, nếu các ngươi không nhận tội thì ta sẽ không ngủ ba ngày ba đêm bầu bạn với các ngươi, đem ra mười tám loại hình phạt để đối phó với các ngươi; nếu các ngươi nhận tội, nghe theo lời ta, hì hì, có lẽ ta sẽ tha cho các ngươi.” Hai tên võ quan nghe thế thì nghĩ, nếu không nhận tội thì sẽ bị tra tấn ba ngày ba đêm, chỉ bị phạt có một lúc đã không chịu nổi huống chi là ba ngày ba đêm? Thế là cả hai vội vàng nói: “Chúng tôi đã biết lỗi, chúng tôi nhận tội!”
Kim Thế Di nói: “Chỉ nhận lỗi bằng mồm thì không tính. Trước tiên các ngươi phải dập đầu ba cái trước mộ, xin tội trước Lữ Tứ Nương lão tiền bối” thế là hai chân giở lên, buông hai tên võ quan ra, hai tên võ quan lồm cồm bò dậy, lập tức dập đầu như tế sao.
Kim Thế Di cố nhịn cười, nói: “Mỗi người tự tát lên mặt mình hai mươi cái, mỗi cái thì tự mắng mình là kẻ khốn kiếp, là con rùa đen ” hai tên võ quan dẫu sao cũng là thống lĩnh ngự lâm quân, những lời tự sỉ nhục ấy làm sao có thể nói ra? Cả hai còn đang chần chừ thì Kim Thế Di chợt cười lạnh, giơ cây thiết trượng trừng mắt mắng: “Hay lắm, xương của các người rất cứng, không chịu mắng? Ta phải thử xem xương các người cứng đến mức nào?” thế rồi chàng làm ra vẻ như đánh xuống, hai tên võ quan ấy vội vàng tát bôm bốp vào mặt mình! Cứ mỗi khi tát một cái thì mắng một tiếng.
Diệt Pháp hòa thượng tức đến nỗi thất khiếu bốc khói, tận mắt thấy ái đồ của mình bị Kim Thế Di lăng nhục như thế trước mặt anh hùng thiên hạ, mặt mũi của kẻ làm thầy như y còn đâu, dù cho có đoạt được chức chưởng môn của phái Mang Sơn nỗi nhục này suốt đời cũng khó rửa!
Cao thủ đang tỉ thí thì làm sao có thể phân tâm? Diệt Pháp hòa thượng vừa mới lấy lại thế cân bằng với Cốc Chi Hoa, lúc này nổi giận, tâm khí nhộn nhạo, Cốc Chi Hoa đột nhiên đánh ra một chiều Bạch Hồng Quán Nhật, ánh hàn quang của cây Sương Hoa Kiếm đổ ra, đâm vào cổ họng của y, Diệt Pháp hòa thượng vội vàng thối lui, chỉ nghe soạt một tiếng, chiếc tăng bào đã bị kiếm của Cốc Chi Hoa đâm xuyên qua. May mà Diệt Pháp hòa thượng có nội công tinh thuần, y vội vàng thu ngực hóp bụng, mũi kiếm chỉ xê xích nửa tấc, không chạm vào da của y nhưng cũng khiến cho y toát mô hôi lạnh!
Lúc này Kim Thế Di lại lớn giọng bảo: “Hai tên khốn kiếp nhà ngươi quả nhiên biết nghe lời, bây giờ thì hãy mắng tiếp, mắng lão lừa trọc kia, chính lão đã dắt các ngươi đến đây, lại muốn làm chưởng môn, khiến cho các ngươi bị hành tội, cho nên các ngươi phải mắng lão, ta thấy ai mắng dữ nhất thì ta sẽ thả kẻ ấy.”
Trong võ lâm, thầy trò cũng như cha con, thầy mà bị học trò mắng là điều ô nhục nhất trên đời! Cẩn Thuần lớn giọng nói: “Kim Thế Di, ngươi hãy giết chết ta đi!” Kim Thế Di cười lạnh nói: “Hừ, ngươi không chịu mắng? Ngươi muốn chết? Đâu có dễ như thế?” Thế rồi giơ cây gậy đâm mạnh vào huyệt quy tàng trên lưng của y, Cẩn Thuần kêu thảm, chỉ cảm thấy lục phủ ngũ tạng tựa nhúm đảo lộn, đau đến nỗi lăn lộn dưới đất, Kim Thế Di nói: ” Ngươi có mắng hay không?” rồi tiện tay đặt đầu gậy lên lưng Tần Đại, quát: “Còn ngươi, ngươi có mắng không?” Tần Đại sợ đến nỗi hồn bay phách tán, vội vàng mắng: “Tặc hòa thượng, tặc hòa thượng!” Cẩn Thuần cũng mắng theo: “Lão lừa trọc, lão lừa trọc!” Kim Thế Di quát: “Ta chẳng nghe gì cả, mắng lớn lên! Tốt! Hai ngươi hãy thi với nhau, coi ai mắng dữ hơn!” Kim Thế Di giở cây gậy, trừng mắt nhìn bọn họ, Cẩn Thuần, Tần Đại nào dám không mắng, câu đầu tiên thì còn khó, đến khi mắng xong thì chẳng còn liêm sỉ gì nữa, câu thứ hai, câu thứ ba… cứ thế tuôn ra không ngớt, bao nhiêu chuyện xấu Diệt Pháp hòa thượng đã làm đều tuôn ra từ mồm hai kẻ học trò yêu!
Tần Đại, Cẩn Thuần ngoác mồm mắng lớn một trận, bọn đệ tử phái Mang Sơn thấy khoái trá trong lòng, bọn chúng mắng một tiếng “lão lừa trọc”, đệ tử phái Mang Sơn lại vỗ tay khen một tiếng “Hay!” Diệt Pháp hòa thượng nghe rất rõ ràng, tức đến nỗi chết đi sống lại, y vừa căm tức Kim Thế Di, vừa hận học trò chẳng ra thể thống gì.
Kim Thế Di đẩy Tần Đại, Cẩn Thuần tiến về phía trước mấy bước, hai tay đặt vào bối tâm của chúng, buộc bọn chúng hướng mặt về phía Diệt Pháp hòa thượng mà mắng, còn chàng thì buông giọng cười lớn: “Hay, hay lắm! Mắng rất hay! Mắng nữa, mắng nữa!” Diệt Pháp hòa thượng gầm lên như sấm: “Kim Thế Di ngươi làm nhục ta quá thể, hôm nay ngươi không chết thì ta vong!” đang định nhảy ra khỏi vòng chiến để lao vào liều mạng với Kim Thế Di. Tiếng quát chưa ngừng thì chỉ nghe soạt một tiếng, Cốc Chi Hoa phóng vọt người lên không, rồi chém xuống một kiếm, vai của Diệt Pháp hòa thượng đã bị nàng chém bay một mảng thịt, cả xương vai cũng nứt toác! Kim Thế Di thu hai chưởng lại, cười rằng: “Các người mắng rất hay, đã có thể chuộc tội, cút đi!” Tần Đại, Cẩn Thuần chỉ mong có thế, lấy tay áo che mặt, nào dám nhìn sư phụ, vội vàng co giò chạy mất! Kim Thế Di cười ha hả rồi nhảy ra, hướng về phía Diệt Pháp hòa thượng nói: ” Ngươi dám lên núi quật mộ Lữ Tứ Nương. Món nợ này ta cũng phải tính với ngươi, nhưng nay ngươi đã bị thương, Kim Thế Di này không bao giờ bắt nạt kẻ đã bị thương, đợi ngươi dưỡng thương xong thì ta sẽ tìm ngươi!”
Diệt Pháp hòa thượng bại trong tay Cốc Chi Hoa, y tức giận đến cùng cực, nhưng y cũng đã bị thương không nhẹ, lúc này đừng nói là đấu với Kim Thế Di, dù cho Cốc Chi Hoa y cũng không đánh lại. Diệt Pháp hòa thượng nghĩ bụng, nếu đánh tiếp thì chỉ e mất mạng già, cho nên chỉ đành nuốt cơn giận. Thế rồi y ném lại mấy câu vớt vát sĩ diện rồi buông gậy lết thết chạy khỏi Mang Sơn.
Cốc Chi Hoa đút kiếm vào bao, bước tới trước mặt Tào Cẩm Nhi thi lễ rồi bẩm: “Nhờ sư phụ linh thiêng, sư tỷ oai phong, đệ tử Cốc Chi Hoa đã đuổi hung tăng xuống núi, giờ xin đợi lệnh!” thực ra nàng có thể tìm thắng trong bại toàn nhờ Kim Thế Di dùng diệu kế chọc giận Diệt Pháp hòa thượng, tất cả mọi người ai cũng biết đương nhiên Tào Cẩm Nhi cũng hiểu, Cốc Chi Hoa nói như thế cho nó qua là để giữ sĩ diện cho bà ta mà thôi.
Dực Trọng Mâu nói: “Sư tỷ, Cốc Chi Hoa đánh bại hung tăng, có công lớn đối với bổn môn, sư tỷ cũng nên khoan dung đối với nàng, để nàng ở lại sư môn!” Tào Cẩm Nhi hờ hững nói: “Ta có cách xử lý, sư đệ không cần nhiều lời.” Dực Trọng Mâu chỉ đành lùi xuống.
Lúc đó tất cả mọi ánh mắt đều tập trung vào Tào Cẩm Nhi, Tào Cẩm Nhi vừa thẹn vừa giận, bà ta tránh cái lễ vừa rồi của Cốc Chi Hoa, đứng dậy chậm rãi nói: “Cốc Chi Hoa, hôm nay ngươi đuổi hung tăng, giữ phần mộ cho sư phụ của ngươi, nghĩ đến điều này ta đặc biệt khoan dung cho ngươi, ngươi cứ giữ lấy bảo kiếm và kiếm phổ, nhưng cha của ngươi là kẻ thù của phái Mang Sơn, phái Mang Sơn không thể giữ lại ngươi, ta cho phép ngươi tự lập môn hộ, cũng cho phép ngươi giữ danh phận thầy trò với Lữ cô cô, xuân thu cúng tế, ngươi có thể lên Mang Sơn tảo nhưng ngươi không được dùng danh nghĩa đệ tử phái Mang Sơn ra giang hồ, được, ngươi hãy đi đi!”
Bà ta vừa nói ra câu ấy thì rất nhiều người trong phái Mang Sơn đều cho rằng quá đáng, nhưng mọi người vì sợ uy nghiêm của chưởng môn sư tỷ nên không dám lên tiếng. Một hồi lâu sau, Trình Hạo bước ra phía trước, chậm rãi nói: “Nay Cốc Chi Hoa đuổi hung tăng, đã lập được công lao rất lớn cho bổn phái, mong sư tỷ khai ân có thể xử lý khoan dung hơn hay không?” Tào Cẩm Nhi nghiêm mặt, lạnh lùng nói: “Takhông buộc cô ta giao ra kiếm phổ và bảo kiếm, lại cho phép cô ta tự lập môn hộ, trở thành một chi của bổn phái đã là rất khoan dung, còn muốn khai ân như thế nào nữa?
Cha của cô ta là kẻ thù của bổn môn, đệ có dám đảm bảo rằng sau này có việc cô ta không hướng về cha ruột? Nếu sau này xảy ra chuyện như thế, chi bằng giờ đây cứ mời cô ta ra đi?” Tào Cẩm Nhi nói những lời như thế chỉ là xét cho bổn môn, quả thực cũng có lý do, Trình Hạo tuy tin Cốc Chi Hoa không nhận một đại ma đầu như thế làm cha, nhưng ông ta cũng không dám đảm bảo điều đó, cho nên nghe Tào Cẩm Nhi nói như thế chỉ đành im lặng.
Hoắc Bảo Hiến thấy mình có mối giao tình với hai đời phái Mang Sơn, bước ra nói: “Quý phái thanh lý môn hộ, lão hủ là người ngoài lẽ ra không nên nói nhiều.
Nhưng nghĩ lại Lữ Tứ Nương chỉ có một đệ tử này, nếu đuổi truyền nhân của bà ta ra khỏi môn phái, ở dưới suối vàng bà cũng không yên lòng. Tào chưởng môn có thể nghĩ tình Lữ Tứ Nương, cho phép nàng ở lại môn phái?” Hoắc Bảo Hiến tựa như có ý trách Tào Cẩm Nhi. Tào Cẩm Nhi chợt biến sắc, nói: “Lữ cô cô của tôi bình sinh ghét ác như thù, nếu người biết đã thu nhầm con gái của đại ma đầu Mạnh Thần Thông làm học trò, chỉ e người xử lý càng nghiêm khắc hơn!”. Hoắc Bảo Hiến cụt hứng, thầm nhủ: “Nếu Lữ Tứ Nương còn sống, bà ta nhất định sẽ không làm như thế.
Huynh đệ kết nghĩa của Hoắc Bảo Hiến là Hứa An Quốc thấy thế thì ngứa mắt, bước lên nói: “Lúc nãy tôi nghe Liễu Hành Sâm lão đệ nói: “Khi Lưỡng Hồ đại hiệp Cốc Chính Minh quyết định nuôi dưỡng con gái của Mạnh Thần Thông, đã từng nói cha mẹ có tội, con trẻ thì vô tội. Cốc cô nương đã được Lưỡng Hồ đại hiệp nuôi dạy, lại được Lữ Tứ Nương vun bồi mười năm, dù cho có ác căn cũng đã cắt bỏ hết. Huống chi lúc nãy tôi thấy nàng rõ ràng biết mình sức yếu nhưng cũng dám liều mạng tỉ thí với tên hung tăng, quả thực là đệ tử tốt của bổn môn. Mong Tào nữ hiệp suy nghĩ lại có nên thu lệnh lại hay không?” Hứa An Quốc nói những lời như thế đúng là thông tình đạt lý, Tào Cẩm Nhi cũng hơi động dung, nhưng lúc này bà ta đã khó xuống nước, vẫn nói cứng: “Tôi cũng mong cô ta là người hiệp nghĩa, nhưng cha của cô ta kẻ thù của bổn môn, chuyện này không phải tầm thường, tôi thà để võ lâm đồng đạo trách nghiêm khắc vô tình, tôi cũng không dám để lại cái họa trong lòng của bổ nmôn!”
Nói đi nói lại, Tào Cẩm Nhi rết cuộc không an lòng. Cốc Chi Hoa rơm rớm nước mắt, đã có vài lần định nói gì đấy nhưng lại thôi. Ngay lúc này, chợt nghe Kim Thế Di cả cười nhảy ra kéo tay Cốc Chi Hoa chạy.
Tào Cẩm Nhi giật mình, chỉ tưởng rằng Kìm Thế Di đến gây sự, nhưng lại thấy Kim Thế Di kéo tay Cốc Chi Hoa ngửa mặt cười lớn: “Đại trượng phu độc lai độc vãng, chẳng cần dựa vào ai! Cốc cô nương, cô nương là bậc cân quắc tu mi, nữ trung hào kiệt, cớ gì phải cam lòng để cho bà già này bắt nạt? Theo tôi thấy, cô nương cứ tự lập môn hộ, đâu cần phải nhờ đến họ?” rồi chàng kẻo tay Cốc Chi Hoa bỏ chạy.
Thực ra nếu Cốc Chi Hoa chịu năn nỉ, theo quy củ võ lâm, trước mộ sư phụ, chỉ cần thề mãi mãi nghe lệnh chưởng môn nhân, quyết không phản bội bổn môn, cấu kết người ngoài, lại thêm tiền bối võ lâm nói vào, Tào Cẩm Nhi sẽ xuống nước, bà ta chắc chắn sẽ thu lệnh lại, cho phép Cốc Chi Hoa ở lại trong môn phái. Cốc Chi Hoa và Hứa An Quốc đều nghe câu cuối cùng của bà ta, khẩu khí đã mềm hơn lúc trước, nhưng Hứa An Quốc rốt cuộc là người ngoài, ông ta không tiện bảo Cốc Chi Hoa làm thế; còn Cốc Chi Hoa, sau khi đã biết được thân thế của mình, tuy nàng đã sớm hạ quyết tâm không nhận Mạnh Thần Thông làm cha, nhưng trước mặt anh hùng thiên hạ, nàng bị Tào Cẩm Nhi bắt nạt, lại còn bảo cha nàng là kẻ địch, nàng cũng có sự ngang ngạnh của một thiếu nữ, làm sao có thể nua được cục giận này? Đó chính là nguyên do Cốc Chi Hoa rơm rớm nước mắt, đã có nhiều lần định lên tiếng nhưng lại thôi.
Lúc này Cốc Chi Hoa thầm nhủ, chuyện đã như thế, có ở lại phái Mang Sơn cũng chẳng có ý nghĩa gì, nàng bị Kim Thế Di kẻo tay áo, bất đồ cũng chạy theo chàng mấy bước, rồi nàng đột nhiên vùng ra, Kim Thế Di kêu lên: “Cô nương còn lưu luyến điều gì? Lúc này không đi còn đợi lúc nào?” Cốc Chi Hoa bước tới trước mặt Tào Cẩm Nhi, dập đầu ba cái, lớn giọng nói: “Tiểu muội bái biệt ”
Tào Cẩm Nhi bị Kim Thế Di mắng là bà già thối tha, tức đến phát run, nhưng nghĩ lại Kim Thế Di lúc nãy đã xử trí hai tên võ quan giúp mình, xóa bỏ mối họa cho phái Mang Sơn, lại cũng chính nhờ chàng chọc giận Diệt Pháp hòa thượng, Cốc Chi Hoa mới giành được thắng trong bại, giữ sĩ diện của đệ tử phái Mang Sơn, dù không đáp tạ chàng, nhưng cũng không thể kêu các đệ tử vây đánh chàng. Vả lại Tào Cẩm Nhi cũng không thể mắng tay đôi với Kim Thế Di. Vì thế bà ta cũng chẳng làm gì được chàng. Lúc này Cốc Chi Hoa bái biệt, bà ta nghiêng người tránh qua một bên, không nhận lễ của Cốc Chi Hoa, lạnh lùng nói: “Từ rày về sau, tôi không phải là sư tỷ của cô nương, cô nương cũng chẳng phải là sư muội của tôi, cô nương thích đi theo ai thì tôi cũng mặc!” Kim Thế Di cười lạnh: “Tào Cẩm Nhi, bà coi thường tôi, tôi càng coi thường bà. Nếu không nể mặt Lữ Tứ Nương, hôm nay bà đã nếm một trận gậy của tôi!” Tào Cẩm Nhi tức đến nỗi thất khiếu bốc khói, vung cây gậy đầu rồng, chưa kịp lên tiếng thì Kim Thế Di đã trợn mắt nạt: “Bà dám!” Tào Cẩm Nhi quả thực cũng hơi sợ chàng, thấy ánh mắt chàng lộ hung quang thì thất kinh, bất đồ thối lui một bước, chẳng nói ra lời, Kim Thế Di cười ha hả rồi kẻo Cốc Chi Hoa xuống núi.
Đó chính là: ” Độc lai độc vãng chẳng sợ ai? Là trong là đục tự mình biết.”