Vô Tự Thần Bi

Chương 2 - Kỳ Duyên Trong Núi

trước
tiếp

Trên ngọn núi Càn Nguyên phong có một bóng đen phi thân như sao băng xuống dưới chân núi, chỉ thoáng chốc sau đã đến địa giới hai vùng Thiểm Tây – Hà Nam bóng đen ấy mới hơi chậm thân pháp đó là một thiếu niên tuấn tú tên Tôn Lan Đình.

Núi Càn Nguyên Phong là nơi thanh tu của lão nhân Thần Long Tôn Giả Cốc Tang Điền được liệt vào Võ lâm Thất tuyệt vì võ công cái thế. Khi Tôn Lan Đình mới mười tuổi chàng đã được phụ thân đưa lên đây để chàng học võ nghệ với Thần Long Tôn Giả. Sau năm năm học xong võ công chàng bái biệt sư phụ tìm về nhà. Xa cách đã lâu nên chàng nhớ phụ mẫu tha thiết, suốt dọc đường không hề nhìn đến cảnh vật chung quanh chỉ cắm đầu phi hành mong mau mau về đến nhà cha mẹ chàng ở thúy Hoa Sơn cạnh một hồ nước tên là Tiểu Thiên Trì.

Sau mấy ngày phi hành như gió cuốn nhà chàng đã hiện ra ở cuối tầm mắt, chàng hết sức cao hứng thi triển hết công lực gia tăng cước bộ lướt thân như bay đến ba gian nhà cỏ ở cạnh Tiểu Thiên Trì. Cổng nhà mở rộng khiến chàng có cảm giác không hay, chàng lại càng nôn nóng thân pháp tăng thêm nhìn vào trong nhà. Chàng biến sắc mặt ngẩn người đứng ngây ra.

Ba gian nhà của chàng tuyệt không một bóng người, bàn ghế lăng loạn gãy đổ khắp nơi và máu nhuộm đỏ chảy từng dòng dưới đất, hiển nhiên trong nhà đã xảy ra một trận ác đấu dữ dội. Càng làm cho Tôn Lan Đình kinh dị là chàng đã nhìn thấy trong góc nhà có xâu chuỗi ngọc của mẹ chàng bị đứt đoạn nằm lăn lóc. Đó là chuỗi ngọc mà mẹ chàng cực kỳ yêu quý không bao giờ không đeo trên cổ làm vật trang sức.

Chàng nhặt chuỗi ngọc cất vào người bước vào nhà trong lại phát hiện dưới đất có một mảnh áo dính đầy máu tươi, chàng nhận ra mảnh áo này chính là áo của cha chàng vẫn thường mặc. Bấy giờ Tôn Lan Đình đã run lên vì sợ nhưng cố trấn tĩnh tự nghĩ: “Theo dấu máu này mà phán đoán việc thảm án này xảy ra chưa lâu hận rằng ta về chậm một bước để xảy ra đại biến”.

Chàng bước ra khỏi nhà tìm kiếm gần đó hồi lâu vẫn không phát hiện thi thể phụ mẫu, cũng chẳng tìm được phần mộ nào mới đắp. Chàng suy nghĩ một lúc đột nhiên nghĩ ra một việc vội vàng phi thân đến Tiểu Thiên Trì.

Tiểu Thiên Trì cách nhà chàng không xa là một cái hồ lớn không quá một mẫu, nhân vì nó ở gần đỉnh núi nên có tên là Tiểu Thiên Trì. Quả nhiên không ra ngoài dự liệu của Tôn Lan Đình, ở đó chàng phát hiện một thi thể nằm gục bên bờ nước, nhưng khi chàng lật lên nhìn mặt thì không phải phụ thân chàng mà chính là Thiên Nam Điếu Khách Vương Nhược Hư người bạn chí thiết của cha chàng.

Vương Nhược Hư bị chàng lật lên, hơi co giật một chút rồi mở to hai mắt, Tôn Lan Đình tra soát kỹ thân thể tuyệt không có dấu thương tích gì, chắc chắn đã bị địch nhân dung kình lực đánh nát phế phủ, chàng vội kêu to :

– Vương thúc thúc tỉnh lại, tiểu điệt là Tôn Lan Đình đây…

Gọi liên tiếp mấy lần Vương Nhược Hư mới cố thu hết tàn hơi ú ớ thều thào :

– Đồ tặc tử, ngươi là loại ngụy…

Nói đến đó họ Vương mới phát giác trước mặt là Tôn Lan Đình, lão hết hơi lại ngất đi hôm mê, một lúc lão mới hơi mở mắt thều thào nói vài tiếng đứt quãng :

– Điệt nhi… cha mẹ cháu… Vô Tự bi…

Tiếng lão đứt nối yếu như hơi thở thoảng qua, miệng lão há ra mấp máy dùng tay chỉ vào túi áo, cuối cùng toàn thân lão co giật dữ dội, hai chân duỗi ra không còn cử động gì nữa.

Tôn Lan Đình rống kêu lên :

– Vương thúc thúc, Vương thúc thúc…

Mặc cho chàng hô hoán họ Vương đã chết hẳn, Tôn Lan Đình đưa tay tìm kiếm trong túi áo lão lấy ra một bao vải nhỏ không còn gì khác nữa, chàng mở miệng bao trong ấy chỉ có một thanh kiếm nhỏ xíu bằng vàng trên thân kiếm có khắc nổi một hình đạo nhân râu dài nét khắc sinh động như sống.

Lúc Vương Nhược Hư thều thào, vì âm thanh quá nhỏ Tôn Lan Đình chỉ nghe rõ mấy tiếng “Phụ mẫu, Vô Tự bi” nghĩa là “cha mẹ cháu ở… bia không chữ” bây giờ lại tìm được mũi tiểu kiếm khiến chàng như bị rơi vào đám mây mù chẳng hiểu đâu là manh mối. Chàng nhăn mặt cất bao tiểu kiếm vào người, hai mặt chàng ứa lệ bồng xác Vương Nhược Hư về sau nhà đào một mộ huyệt an tang người.

Chàng quay vào nhà nhặt mảnh áo đẫm máu của phụ thân tự nghĩ :

– “Cha mẹ ta không biết sống chết ra sao? Vô Tự bi (bia không chữ) là địa danh hay bí danh? Cái kiếm nhỏ này là vật gì?…”

Bao nhiêu câu hỏi ấy càng nghĩ đến càng thấy mơ hồ. Chàng cố nén tâm sự đau đớn lưu lại nhà mười ngày. Cuối cùng chàng quyết tâm nếu cứ ở đây mãi thì đến bao giờ mới tìm thấy cái gọi là “Vô Tự bi”. Nhưng đã dò hỏi phí hết một năm ròng rã, hởi hết các nhân vật quen biết bằng hữu với phụ thân chàng mà không một ai biết về cái Vô Tự bia ấy, chàng lại đi nam xuống bắc đạp khắp giang hồ cũng chẳng có chút manh mối nào.

Cuối cùng, chàng quyết định tìm vào cái rừng sâu núi thẳm, đêm nay lại tình cờ đụng phải “bia không chữ” trong cái Đoạn Trường cốc này.

Tôn Lan Đình kể hết đầu đuôi câu chuyện của chàng, đưa mắt nhìn lên chỉ thấy quái nhân ấy cứ ngẩn người ra nghe hai mắt không chớp nhìn vào xác thiếu phụ tuyệt đẹp trong quan tài. Khi chàng dứt lời, quái nhân hỏi liền :

– Ngươi kể hết chuyện mà ta vẫn chưa biết tên tuổi cha mẹ ngươi là ai?

– Gia phụ là Chung Nam Nhất Tẩu Tôn Bá Dương còn mẫu thân là Ngọc Quan Âm Trương Thục Phấn.

Ánh mắt lão sáng lên, lão khích động nói :

– Ta có biết cả phụ thân và sư phụ ngươi, khi ta vào trong mộ huyệt này bất quá họ chỉ là hai tiểu tử trẻ tuổi vừa học xong công phu nhập môn, thời gian mau thật!

Tôn Lan Đình nghe lão nói có quen biết với phụ thân và sư phụ chàng, chàng vội cung thân :

– Tiến bối quen biết họ ra sao?

Quái nhân cười lớn :

– Gọi ta lão tiền bối đúng lắm, ta đúng là già lắm rồi, ta quen biết sư tổ của sư phụ và phụ thân ngươi nhưng không có thâm tình gì mấy!

Tôn Lan Đình cả kinh :

– Thì ra lão tiên bối là nhân vật cùng thời với sư tằng tổ, có chỗ nào vãn bối thất lễ mong tiền bối bỏ qua, lão tiền bối dựng cái Vô Tư bi ở đây để làm gì?

Quái nhân chỉ tay vào xác thiếu phụ diẽm lệ đáp :

– Chính là vì nàng ấy! Ta làm bạn với nàng ấy trong này đã năm mươi chín năm, ta sẽ chết ở đây với nàng, ta dưng bia ấy trước để khi nào chết sẽ ghi luôn tên tên ta và nàng ấy vào đấy luôn thể.

Tôn Lan Đình tự hỏi người đã chết rồi làm sao còn sống lại được nữa, thảo nào lão tự xưng là Si Tình Cư Sĩ cũng đúng, lão si tình gần như điên cuồng.

Quái nhân nhìn chàng cười lớn :

– Ngươi cho rằng ta điên chứ gì? Hừ! Đợi chút ngươi sẽ thấy. Thôi, dẹp qua chuyện ấy đi. Ngươi hãy đưa cái túi vải ta xem chút!

Chàng giật mình vì nhãn lực quái nhân kinh người vì lão nhìn thấu cả trong người chàng. Chàng vội rút túi vải đưa ra. Quái nhân mở túi vải, sắc mặt lão co giật liên hồi :

– Kim Kiếm lệnh! Thấy lệnh như thấy người, ngươi có biết Hoàng Sơn Nhất Hạc Nghệ Bằng Phi không? Người ấy bây giờ ở đâu?

Tôn Lan Đình cung kính đáp :

– Vãn bối nghe Vương thúc thúc nói đó là sư tổ của thúc thúc, nhưng người đã chết hơn năm mươi năm.

Nét mặt quái nhân càng co giật dữ, lão thở dài :

– Lão hữu ta chết rồi ư? Thật thảm thương!

Hai mắt lão nhìn lên khoảng không trầm tư một lúc, hai con ngươi long lanh như có nước lẩm bẩm :

– Nghệ lão đệ ơi, thế thi ta trách lầm ngươi rồi, ta cứ tưởng ngươi bội tín vớ ta nào ngờ ngươi đã chết!

Lẩm bẩm xong câu ấy, lão buông thõng một câu :

– Thôi được, để ta nói cho ngươi biết, ta ở trong mộ huyệt này chỉ có một người biết. Mỗi năm đến tháng Chạp ta lại phải ra ngoài kiếm một nhân vật, khi ta vào mộ, đã từng hẹn ước với người ấy mỗi năm hắn phải thay ta giữ mộ một tháng. Hắn chỉ giữ đúng lời hứa có ba năm, sau đó không thấy trở lại vì đó ta không thể rời bỏ cái huyệt mộ này, ta cứ tưởng hắn bội tín nào ngờ…

Lão than thở mấy tiếng, nói tiếp :

– Ta tưởng hắn đem chuyện ta ở trong mộ huyệt kể lại cho đệ tử hắn, nên khi Vương thúc thúc của ngươi sắp chết mới đem lời sư tổ dặn dò và tín vật Kim Kiếm lệnh giao cho ngươi buộc ngươi tìm đến đây với ta… Như vậy là sai rồi, hắn biết ta đang ở trong mộ này và biết ta không thể rời bỏ, chẳng lẽ hắn bảo ngươi đến đây giữ mộ thay ta ư? Vì thế vừa rồi ta thấy ngươi động thủ với bốn tên quái nhân, ta bèn ra tay trợ giúp…

Tôn Lan Đình đỏ mặt :

– Thì ra chuyện lúc này đã bị lão tiền bối nhìn thấy, bốn tên ma đầu ấy là loại cùng hưng cực ác nổi tiếng trong võ lâm củu ta, sao tiền bối không trừ khử chúng đi cho xong?

– Bọn chúng không hề đụng chạm quấy rầy tavì sao ta phải trừ khử chúng? Hãy dẹp tạm chuyện ấy đi, ta hỏi ngươi, võ công của phụ mẫu ngươi ra sao?

– Gia mẫu võ công bình thường nhưng gia phụ được liệt vào hàng Võ lâm Thất tuyệt, Thần Long khinh công của gia phụ danh chấn giang hồ.

Quái nhân “hừ” một tiếng :

– Võ lâm gần đây chắc có nhiều chuyện lạ. Cái gì là Võ lâm Thất tuyệt, Võ lâm Cửu tà, ta chẳng biết một tí gì!

– Đợi bàn hết việc chính vãn bối sẽ kể cho tiền bối nghe tường tận.

– Theo ta suy đoán, võ công của phụ thân ngươi và đệ tử của bằng hữu ta chẳng bằng địch nhân, điều ấy chứnh tỏ địch nhân là kẻ có võ công phi thường, tại sao Vương thúc thúc ngươi không dặn tìm sư phụ ngươi nhờ báo thù, ta tưởng sư phụ ngươi cũng không phải đối thủ của địch nhân vì thế hắn mới nghĩ tơi… Si Tình Cư Sĩ, cũng có thể hắn muốn ngươi tìm đến đây để học thêm võ công. Tiểu tử, ngươi cho rằng ta suy đoán có đúng không?

Tôn Lan Đình nghe câu ấy giật mình, chàng vội quỳ xuống đất :

– Mối thù bất cộng đới thiên của vãn bối chỉ còn trông mong lão tiền bối thành toàn.

Quái nhân liếc đôi mắt nhìn xác thiếu phụ :

– Đúng dậy, hiện tại ta không thẻ rồi bỏ cái cốc này đồng thời cũng chưa muốn thu nhận đồ đệ, chỉ còn trông mong vào vận số của ngươi.

Tôn Lan Đinh vẫn quỳ :

– Lão tiền bối nói vậy…

– Nếu như tình nhân của ta sống dậy, đó là vận may của ngươi, còn như nàng không sống lại, ta đành phụ tấm lòng của ngươi. Tiểu tử ngươi đúng dậy đi!

Tôn Lan Đình có cảm giác một luồng tiềm lực cuốn tới người chàng buộc chàng đứng dậy, chàng lớn tiếng hởi :

– Lão tiền bối không niệm tình cầu xin của vãn bối chẳng nhẽ cũng chẳng nhớ tới tình của sư tổ của Vương thúc thúc hay sao?

– Không phải ta không để ý, ta chẳng nói hãy trông mong vào vận may của ngươi hay sao?

– Người chết không thể sống dậy, có lẽ tiền bối chỉ mượn cớ từ chối khéo đấy thôi?

Quái nhân đột ngột nổi giận quát to :

– Nói nhảm! Ngươi định trù ẻo người yêu của ta không thế sống dậy ư?

– Vãn bối nào dám ngông cuồng, xin tiến bối tha thứ cho sự lỡ lời, xin khẩn cầu tiền bối thương cho vãn bối.

Quái nhân trầm giọng suy nghĩ một lúc rồi nói :

– Ngươi bước tới gần đây cho ta xem thử!

Tôn Lan Đình bước tớ gần, bỗng quái nhân quát lớn chấn động nội tạng chàng, lập tức chàng ngã xuống bât tỉnh nhân sự.

* * * * *

Không biết qua thời gian bao lâu, Tôn Lan Đình mới dần dần hồi tỉnh, trước mặt chàng trời đã xám đen và chàng đang nằm trong một cỗ quan tài.

Chàng vội phiên thân ngồi dậy, thì ra chàng vẫn ở trong thạch thất dưới lòng mộ, bốn ánh đèn dầu tỏa ra ánh sáng xám ngoét. Chàng quay đầu nhìn xác thiếu phụ diễm lệ trong quan tài, nhưng xác thiếu phụ biến mất chỉ còn quan tài rỗng, chàng cho rằng đây nhất định là do Si Tình Cư Sĩ trào lộng, sau khi chấn động bất tỉnh chàng, lão đã mang xác thiếu phụ tìm chỗ khác ẩn cư.

Chàng nhảy ra khỏi quan tài, đột nhiên cảm thấy toàn thân rất sảng khoái thân thể rất nhẹ nhàng, tự làm lấy kỳ quái không biết vì sao. Không muốn ở trong lòng huyệt mộ nữa, Tôn Lan Đình nhảy vài cái đã tới cửa mộ huyệt, cửa mở rộng và cái “bia không chữ” đã bị đập nát vụn tán lạc dưới đất. Chàng nhanh ra khỏi mộ, ánh trăng sáng rực rỡ trên đầu rải ánh bạc xuống ngàn canh nội cỏ, chàng nhớ lúc chàng vào mộ mặt trăng ngả về tây, ví sao bây giờ mặt trăng lại lên đến đỉnh đầu, thật là kỳ quái.

Dưới ánh trăng có bóng người lay động, bên ngôi mộ phảng phất như có người, chàng vội chuyển đầu nhìn theo quả nhiên dưới gôc một cây tùng có hai người đang ngẩng đầu như đang thưởng thức ánh trăng. Tôn Lan Đình định thần nhìn kỹ, chàng giật mình cả kinh vì một trong hai người ấy chính là thiếu phụ mỹ lệ nằm trong quan tài, bây giờ dưới bóng trăng vằng vặc, nàng càng hiển lộ vẻ đẹp như tiên.

Còn người kia chàng chưa nhận ra là ai chỉ thấy diện mạo rất thanh cổ để bộ râu năm chòm trắng bạch, thần thái siêu phàm thoát tục chẳng khác nào vị tiên trong tranh. Tôn Lan Đình ngẩn ngơ chẳng biết là người hay ma chàng đang định rời nơi đây, bỗng lão nhân râu bạc cười ha ha :

– Tiểu tử, mau đến đây nào!

Tôn Lan Đình tỉnh hẳn người, chàng hớn hở reo lên :

– Á! Nàng ta đã sống lại rồi!

Nhảy một bước, chàng tiến lại nhìn kỹ lão nhân, chàng chưa tin lão nhân ấy là Si Tình Cư Sĩ, Si Tình Cư Sĩ cười lớn :

– Tiểu tử vận may của ngươi lớn lắm đấy, nàng đã sống lại, kể ra cũng có công của ngươi.

Thiếu phụ mỹ lệ cũng nhìn chàng gật đầu mỉm cười, nụ cười nàng tươi như hoa mẫu đơn nở xinh đẹp dị thường, Tôn Lan Đình mê hoặc nhìn sững hai người, Si Tình Cư Sĩ nói tiếp :

– Ta và tình nhân của ta năm mươi chin năm trước vân du kháp sơn cùng thủy tận, bất ngờ ăn phải một loại độc thảo có mùi thơm nức mũi, ai ăn trúng độc thảo này cơ năng trong thân thể ngừng hoạt động hôn mê như chết, loại độc thảo ấy có đặc tính không làm xương thịt tan rữa trong vòng sáu mươi năm, nếu trong thời hạn phục sinh lại được, còn như quá thời gian ấy thịt xương sẽ bắt đầu tan rữa, dù có tìm được thuốc giải cũng vô dụng…

Chàng hỏi :

– Không biết thuốc giải ấy như thế nào?

– Có hai loại thuốc giải, một loại là hoa Tiên Chi có hình người, một là nội đan của con Chấp Long, vì con Chấp Long này ẩn giấu dưới lòng đất nên khó có cách lấy nội đan của nó, ta nghe sau núi này trong Bài Vân động có một cây Tiên Chi do đó ta mới di cư đến cốc này để tiện phần đoạt lấy, cây Tiên Chi ấy cứ hai ngàn năm kết hoa một lần mà chỉ kết hoa trong tháng Chạp mùa đông vì vậy mỗi năm ta phải rời mộ huyệt tìm đến sau núi tìm Tiên Chi nên có nhờ Hoàng Sơn Nhất Hạc mỗi năm tháng Chạp thay ta giữ mộ một tháng…

Nói đến đó lão chợt dừng lại thở dài một tiếng rồi mới tiếp :

– Được ba năm như thế hắn không đến nữa, ta vì phải bảo vệ thi thể của nàng nên không dám rời khỏi mộ nửa bước, lòng ta nóng như lửa đốt, trong vòng hai năm nay tóc của ta bạc trắng hết biến thành dị tướng, nào ngờ ở hiền gặp lành, còn năm cuối cùng trong hạn kỳ nàng sống dậy còn khôi phục gương mặt cũ!

Si Tình Cư Sí vừa kể vừa chuyển đến nhìn thiếu phụ mỹ lệ thấy nàng cũng âu yếm nhìn lão, lão lại bật cười ha hả :

– Tiểu tử, Nếu không có viên nội đơn Chấp Long của ngươi, làm sao nàng có thể sống dậy được?

Tôn Lan Đình nhạc nhiên nhớ lại viên tròn đen mà chàng đánh rơi vào quan tài vội vàng nói :

– Xin lão tiền bối chờ chút, vãn bối sẽ quay vào lấy lại viên nội đan ấy!

Si Tình Cư Sĩ lắc đầu :

– Không cần quay vào nữa viên nội đan ấy tuy có khả năng trục xuất độc thảo kia ra khỏi thân thể nhưng nó đã biến thàng hơi khí mất rồi. Tiểu tử vì sao ngươi lại có được viên kỳ trân dị bảo ấy?

– Đó là di vật của nhà họ Tôn vãn bối nhưng không ai biết đó là nội đơn Chấp Long, chỉ biết nó có thể khu trừ bách độc, vì thế mới gọi nó là “Tỵ Độc Tiên Cầu”.

– Lần này làm mất vật gia bảo của ngươi ta rất lấy làm tiếc.

Tôn Lan Đình đáp lớn :

– Có thể làm phu nhân sống dậy thì chẳng có gì đáng tiếc.

Si Tình Cư Sĩ tán thưởng :

– Hảo tiểu tử đáng được gọi là anh hùng khoáng đạt

Thiếu phụ mỹ lệ cũng nhìn chàng với ánh mắt cảm kích. Si Tình Cư Sĩ nhìn chàng một lúc rồi nói tiếp :

– Đêm qua trong huyệt mộ ta đã dùng “Lôi Âm Chấn Mạch” tối cao của bản môn buộc ngươi hôn mê trong lúc ấy ta đã đả thông Sinh Tử Huyền Quan cho ngươi, rất tiếc hỏa hầu nội ngoại công của ngươi còn kém quá nên chưa thể phối hợp cho công lực ngươi tiến bộ hơn được.

Tôn Lan Đình cung thân kính cẩn :

– Đa tạ lão tiền bối thành toàn!

– Hai chúng ta ở dưới mộ huyệt lâu ngày bây giờ rất muốn ngao du hải ngoại trước mắt chưa thể tìm kiếm phụ mẫu cho ngươi, cũng chưa thể báo thù cho ngươi cũng không có thời gan truyền thụ võ công cho ngươi…

Nói đến đó lão rút từ trong người ra một cuốn sách nhỏ và một bình nhỏ lão nói :

– Đây là bản bí phổ ta viết khi còn ở trong mộ ta chép rất tường tận cách luyện công khi ở trong này bậy giờ ta tặng nó cho ngươi. Đến đây nhận lấy đi!

Tôn Lan Đình bước lên một bước đang định quỳ xuống tiếp nhận, chàng vừa cong đầu gối liền cảm thấy bị một kình lực kéo lại khiến chàng không thể nào quỳ xuống được lại nghe Si Tình Cư Sĩ nói tiếp :

– Đừng quỳ tuy ngươi tiếp nhận bí phổ này chép toàn bộ võ công của ta nhưng không thể kể là đồ đệ của ta, vì hai chúng ta đã chịu đại ân cứu mạng của ngươi!

Tôn Lan Đình vội nói :

– Lão tiền bối không nên nói như thế!

Si Tình Cư Sĩ không để chàng nói hết câu, hai mắt trừng lên quát :

– Không cần nói nhiều nhận lấy nếu như ngươi nhất định cần rõ danh phận đừng trách ta thu hồi lại bí phổ này!

Tôn Lan Đình

Không thể sao hơn đành cung thân nhận, trên bìa sách ghi bốn chữ “Si Tình bí phổ” nét chữa sương kính chẳng khác ba chữ “Đoạn Trường cốc” trên phiến đá ngoài cửa động.

Si Tình Cư Sĩ cười ha hả :

– Mai sau khi ta gặp ngươi, ngươi cứ gọi ta bằng ba tiếng “lão tiền bối” và ta vẫn gọi ngươi là “tiểu tử” như vậy có lẽ còn thân mật hơn bất cứ danh xưng nào khác.

Lão nói xong rồi âu yếm nhìn thiếu phụ mỹ lệ bên cạnh, thiếu phụ cũng đang cười vui vẻ, nàng chỉ vào cái bình nhỏ trong tay áo lão tiếp lời :

– Đây là do hai chúng ta bất ngờ tìm được một cây Hà Thủ Ô sống ngàn năm, chúng ta phối hợp với mấy loại linh dược điều chế thành bình dược hoàn này, mỗi ngày ngươi hãy uống một viên, cứ như vậy trong nửa năm sẽ tăng thêm được mười năm công lực, đồng thời cũng tăng thêm công hiệu khi luyện bản môn võ công, vì Sinh Tử Huyền Quan của ngươi đã được đả thông cộng thêm với với loại dược hoàn này, ba năm sau ngươi sẽ luyện xong hết võ công trong bí phổ này.

Tôn Lan Đình cả mừng hai tay đỡ lấy bình thuốc cất vào người chung với cuốn bí phổ nọ. Si Tình Cư Sĩ nghiêm mặt nói :

– Bản môn bí phổ chỉ nên truyền thụ cho đồ đệ nếu có, chứ không nên truyền thụ cho người khác, quan trọng là chớ nên làm mất. Mai kia sau khi luyện thành võ công nên nhớ trời xanh vốn có đức hiếu sinh, không nên lạm sát vô cớ. Chuyện đêm nay cũng không nên kể cho người khác nghe.

Tôn Lan Đình cung thân thưa :

– Vãn bối nhất định tuân thủ giáo huấn, nhưng có một việc cầu xin không biết có nên?

– Việc gì?

– Vãn bối vốn là môn đệ của Thần Long Tôn Giả Cốc Tang Điền, nếu không được sư phụ đồng ý mà tập luyện võ công khác phái sợ rằng đã phạm vào điều cấm kỵ, xin tiền bối cho vãn bối đem việc này bẩm báo với sư phụ, nếu không, vãn bối xin phụng hoàn lại hai bảo vật của lão tiền bối.

Si Tình Cư Sĩ nghiêm mặt :

– Hay lắm! Quân tử không quên gốc, đây chính là ưu điểm của ngươi, ta bằng lòng ưng thuận, ta tin sư phụ ngươi sẽ giữ bí mật giùm ngươi.

Tôn Lan Đình nghiêm cẩn đáp :

– Vậy thì xin lão tiền bối nhận cho một lạy!

Si Tình Cư Sĩ đưa hai tay ngăn lại :

– Không nên! Ngươi nên biết dù ngươi học võ công của ta nhưng không thể coi ta là sư phụ vì về bối phận ta là bằng hữu của sư tổ của phụ thân và Vương thúc phụ ngươi, bối phận giữa chúng ta khó mà định rõ ràng được, chi bằng ta cứ lược lược qua là tốt nhất!

Từ lâu thiếu phụ mỹ lệ không lên tiếng bây giờ mới xen vào :

– Hài tử, chớ nên câu chấp quá, ngươi không nghe câu của cổ nhân sao cung kính bất như tuân lệnh ư? Ngươi đến đây ta tặng ngươi một vật này!

Vừa nói bàn tay ngọc của nàng vừa đưa ra một vật. Tôn Lan Đình cung kính nhận lấy thì ra là một cây cham xanh biếc không biết bằng chất gì chỉ thấy trên ấy có chạm một con phụng màu sắc tinh xảo như tung bay lên.

Si Tình Cư Sĩ cười ha hả :

– Cái Phụng trâm này có thể tránh được rất nhiều loại độc khí, ngươi đeo nó trong người tương lai khi bôn tẩu giang hồ rất có ích. Tiểu tử bây giờ hãy kể sơ lược cho ta nghe về tình hình võ lâm hiện nay!

– Cứ theo hiểu biết của vãn bối hiện nay võ lâm nổi tiếng là Tam kỳ, Thất tuyệt, Cửu tà, Song hung, ngoài các đại môn phái khác.

Si Tình Cư Sĩ hỏi :

– Trong tất cả bọn ấy ai có võ công cao nhất?

– Cứ theo truyền thuyết thì võ công cao nhất là Tam kỳ nhưng cả ba đã ẩn tích mai danh hơn hai mươi năm nay rồi, sự thực còn sống hay chết không ai biết rõ, ngoài ra mỗi nhân vật khác đều có một sở trường riêng rất khó đoán định.

– Tam kỳ có phải là những người lương thiện không?

– Theo sư phụ cho biết thì ba nhân vật này tính tính cổ quái lúc thiện lúc ác rất khó đoán định.

Si Tình Cư Sĩ lại hỏi :

– Đêm qua cái tên Hạ Hầu là loại người nào?

– Tên y là Hạ Hầu Vân, được võ lâm hết sức tôn sung và là nhân vật đứng đầu trong Thất tuyệt.

Si Tình Cư Sĩ hừ một tiếng :

– Đêm qua y ẩn thân sau tảng đá, lén lút chẳng đáng là chính nhân quân tử.

Tôn Lan Đình vội vàng phân biện :

– Tiếng tăm y nổi khắp giang hồ, võ lâm gọi y bằng tên Nhân Nghĩa Hiệp Vương vì y quang minh lỗi lạc trọng nghĩa khinh tài, xin lão tiền bối chớ trách y!

Si Tình Cư Sĩ lạnh lùng “hừ” thêm một tiếng nữa không đáp rồi hỏi thêm :

– Cứ theo tên gọi thì Cửu tà, và Song hung nhất định phải là bọn hung ác!

– Chính vậy!

– Bọn ấy tuy là bọn hung ác nhưng chúng đã chịu bị gọi bằng tên hiệu xấu xa ấy cũng là rõ ràng giúp người ta tránh được phần nào. Đáng giận nhất là bọn thực sự hung ác nhưng lại được xưng bằng những cái tên đẹp đẽ giả quân tử!

Tôn Lan Đình không biết lão có ý ám chỉ ai nên không đáp. Si Tình Cư Sĩ buông câu tiếp :

– Thôi được, nói nhiều chuyện giang hồ càng thêm phiền, không biết loại tiên chỉ hình người sau núi này năm mươi năm nay đã nở hoa chưa, hiện tại chúng ta không cần tới nó nữa, nhưng riêng ngươi tháng Chạp hàng năm hãy nên đến sau núi thăm thử, nếu thấy nó ra hoa thì cứ hái nó mà ăn, theo tiếng đồn nó có thể khắc chế mọi thứ dược thảo và linh diệu vô cùng.

– Không biết sự linh diệu tới đâu!

– Cái này chính ta cũng không biết, bất quá loại linh dược ấy chỉ có duyên mới được chứ không nên cưỡng cầu.

– Không biết Bài Vân động ở phía nào sau núi! Lão tiền bối có thể dẫn vãn bối đến đó một lần!

– Được chúng ta đi ngay bây giờ!

Thanh âm vừa dứt, Tôn Lan Đình lập tức có cảm giác bị người khác ôm lấy ngang lưng bên tai chỉ còn nghe tiếng gió vù vù nhanh như điện chớp, chớp mắt đã lên đến đỉnh núi cao hơn năm mươi trượng nằm đằng sau ngôi mộ. Si Tình Cư Sĩ đặt Tôn Lan Đình xuống, vẫn thấy thiếu phụ mỹ lệ đứng một bên tươi cười, chàng nghĩ với công lực khinh công vừa rồi của hai người trong võ lâm đương đại quả là rất hiếm ai hơn được.

Si Tình Cư Sĩ cười ha hả :

– Tiểu tử đi theo ta!

Ba người không vội vã khinh thân chuyển qua mấy sơn lãnh, vượt qua mấy ngọn suối róc rách, sơn thế càng lúc càng cao. Si Tình Cư Sĩ đưa tay chỉ một ngọn núi chót vót trước mặt :

– Bài Vân động ở trên ngọn đoạn nhai ấy, vì suốt năm mây phủ trước cửa động mới có tên gọi như thế!

Tôn Lan Đình ngửa đầu nhìn lên đoạn nhai chỉ thấy từng lớp mây trắng cuồn cuộn chẳng thấy cửa động nào, tháp thoáng toàn là những lớp lớp cây cối canh rì.

Vừa phi hành vừa nói chuyện họ đã tới gần ngọn đoạn nhai, thế núi càng lúc càng hiểm tuấn, một bên là sườn núi sừng sững tới mây, một bên là vực sâu không nhìn thấy đáy, bước đi không cẩn thận tất rơi thân xuống vực liền.

Không lâu sau họ đã lên tới ngọn đoạn nhai dần lẫn vào đám mây dày đặc, bấy giờ mắt nhìn không rõ vì mây che phủ nên bước đi rất gian nan, chỉ thấy trước mặt trắng phau phau không cách nào phân biệt được dưới chân cao hay thấp. Tôn Lan Đình rất sợ lạc sau nên đề khí bám sát theo hai người, đột nhiên chân chàng bỗng hụt như đạp vào khoảng không, thân chàng rơi xuống vùn vụt, chớp mắt đã rơi hơn mười trượng, trước mắt chàng sẽ bị rơi xuống đáy chết tan xác.

Chàng tự biết thế nguy vội đề khí khinh thân, đột nhiên có cảm giác bên trên có một sức hút rất mạnh hút lấy chàng sức rơi chậm lại. Càng lúc sức hút càng mạnh thân hình chàng từ từ được nâng lên chớp mắt đã vọt lên cao ba bốn trượng.

Chính đang lúc ấy bỗng nghe có mấy tiếng rù rù hai chân chàng như bị vật gì mềm nhũn quấn chặt lấy kéo lại, vật quấn chặt hai chân chàng mềm nhũn lành lạnh như băng nhưng lại vô cùng kiên cố không biết là loại quái vật gì. Trên đầu chàng sức hút vãn không dừng còn vật quấn chân chàng lại siết chặt biến thành thế trên kéo dưới ghì khiến thân thể chàng lơ lửng trên không, chẳng rơi xuống mà cũng chẳng bay lên được.

Tuy nguy nhưng không loạn. Tôn Lan Đình trong lúc vội gấp chợt thấy trước mặt cso vật gì đen đen, chàng đưa tay chụp lấy thì ra là một tảng đá nhọn nhỏ đột ngột ra từ sườn núi chàng vội níu chặt lấy hai chân giãy mạnh nhưng vẫn không thoát ra được vật quấn chân chàng.

Thế tương trì ấy kéo dài gần một khắc, mây mù dường như dần tan, ánh trăng thấp thoáng đã hiện ra cảnh vật thêm rõ. Tôn Lan Đình cúi đầu xuống nhìn, thấy trên mặt nhỏ đá có một con “Tích Dịch” (thằn lằn núi) dài tới bảy tám thước cái đuôi nó dài hơn trượng đang quấn chặt lấy hai chân chàng. Con Tích Dịch ấy ghì bốn chân xuống mặt đá cố núi lấy chàng như sợ chàng chạy thoát.

Chợt trên đầu chàng vọng xuống tiếng Si Tình Cư Sĩ :

– Tiểu tử hãy trầm khí có ta dùng chân lực hút ngươi lên không sợ nó kéo xuống đâu!

Tôn Lan Đình ngẩng đầu lên chỉ còn cách đỉnh nhai không quá năm sáu trượng nếu như không có con quái vật kia quấn chân chỉ cần mượn thế tảng đá nhô ra là chàng có thể thoát hiểm.

Si Tình Cư Sĩ gần như quỳ phục nhìn xuống vực, hai mắt lão sáng rực nhưng không thấy thiếu phụ mỹ lệ đâu cả.

Bỗng nhiên Tôn Lan Đình nghe trên đầu có tiếng thét :

– Súc sinh cút mau.

Hai chân Tôn Lan Đình như vuột hẳn ra chàng cúi nhìn thấy con Tích Dịch đã vọt thân vào một kẽ đá chạy mất, chàng vội vàng đặt chân lên tảng đá nhô ra ấy, điểm mạnh đầu cước phi thân lên miệng nhai, đưa mắt nhìn sang đã thấy thiếu phụ mỹ lệ đứng đáy từ lúc nào cạnh bên Si Tình Cư Sĩ.

Vì địa hình quá chật hẹp, Tôn Lan Đình không thể lạy tạ, chàng chỉ còn biết nói :

– Đa tạ ân cứu mạng của nhị vị tiền bối!

Si Tình Cư Sĩ nhìn chàng cười ha hả :

– Đúng là gặp kỳ duyên, chất trân bảo của con Tích Dịch ngàn năm ấy đã được ngươi nuốt trọn, chất ấy có thể giúp ngươi nhìn vật trong đêm tối vẫn rõ như ban ngày, chính là vật quý hiếm nhất trong võ lâm đó!

Tôn Lan Đình cả mừng quay sang hỏi thiếu phụ :

– Sao tiền bối không trừ khử con Tích Dịch ấy!

Si Tình Cư Sĩ cười đáp thay :

– Con vật ấy bản tính vốn rất thiện lương, lúc nãy nó sợ ngươi đánh nó nên mới quấn hai chân ngươi chỉ vì muốn tự vệ. Tiểu tử, mai sau đối với kẻ địch ngươi cũng nên phân rõ thiện ác không được chém giết bừa bãi, nên biết kẻ vô tình làm ác tuy ác mà không ác. Phải rạch ròi phải trái thị phi mới là đại anh hung hào kiệt!

Lan Đình nghe lão nói rất đúng, chàng nghiêm cẩn thụ giáo. Họ lại tiếp tục đi khi đến một bụi cây thấp, đột nhiên Si Tình Cư Sĩ dừng lại chỉ bụi cây ấy :

– Bài Vân động nằm sau bụi cây đấy!

Lão bước lên trên, song thủ tách bụi cây bước vào độ hơn mười bước đã đến một bức vách cao chót vót quả nhiên có một cửa động hiện ra cao độ năm thước, trên động có khắc mấy chữ lớn “Cổ Bài Vân Động” vì khắc chữ đã lâu nên rêu phong phủ kín nếu không nhìn kỹ ắt sẽ không nhận ra. Bước vào trong động, không lấy gì làm lớn chỉ rộng độ năm thước sáu độ bảy, tám trượng, trên đỉnh động treo rũ xuống hơn mười thạch nhũ rất sạch, trong lòng động có mọc một cây giống như loài lan đất có duy nhất một lá cao độ hai thước xông ra mùi hương thơn thoang thoảng khiến người ta tỉnh táo hẳn.

Si Tình Cư Sĩ nói :

– Hay lắm! Nó chưa nở hoa, nếu đã nở hoa nó sẽ tự khô mà chết! Tiểu tử việc này chỉ còn trông chờ vào duyên phận của ngươi mai sau thôi!

Họ nhìn kỹ cây linh chi ấy rồi lại kéo ra khỏi động, bây giờ trời mới hửng sáng phía đông ánh nắng rực rỡ mới nhô lên một phần làm bầu trời mười phần diễm lệ.

Một tay Si Tình Cư Sĩ đặt lên vai Tôn Lan Đình, một tay chỉ về phía đông nói :

– Tiểu tử tuy ngươi không phải là đồ đệ của ta nhưng là người duy nhất ta coi là truyền nhân võ công bản môn trước khi luyện thành võ công ngươi không được tự ý động thủ để tránh cái nhục thất bại. Ánh nắng rực rỡ sắp lên ở phương Đông kia chính giống như tiền đồ của ngươi. Chúng ta phải đi thôi, sau này sẽ còn có cơ hội gặp lại.

Vừa nói lão nhìn chàng khá lâu, bỗng nhiên nhẹ thở dài một tiếng. Tôn Lan Đình chỉ thấy hai mắt hoa lên một cái định thần nhìn lại đã hết thấy bóng hai bậc tiền bối và cũng chẳng biết họ đã động thân ra sao. Chàng buồn bã đứng tại chỗ ấy hồi lâu, cuối cùng thở dài một tiếng bước đi lơ đãng đi chẳng còn mục tiêu gì, vượt qua đoạn núi kỳ hiểm, chàng đã vòng về sau núi.

Nơi núi rừng thâm u ấy muôn ngàn trùng điệp, cảnh vật u nhã kết thành một khu rừng rậm nguyên sinh khiến tòa núi như được khoác tấm áo màu xanh biếc.

* * * * *

Mặt trời mới lên phản chiếu trên những giọt sương còn đọng long lanh những giọt nước muôn sắc màu chẳng khác nào những hạt trân châu. Một làn khói mỏng bốc lên từ mái nhà có bên sườn núi vẽ ngoằn ngoèo trên nền trời buổi sáng.

Trước sân gian nhà ấy có một thiếu nữ toàn thân mặc áo chẽn tay cầm trường kiếm đang chậm chạp múa một bài kiếm thế tuy không mau nhưng mũi kiếm kêu lên “ong, ong” không dứt chứng tỏ công lực phi phàm của nàng đã dồn lên kiếm thân.

Bấy giờ từ trong nhà chạy ra một tiểu cô nương tuổi mới độ mười hai mặt mũi xinh đẹp rất hoạt bát đáng yêu, tiểu cô nương ấy chỉ tay về hướng sườn núi xa xa nói to :

– Sư tỷ nhìn kìa có người đang tới kìa?

Thiếu nữ nghe câu ấy lập tức dừng thế kiếm lại, hai con mắt đẹp của nàng đảo lộn nhìn về phía sườn núi, quả nhiên nhìn thấy một bóng người chậm chạp đi về phía nàng, nàng lấy làm kỳ lạ, nơi này không ai đến bao giờ, bọn thợ săn cũng chẳng khi nào tới đây, người này là ai?

Nàng bèn đáp :

– Quế nhi, mau vào bẩm báo với sư phụ đi!

Trong nhà đã vọng ra một âm thanh già lão :

– Sương nhi, có người đến ư?

Thiếu nữ đáp to :

– Vâng, đã nhận rõ là một nam nhân!

Từ trong nhà bước ra một lão bà sắc mặt hồng nhuộn tươi trẻ như sắc mặt trẻ con, hai đường lông mày xám nhạt đã phủ xuống hai con mắt tinh anh, nhìn diện mạo lão bà bà ấy vẫn còn dư âm của thời tuổi trẻ xuân sắc mỹ lệ. Bà lão cầm trong tay một Long Đầu trượng bước đến cạnh thiếu nữ :

– Đúng vậy, ta cũng nhận ra là một thiếu niên!

Tiểu cô nương chạy vội đến đưa tay níu tay lão bà bà :

– Sư phụ, y là người tốt hay người xấu?

Lão bà bà nhíu mày nhưng miệng lại cười :

– Con tiểu tử ngốc này, bây giờ ta làm sao biết được!

Trong lúc nói chuyện, chàng thiếu niên kia đã rã qua sườn núi đối diện với họ vì chàng phát hiện ra mái nhà cỏ chàng bước mau thêm. Lão bà bà đã nhìn rõ diện mạo thiếu niên, bà lão khen thầm trong bụng :

– Tuấn tú thay! Căn cốt quả phi phàm!

Đồng thời một nghi vấn chợt ập đến, bà nghĩ đến trong núi này đã lâu không có bóng người, lẽ nào thiếu niên lại tìm đến đây do thám điều gì hoặc là có ý đồ gì chăng?

Thiếu niên đến gần hơi nhìn thoáng qua họ một chút rồi lại quay rẽ sang hướng khác để đi, lão bà bà chợt quát nhỏ :

– Người trẻ tuổi, đứng lại, ngươi định đi đâu đó?

Thiếu niên bị quát hỏi ngẩng đầu nhìn lên bà lão, thấy lão bà mặc y phục nông phụ, nhưng thần thái chẳng giống nông dân chút nào bất giác chàng nhìn kỹ hơn một chút, miệng đáp :

– Tiểu sinh chỉ là người qua đường!

Nói xong ung dung đi tới phía trước. Lão bà bà càng sinh nghi, cao giọng quát lớn :

– Ta bảo đứng đó có nghe không?

Tiểu cô nương đứng cạnh líu lo nói tiếp :

– Nhất định y là kẻ xấu rồi!

Thiếu niên nghe câu ấy dừng chân lại tức thì, ánh mắt quay lại :

– Không biết lão bà bà có gì cần chỉ giáo?

Lão bà nghiêm mặt :

– Ta ở đây đã hơn mười năm chưa hề thấy ai đi qua, ngươi dám bạo động chốn rừng sâu núi cao nào ắt hẳn là có ý đồ gì!

Thiếu niên thản nhiên :

– Tiểu sinh chỉ là người qua đường, xin lão bà không nên quá đa nghi!

– Nơi này không có thông lộ cũng chẳng có ai khác, sao ngươi không đi đường khác mà lại tìm tới đây? Huống gì trời vừa mới sáng tốt ngươi phải đi suốt đêm qua, nếu không có ý đồ gì vì sao lại lặn lội suốt đêm? Nếu không nói cho minh bạch, ngươi chớ hòng ra khỏi đây!

Thiếu niên vốn thành thực không muốn đem chuyện riêng mình nói với người ta nhưng chàng lại không quen bịa đặt nên giật mình hơi ấp úng :

– Cái ấy… cái ấy…

Lão bà bà thấy chàng ấp úng, nhận định mình đã phán đoán không sai, bà quát lớn :

– Mau nói cho thật!

Thiếu niên vội vã đáp :

– Chẳng có gì để nói, các ngươi muốn gì ở tiểu sinh?

Lão bà bà quay ra hiệu lệnh cho thiếu nữ :

– Sương nhi, bắt y lại cho ta!

Thiếu nữ chính đang nhìn thiếu niên nghe sư phụ ra lệnh bắt liền “à” lên một tiếng mặt có vẻ khó khăn nhưng không dám trái lệnh sư phụ chỉ còn biết cầm kiếm nhảy đến nói to :

– Ngươi cứ nói thực đi chúng ta sẽ tha cho!

Thiếu niên đưa mắt nhìn sang chỉ thấy trước mắt như có ánh sáng vì lúc nãy chàng chỉ chú ý đến bà lão chưa kịp nhìn thiếu nữ, hiện tại nhìn nàng mới nhận ra vẻ đẹp phi thường của nàng. Toàn thân nàng mặc một tấm áo xanh biếc bó chẽn lấy thân thể không gầy quá không mập quá rất tao nhã yểu điệu, hai con mắt to đen láy nằm trên sống mũi cao thẳng trên đôi môi tươi nhuận dễ say đắm lòng người, có thể nói toàn thân nàng không có bộ phận nào là không đẹp.

Thiếu niên bị dung nhan tú lệ nàng chiếu điện, bất giác phải lùi một bước và thiếu nữ cũng bị vẻ anh tuấn phi thường của thiếu niên làm cho lay động, hai người đối diện nhìn nhau quên cả xung quanh. Thiếu niên ấy chính là Tôn Lan Đình từ Bài Vân động vô tình chuyển qua sau núi đi nửa giờ, chợt nhìn thấy gian nhà cỏ bất giác bèn bước tới, nào ngờ đến đây gặp mấy nữ nhân này, chàng nhìn ngẩn ngơ thiếu nữ tự nghĩ: “Nữ tử này tuy đẹp thật nhưng xem ra có phần vô lễ!”

Chàng nghĩ thầm như thế bất giác buột ra khỏi miệng :

– Không biết thẹn!

Thiếu nữ ấy vì từ bé đã lớn lên giữa hoang sơn, lòng nàng trong sạch như một tờ giấy trắng, không bao giờ nàng biết đến tình riêng nam nữ, nàng chỉ biết bình sinh các nam nhân nàng gặp ai nấy đều dữ dằn, chưa bao giờ nàng nhìn thấy nam nhân tuấn tú dường ấy nên trố mắt ngây người ngắm nhìn. Nào ngờ bị mấy câu mắng ấy nàng đỏ gay cả mặt thánh thót quát :

– Ủa! Ngươi dám mắng người, đợi đấy ta sẽ bắt ngươi!

Tôn Lan Đình bị bức bách nổi giận, chàng cũng quát :

– Các người chớ khích người thái quá, hãy xem tiểu gia đây tay không tiếp cô vài chiêu!

Chàng vừa dứt lời chợt thấy thiếu nữ hậm hực phóng thanh trường kiếm nhanh như điện chớp cắm phập vào thân cây gần bên, nàng thánh thót quát :

– Dùng kiếm thủ thắng chẳng phải anh hùng, tiếp chiêu!

Dứt lời một chiêu “Phất Hoa Thủ”. Nguyên chàng vốn không coi nàng ra gì, bấy giờ thấy nàng xuất thủ chính thủ pháp Phất Huyệt của võ lâm chính tông trong lòng kinh ngạc vội vàng bước lui buột miệng :

– Phất Huyệt thủ pháp hay lắm!

Thiếu nữ được khen tặng bao nhiêu tức giận tiêu tan, vội hỏi :

– Sao? Không dám đánh nữa ư?

– Dù cô nương có bốn tay cũng không dọa được tại hạ, vì cô nương là nữ nhân xin nhường ba chiêu!

Thiếu nữ thấy chàng có ý khinh thường lại bốc hỏa giận :

– Không cần ngươi nhường!

Nàng nhẹ nhàng lướt thân tới tay trái ra chiêu “Lan Hoa Thùy” tay phải xuất chiêu “Lan Điệp Nghinh Phong” một bóng chưởng ảnh phân ra tấn công năm huyệt đạo Thiên Tinh, Khí Môn, Tương Đài, Thất Khảm và Kỳ Môn của chàng, Tôn Lan Đình vì lỡ miệng nói nhường nàng ba chiêu không thể nuốt lời đành nghiến răng triển khai Tiềm Long thân pháp gia truyền miễn cưỡng tránh chiêu thế nàng, đột nhiên nghe lão bà bà bên cạnh hừ một tiếng.

– Đồ đệ của Chung Nam Nhất Tẩu mà dám đến đây loạn động ư?

Tôn Lan Đình nghe câu ấy lấy làm giận nói :

– Ta chưa hề làm phiền các ngươi sao lại nói ta đến đây loạn động? Đâu có vô lý thế được!

Thiếu nữ nọ thấy chàng đã tránh được chiêu của nàng lấy làm tức giận hai tay một múa tròn một duỗi ra thành chiêu “Mạn Thiên Lan Vũ” chưởng ảnh đảo lộn, ảo xuất thành từng đóa hoa lan chụp xuống đầu Tôn Lan Đình. Toàn thân chàng bị chưởng ảnh bao vây không còn chỗ tránh bất đắc dĩ phải vung tay thi triển tuyệt chiêu “Vân Long Vũ Trảo” bảo vệ toàn thânh hình, “bình” chàng đánh bật song chưởng của đối phương ra.

Thiếu nữ bật cười :

– Xem ngươi còn nhường hay không nhường!

Tôn Lan Đình đỏ bừng mặt đáp :

– Tuy không nhường nhưng tại hạ chưa hoàn chiêu!

Tuy họ đối đáp nhưng thân pháp không hề dừng lại, thiếu nữ lại xuất chiêu “U Lan Thổ Nhụy” đánh tới mấy huyệt đạo của chàng. Tôn Lan Đình không dám chậm trễ, lập tức thi triển tuyệt nghệ sư môn Thần Long chưởng pháp, song chưởng chàng đảo lộn mau như chớp xẹt từng trận kinh phong trầm mãnh, phối hợp với thân pháp gia truyền.

Lần này là lần đầu tiên thiếu nữ chính thức động thủ với người nên rất cao hứng lập tức thi triển pháp môn mà nàng luyện thành thục nhất là “Phi Lan Phi Hương thần chưởng” phối hợp với “Lan Hoa Phất Huyệt nhị thập cửu thủ” triển khai, chỉ thấy từng lớp lớp hoa lan lúc ẩn lúc hiện xuất thủ cực mau điểm huyệt rất chuẩn. Hai người toàn lực động thủ, chẳng bao lâu đã qua hơn một trăm chiêu, cả hai đều ổn định thần trí trong nhất thời khó phân cao thấp.

Lão bà bà đứng cạnh sau khi thấy Tôn Lan Đình thi triển Thần Long chưởng pháp đã hết vẻ giận trên mặt, bà lão cứ gật gù liên hồi, nghĩ bụng: “Thì ra tiểu tử này là hậu bối của Thần Long Tôn Giả!”

Hai thiếu niên nam nữ lại đánh hơn mười chiêu nữa toàn là các chiêu hiểm người xem hoảng kinh. Lão bà bà thấy cả hai sắp đến lúc ác đấu sinh tử sợ có sai sót liền quát lớn :

– Dừng lại!

Tôn Lan Đình và thiếu nữ tuy đều có nghe tiếng quát ấy nhưng đang đấu tới lúc quyết liệt không ai dám chậm tay nhảy lui. Lão bà bà thấy họ không dừng tay liền nổi giận hoành Long Đầu trượng trong tay đồng thời gầm lên giận giữ :

– Các ngươi dám cãi lệnh ta ư?

Đầu trượng phất ra một luồng kình lực bắn vọt vào giữa hai người, ai nấy lảo đảo lùi lại ba bốn bước, cả hai giật mình thất kinh, nhất là Tôn Lan Đình lấy làm kinh dị :

– Công lực lão bà bà thực là thâm hậu, xem ra hôm nay ta khó thoát thân sống ra khỏi núi này rồi!

Thiếu nữ kêu to :

– Xin sư phụ mặc kệ con, hôm nay con không thể không phân thắng bại với y!

Lão bà bà quát to :

– Ngươi dám không nghe lịnh ta, các ngươi hãy đến đây!

Thiếu nữ sợ sệt không dám cãi, nàng che miệng bước lại bên lão bà bà còn Tôn Lan Đình vẫn đứng bất động chỗ cũ.

Lão bà bà ôn hòa nói :

– Tiểu tử ngươi hãy đến đây, ta có điều muốn hỏi ngươi!

Bất đắc dĩ Tôn Lan Đình đành bước tới hai bước. Đột nhiên sắc mặt lão bà bà biến đổi rất khó coi, lão bà bà nhìn chàng :

– Thần Long Tôn Giả Cốc Tang Điền là sư phụ hay là phụ thân của ngươi?

Chàng đáp :

– Chính là gia sư!

– Sư mẫu ngươi là ai?

– Gia sư suốt đời không hề lấy vợ, làm gì có sư mẫu!

Lão bà bà biến sắc mặt hòa hoãn lại hỏi tiếp :

– Tôn Bá Dương là gì của ngươi?

– Là gia phụ!

Lão bà bà rất quan thiết :

– Gần đây sư phụ ngươi có an khang không?

Chàng cung kính đáp :

– Người vẫn an khang!

Tôn Lan Đình thấy lão bà bà có phần quan tâm tới sư phụ, đột nhiên chàng nghĩ tới một người bình thường sư phụ chàng cũng rất quan tâm nhưng lại cố ý tránh không nhắc tới, khi xưa chàng vẫn có cảm giác giữa sư phụ và ấy có mối quan hệ không bình thường nhưng mỗi lần có ý thăm dò sư phụ chàng đều thấy người thở dài lắc đầu không nói. Nghĩ đến đó chàng nhìn thẳng vào mặt lão bà bà hồi lâu khiến bà hơi ngạc nhiên hỏi lại :

– Tiểu tử có gì mà ngươi nhìn ta kỹ thế!

Chàng đáp :

– Tiểu sinh nhìn đầu tóc lão tiền bối!

Lão bà long lanh hai mắt :

– Phải chăng là vì nghe sư phụ ngươi nói?

Vừa nói lão bà đưa tay lật cái khăn trùm phủ đầu, chỉ thấy tóc lão bà bà toàn một màu vàng, dưới ánh triều dương nó long lánh phát ra ánh sáng.

Tôn Lan Đình reo lên :

– Lão tiền bối quả nhiên là Kim Phát Man Bà Mạnh Ngọc Trân danh liệt vào hạng Võ lâm Thất tuyệt, mỗi lần gia sư nhắc đến lão tiền bối đều lấy làm tiếc rẻ!

Mạnh Ngọc Trân nghe câu ấy sắc diện buồn bã ngửa đầu thở dài, hai mắt nhìn xa vắng lên không trung không nói như đang tìm kiếm gì trong quá khứ.

Thiếu nữ đứng bên cạnh kinh ngạc :

– Sư phụ làm sao thế?

Mạnh Ngọc Trân Thở dài :

– Ba mươi năm mau quá, ta già mất rồi!

Đột nhiên, bà chuyển thân nắm lấy tay Tôn Lan Đình :

– Đi! Chúng ta hãy vào trong nhà!

Tôn Lan Đình bước theo bà bước vào gian nhà cỏ, bên trong tuy trần thiết đơn giản nhưng cựa sạch. Sau khi ngồi an vị Mạnh Ngọc Trân nhìn thiếu nữ :

– Đây là đại đệ tử của ta tên Vương Mai Sương, tám tuổi đã theo ta học võ nghệ, bây giờ đã qua mười năm, ta định sai nó xuống núi bôn tẩu giang hồ để thêm lịch duyệt.

Bà lại chỉ qua tiểu cô nương :

– Còn đây là Lý Quế Phương là một cô nhi. Ta tuy là người Miêu nhưng hai đệ tử là người Hán cả. Còn ngươi họ tên là gì?

– Vãn bối Tôn Lan Đình! Lão tiền bối quen biết gia sư và gia phụ vãn bối ra sao?

– Tuy ta là người Miêu nhưng lại trưởng thành ở đất Hán, sư phụ ta cũng là người Hán, sau khi học võ nghệ từ biệt sư phụ ta đã quen biết và kết giao với sư phụ ngươi ngao du giang hồ, vì cha ngươi là bằng hữu của sư phụ ngươi nên chúng ta vẫn thường gặp nhau, đó là việc đã hơn ba mươi năm trước.

Tôn Lan Đình hỏi :

– Lão tiền bối đã ở trong núi này ba mươi năm ư?

– Không! Sau đó vì sư phụ ngươi có hiểu lầm ta nên chúng ta chia tay không hề gặp nữa, ta một mình bôn tẩu giang hồ thêm hai mươi năm, nhận thu Mai Sương làm đồ đệ mới định cư tại núi này đến nay bất quá mới gần mười năm thôi!

Tôn Lan Đình thăm dò :

– Không biết gia sư hiểu lầm tiền bối việc gì?

Mạnh Ngọc Trân phản vấn :

– Sư phụ ngươi không nói với ngươi ư?

– Không!

– Chuyện ấy không nhắc tới có lẽ hay hơn, hiện tại chỉ cần biết do ta, vì ta là người Miêu nên lúc ấy cso phần tự ti. Ôi! Nay ta đã hơn sáu mươi, đã già mất rồi!

Tôn Lan Đình thấy lão bà bà không ưng nói, chàng nghĩ rằng đó chẳng qua là việc nữ nhân không tiện hỏi nữa, bông nghe Mạnh Ngọc Trân hỏi :

– Sư phụ ngươi hiện nay vẫn bôn tẩu giang hồ?

– Cứ theo gia sư nói đã hơn hai mươi năm người chưa hề rời núi Đại Ba sơn!

Mạnh Ngọc Trân lại thở dài một tiếng không nói gì nữa. Tự nét mặt của lão bà bà có thể nhận ra tâm tình bà đang bị kích động bấn loạn trong lòng. Sau một lúc trầm mặc, Mạnh Ngọc Trân hỏi :

– Hôm nay ngươi có việc gì mà đi qua đây?

Sắc mặt chàng ảm đạm bèn đem chuyện gia cảnh chàng gặp biến cố ra kể lại nhưng không hề nhắc đến việc xảy ra trong Đoạn Trường cốc.

Sau khi nghe xong, Mạnh Ngọc Trân nói :

– May mà ngươi tìm đến đây, ta biết cái Vô Tự bi nằm nơi nào rồi!

Tôn Lan Đình đinh ninh bà nhắc tới cái bia trước mộ bèn nói :

– Phải chăng bia ấy trong một sơn cốc?

Mạnh Ngọc Trân lắc đầu :

– Không phải, nó ở trong một khu rừng cách đây không xa!

Chàng nghe lại có thêm một cái Vô Tự bi nữa trong lòng kinh dị tự nghĩ: “Trong huyệt mộ Đoạn Trường cốc tuy ta gặp được Si Tình Cư Sĩ nhưng còn chuyện mờ ám về sự thất lạc của phụ mẫu ta và mối thù cũ vẫn chưa tìm ra chút đầu mối, lẽ nào Vương thúc thúc nhắc tới Vô Tự bi là cái bia không chữ thứ hai này chăng?”

Chàng vội hỏi :

– Xin lão tiền bối dẫn vãn bối đến đó xem thử!

Mạnh Ngọc Trân mỉm cười :

– Chớ gấp vội nghỉ ngơi một chút rồi ta sai Mai Sương dẫn ngươi đi!

– Vãn bối nóng lòng như bị lửa đốt chỉ muốn lập tức lên đường tới nơi nhìn tận mắt tấm bia ấy mới yên!

– Được! Trong khu rừng ấy khỉ vượn rất nhiều, khi đến các ngươi chớ nên kinh động chúng. Mai Sương, con hãy dẫn các hạ đây lên đường ngay!

Vị tiểu cô nương kia vội kêu lên :

– Sư phụ xin cho Quế nhi đi theo với!

Mạnh Ngọc Trân trừng mắt :

– Con không đi được!

Vương Mai Sương cười diễm lệ :

– Nơi ấy rất nhiều khỉ vượn đùa giỡn vui lắm, chúng ta đi đi!

Hai người bước ra cửa, Vương Mai Sương đi đến chỗ gốc cây lúc nãy nàng cắm thanh kiếm rút ra đút vào vỏ đeo sẵn sau lưng, nàng gọi :

– Theo ta đi!

Nàng vẫn cứ cố ý thi thố võ công với Tôn Lan Đình, nhưng chàng lại chỉ nghĩ tới cái Vô Tự bi kia, hai người thi triển thân pháp mau như tên bắn vòng theo một sườn núi đến cạnh khu rừng trên ấy. Thoáng chốc họ lên đến sườn núi.

Đột nhiên Mai Sương dừng lại chỉ tay vào một khu rừng :

– Đến rồi, cái bia ở trong khu rừng này, các hạ khinh công cũng khá lắm đó!

Tôn Lan Đình đáp :

– Nếu so với cô nương thì vẫn còn kém xa!

Vương Mai Sương nở mũi :

– Ủa! Sao các hạ không tự xưng là tiểu gia nữa đi?

Chàng đỏ mặt không biết nói sao chỉ ấp úng :

– Cái đó… cái đó…

Nàng cười tươi :

– Thôi đừng cái đó cái kia nữa, chúng ta tiến vào rừng thôi.

Họ tiến vào rừng, trời tối hẳn lại vì cây cối chằng chịt mọc phủ trên đầu lá cây dày thành hàng lớp dưới chân. Càng đi sâu vào rừng ánh sáng càng ít, mùi lá cây khô ủng xông vào mũi trộn lẫn với mùi cây rừng hoang dã càng làm tăng thêm vẻ thần bí lạnh lùng.

Đột nhiên một làn gió từ sau ót Tôn Lan Đình thổi đến, chàng hoảng kinh vội cúi gập thân xuống xuất chiêu “Ngọa Khán Xảo Tinh” né tiếng gió. Ngẩng đầu nhìn lên, Tôn Lan Đình thấy trên cành cây có năm sáu con vượn đang đong đưa thân hình “hi” một tiếng như trêu chọc.

Vương Mai Sương cười nói :

– Các hạ sợ lắm phải không? Càng đi vào nữa càng nhiều vượn lắm đấy!

Họ tiếp tục tiến sâu, trên đường đi tiếng vượn hú khỉ kêu liên miên bất tuyệt, chàng không có thì giờ quan tâm tới chúng, thỉnh thoảng lại hỏi nàng :

– Vô Tự bi ở chỗ nào?

Mai Sương chỉ vào chỗ có ánh sáng :

– Nó ở nơi cây cối hơi lưa thưa kia kìa!

Tôn Lan Đình không trả lời, chàng nhấp nhô thân pháp vài cái vượt qua Vương Mai Sương phi thân tới thẳng chỗ nàng vừa chỉ, đến gần mới nhận ra đó là khoảng đất trống giữa rừng, ánh nắng từ trên chiếu xuống sang rực rỡ.

Chàng đưa măt nhìn tới, quả nhiên có một tấm bia đột ngột như từ dưới đât chui lên và hình như đó là bia do thiên nhiên tạo thành từ một khối đá cao ước một trượng, hình dáng khá giống hệt một tấm bia, đứng ở xa lắm mà vẫn thấy mặt bia khắc nổi bốn chữ lớn “Vô Tự Thần Bi”.

Tôn Lan Đình vội vã chạy lại gần muốn biết ngoài bốn chữ lớn ấy còn một hàng chữ nhỏ nhưng vì lâu ngày bị rêu phong bám chặt nên khó nhận ra nét bút.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.