Niên hiệu Thiên-cảm Thánh-vũ thứ 5 ( Mậu-Tý, 1048 ), đời vua Lý Thái-tông, mùa Thu tháng tám, ngày Giáp-Thân bên Tống nhằm niên hiệu Khánh-lịch thứ tám đời vua Nhân-tông. Suốt mấy đêm công chúa Bảo-Hòa, chưởng môn phái Tản-viên cùng các trưởng lão nghiên cứu thiên văn. Nào quan sát thiên tượng, nào so sánh chư tinh, rồi quyết định: Thiên tượng cực tốt cho việc Bắc-tiến, vì các tinh ứng với vua, cùng đại thần Tống đều lu mờ. Trong khi chư tinh ứng với bản mệnh vua, đại thần, tướng soái tộc Việt sáng chói.
Đúng lúc đó chim ưng của tế tác Đại-Việt báo: sứ đoàn Hoàng-Giang cư sĩ sẽ triều kiến vua Tống vào ngày Đinh-Hợi. Sứ đoàn Dư Phi đã trở về an toàn. Lại có tin của tế tác do Trần Phụ-Quốc gửi về:
“… Triều Tống chia làm hai phe tranh cãi nhau kịch liệt. Phe chủ hoà đổ hết lỗi lên đầu phe chủ chiến. Phe chủ chiến cho rằng bọn Vương Duy-Chính, Dư Tĩnh, Ky Mân, Dương Điền, Tôn Miễn hành sự vụng về để bị lộ âm mưu Nam tiến, trong khi Tống chưa chuẩn bị xong. Triều đình sai sứ xuống lưỡng Quảng để lo giảng hòa… ”
Công chúa khẩn triệu tập Bắc-tiến đạo, hành doanh mã-bộ-quân tổng lĩnh (sử thường gọi tắt là Bắc-tiến tổng hành doanh), để cùng các quan tham mưu duyệt xét lại tình hình cuối cùng: nào tin tức Tống triều, nào tin tức các phủ huyện, châu quận Lưỡng-Quảng, nào tình hình binh tướng Đại-Việt, nào việc tồn trữ vận chuyển lương thảo.
Sau cùng công chúa sai thư lại viết lệnh, truyền Hoàng Tích bỏ vào ống dưới chân chim ưng. Đến giờ Dần, công chúa đích thân ra sân tung lên trời hai mươi chim ưng. Mỗi con bay về một phương, dưới chân chúng đều mang bức thư. Một trong những bức thư đó tới động Trường-sinh vào giờ Mão. Khu-mật viện Trường-sinh tiếp thư, vội đánh thức Trường-sinh hầu Nùng Trí-Cao dậy. Trí-Cao cung kính mở thư ra, trong vỏn vẹn có mấy chữ:
Ngày Quý-Tỵ, giờ Dần.
Trí-Cao vội ăn sáng, rồi đến Khu-mật viện, đích thân thảo lệnh, triệu hồi khẩn cấp các tướng tá, động chủ, châu trưởng về họp. Giờ Ngọ, tất cả đều có mặt, vừa lúc đó vua bà Bình-Dương, phò mã Thân Thiệu-Thái, Hoa-sen quận vương Lê Văn, phò mã Hà Thiện-Lãm, công chúa Trường-Ninh đều tề tựu. Trí-Cao sai kiểm điểm lại việc canh phòng, rồi trịnh trọng đứng lên nói:
– Thưa các vị, ngày mà chúng ta chờ đợi đã tới. Sư phụ ban lệnh giờ Dần ngày Quý-Tỵ thì xuất quân. Tổng chỉ huy ba đạo quân là vua Bà. Quân sư là sư huynh Lý Thường-Kiệt của tôi.
Lý Thường-Kiệt cùng Thuần-Anh, Thuần-Khanh từ trong đi ra. Ba người đến trước vua Bà hành lễ. Vua Bà thấy Thường-Kiệt, Thuần-Khanh thì giật mình hỏi:
– Hai con từ đâu tới đây? Đến từ hồi nào?
Thuần-Khanh cúi đầu:
– Thưa sư phụ, chúng con từ núi Tản mang lệnh của tiên cô qua từ đêm trước.
Đã lâu rồi, nghĩa là từ ngày xẩy ra vụ án Bắc-ngạn, triều đình Trường-sinh đều nghe nói nhiều về Thường-Kiệt. Nào Thường-Kiệt đầy lòng hiệp nghĩa, dùng võ công đánh anh em họ Dương cứu Nùng Trí-Cao. Nào thân mẫu Thường-Kiệt là sư muội của phu nhân Nùng Tồn-Phúc. Nào Thường-Kiệt dạy võ công cho Trí-Cao. Nào cũng chính vì Thường-Kiệt cứu Trí-Cao mà Dương hoàng-hậu, cùng Vương phi thái-tử ám hại bằng cách bỏ thuốc mê, rồi đem thiến. Nay họ thấy Thường-Kiệt ở hẳn trong động Trường-sinh, thì mọi người đều vui mừng rằng mình thêm một nhân tài trợ giúp.
Nguyên từ sau thảm cảnh Thường-Kiệt bị tĩnh thân, Thuần-Khanh với chàng bị mất tích đến nay mấy năm, mặc dù triều đình ra công tìm kiếm, nhưng vẫn không thấy hai người đâu. Bây giờ vua bà Bình-Dương nghe nói hai người đến từ núi Tản thì nghĩ rằng chúng được Bảo-Hòa đưa về đó ẩn thân.
Thuần-Anh hướng vua Bà:
– Công chúa điện hạ. Vì bảo đảm an ninh cho tính mệnh Thường-Kiệt với Thuần-Khanh, chính mụ già này tuân lệnh tiên cô đón chúng về núi Tản dưỡng bệnh. Sau lại tuân lệnh tiên cô làm lễ cưới cho Thuần-Khanh với Trí-Cao. Nghĩ Thuần-Khanh là đệ tử của công chúa, mà lão không cáo với công chúa thực có lỗi lớn, nhưng tiên cô cấm, nên lão già này đành chịu.
Vua Bà cầm tay Thuần-Khanh:
– Việc trăm năm của con do tiên cô lo cho thì thực ta cầu mà không được.
Khai-Hoàng vương tiến đến nắm tay Thường-Kiệt:
– Thằng con nuôi thối tha này. Từ hôm người bị nạn đến giờ người biệt tăm. Ta ăn không ngon, ngủ không yên. Nhiều lần ta khóc vì tưởng người chết rồi, hóa ra người ẩn ở trên Tản-lĩnh. Sau trận này, người mà không về ở với ta, ta quyết… ta quyết không nhìn mặt người nữa.
Thường-Kiệt thấy tình cảm của sư thúc, chàng cũng rơi nước mắt:
– Sư thúc tha tội. Vì cháu ở cạnh sư phụ. Mà sư phụ cấm không cho cháu xuất hiện, nên nào dám về gặp sư thúc.
Thường-Kiệt bước lên trướng, rồi cung tay hành lễ với vua Bà:
– Thưa sư thúc, con xin nghe chỉ dụ của sư thúc.
Vua Bà nói:
– Trước đây tiên cô ban lệnh cho đạo quân Trường-sinh đánh ngược lên Liễu-châu, Quế-lâm, sau đó chiếm Ngũ-lĩnh, rồi án binh tại đây, không cho Tống đem quân cứu Lưỡng-Quảng. Nhưng đó là hư kế, vì sợ tế tác Tống biết được. Thực sự kế hoạch khác hẳn. Hôm nay Thường-Kiệt sẽ trình bầy với các vị.
Thường-Kiệt vẫy tay ra hiệu, hai đệ tử Tản-viên mang ra một trục lụa lớn bằng cái chiếu, trên ghi chú đầy đủ đường xá, sông ngòi, cùng thành trì, nơi đồn trú quân cùng chỗ chứa lương thảo của Tống. Bản đồ này Trí-Cao đã tốn không biết bao nhiêu công sai tế tác đi sưu tầm mấy năm liền.
Thường-Kiệt chỉ lên bản đồ:
– Kế hoạch hành quân này do chính sư phụ tôi soạn thảo rất chi tiết. Nay tôi xin truyền lại. Cánh quân của sư thúc Lê Văn sẽ xuất phát từ Điền-đông, thình lình tiến lên vượt sông Giang-thủy đánh Liễu-châu. Liễu-châu là châu trị của toàn vùng Quảng-Tây. Tại Liễu-châu, Tống có khoảng năm nghìn quân. Nhưng ta đổ quân vào như sét nổ, ắt chúng không chuẩn bị kịp. Sau khi chiếm Liễu-châu, thì tiến lên chiếm Quế-châu sau đó chiếm Linh-lăng. Sư thúc chỉ đánh ba thành lớn thôi. Còn những thành, đồn nhỏ thì bỏ qua. Khi tới Ngũ-lĩnh thì sư thúc toàn quyền quyết định vượt lĩnh đánh Trường-sa hay án binh bất động.
Lê Văn cau mày:
– Lệnh của sư phụ con bắt ta thi hành hơi mạo hiểm. Ta tiến nhanh như vậy, dọc đường có tới chín thành nhỏ. Chúng chặn đường tiếp tế lương thảo thì ta ắt gặp hung hiểm.
Thường-Kiệt cung tay:
– Sư thúc cẩn thận như vậy thực phải. Nhưng giờ này các đội đệ tử Đông-a đang ẩn thân ngoài những kho chứa lương thảo của Tống. Khi sư thúc chiếm thành lớn rồi bỏ lại thành nhỏ thì công chúa Trường-Ninh với phò mã Hà Thiện-Lãm tiến theo sau, thanh toán các đồn này. Đệ tử Đông-a sẽ làm nội ứng giúp công-chúa với phò-mã chiếm các kho lương thảo. Đại sư bá Trần Phụ-Quốc thân chỉ huy tế tác giúp sư thúc.
Lê Văn hỏi:
– Tất cả những đồn nhỏ dọc đường từ đây đến Ngũ-lĩnh ta không sợ cho lắm. Duy hai châu Điền-đông, Liên-thủy, mỗi nơi Tống có ba nghìn quân trấn đóng, với viên huyện lệnh và viên chỉ huy sứ, là ta ngại nhất.
– Thưa sư thúc, sư phụ cháu định sẵn:
Trấn-võ đại tướng quân, Vũ-dương hầu Tôn Quý cùng phu nhân Phùng Kim-Thanh đồng xuất phát với sư thúc. Ngay buổi sáng sớm, hầu đánh úp Điền-đông, rồi để cho phu nhân tổ chức cai trị. Còn hầu tiến cùng sư thúc. Đến Liên-thủy, trong khi hầu đánh huyện này, sư thúc vẫn cứ tiến quân.
Dư Phi thêm vào:
– Khi đi sứ, cháu chú ý, thấy quân sĩ của Liễu-châu đóng làm ba khu vực ở trong thành. Thường ngày một phần ba về làm ruộng. Hai phần ba canh gác. Nhưng thực tế họ ở lẫn với dân, rất khó tập hợp.
Thường-Kiệt nói với công chúa Trường-Ninh:
– Công chúa cùng Hà phò mã đem quân đi sau đạo của Lê sư thúc, tiếp quản, trấn nhậm Liễu-châu, Quế-châu, Linh-lăng, cùng đánh chiếm những đồn ải nhỏ, mà sư thúc Lê Văn bỏ qua.
Chàng đưa mắt cho Trí-Cao:
– Nhiệm vụ của đạo Hoa-sen, Thượng-oai coi như phên dậu che cho các đạo quân đánh Lưỡng-Quảng. Bây giờ tới đạo chính binh của Trường-sinh. Sư đệ Trí-Cao dùng quân Trường-sinh tỏa về phía Đông, dọc Tả-giang, Hữu-giang đánh thành Hoành-châu, Quý-châu, Ung-châu, Củng-châu, Tầm-châu, Đằng-châu, Thương-ngô, Phong-châu, Đoan-châu, Khang-châu. Tới đây sẽ gặp đạo binh của công chúa Kim-Thành đánh từ Đông về Tây.
Trí-Cao hỏi:
– Đệ đánh như vậy, thì hông phải còn hàng chục đồn, chúng cắt ngang đường về thì sao?
– Sư phụ đã ước tính rồi. Khi sư đệ tiến như vậy thì phía Nam, quân của Lạng-châu, Phong-châu sẽ đánh chiếm tất cả các đồn hông phải, hông trái cho sư đệ. Hai đạo này vượt biên chiếm Khâm-châu, Liêm-châu, Khúc-giang, Quảng-châu.
Thường-Kiệt nói với Thiệu-Cực:
– Bây giờ tới đạo binh đánh Quảng-Đông. Sư phụ định rằng sư bá tổng chỉ huy quân Phong-châu, Lạng-châu vượt biên đánh Khâm-châu, Liêm-châu lên Quảng-châu, rồi chiếm Khúc-giang, Triều-dương, Đông-sơn. Sư phụ dạy: sư bá là túi khôn thiên hạ thêm tài dùng binh của sư thúc Tôn Đản, sư thẩm Cẩm-Thi, sư bá thiết kế lấy.
Vua Bà tiếp lời Thường-Kiệt:
– Tóm lại chúng ta có năm đạo binh khác nhau. Một là đạo Hoa-sen đánh chiếm Ngũ-lĩnh. Hai là đạo Thượng-oai đi sau đạo Hoa-sen để chiếm các châu quận mà đạo Hoa-sen vượt qua, cùng trấn nhậm, tổ chức cai trị vùng Liễu-châu, Quế-châu, Linh-lăng. Đạo thứ ba là Trường-sinh hành động độc lập, đánh từ Tây sang Đông. Đạo này hai sư huynh Bảo-Dân, Trung-Đạo cùng Trí-Cao chỉ huy. Tôi với triều đình Bắc-cương sẽ lĩnh nhiệm vụ an dân. Thường-Kiệt đi theo tôi.
Vua Bà ngừng lại đưa mắt cho Thân Thiệu-Cực; Tôn Đản, Cẩm-Thi; Tôn Mạnh, Thanh-Nguyên; Lưu Tường. Thiệu-Cực nói:
– Tôi phụ trách, đánh Quảng-Đông gồm đạo thứ năm là Lạng-châu vượt biển, đánh úp Khâm-châu, Liêm-châu. Tôn Đản, Cẩm-Thi tổng chỉ huy. Trấn Bắc đại tướng quân Tản-viên hầu Tôn Mạnh và phu nhân Trần Thanh-Nguyên đánh úp Liêm-châu. Tả-thiên ngưu vệ thượng tướng quân Lưu Tường đánh úp Khâm-châu.
Quốc-công đưa mắt nhìn Kim-Thành, Thuận-Tông:
– Đạo thứ năm là Phong-châu, do Kim-Thành, Trường-Ninh chỉ huy vượt biên bằng đường bộ, đánh tất cả những đồn bên hông phải cho đạo Trường-sinh, rồi chi viện cho đạo Lạng-châu. Sau khi chiếm Khâm-châu, Liêm-châu thì đạo Phong-châu khoẻ mạnh tiến lên chiếm Quảng-châu, đạo Lạng-châu ngược lại đi sau tiếp ứng. Tôn Đản, Cẩm-Thi đánh Khúc-giang, Triều-dương, Đông-sơn, rồi trấn Chương-giang, không cho quân Tống từ Ngô-Việt đánh xuống.
Vua Bà tiếp lời Quốc-công Thiệu-Cực:
– Mỗi đạo đều có đội ưng binh. Sau một biến cố thì chuyển thư về Bắc-tiến tổng hành doanh mã-bộ-quân cho công-chúa Bảo-Hòa, nhưng cũng báo cho các đạo khác biết để phối hợp hành động. Công-chúa Bảo-Hòa cũng sẽ dùng chim ưng ban những chỉ dụ, cùng báo về Khu-mật viện.
… Vì tầm mức quan trọng, nên tất cả lục bộ thượng thư của Bắc-biên cùng thư lại, ký lục đều đặt tại Bắc-tiến tổng hành doanh hầu giúp công chúa Bảo-Hòa. Riêng triều đình Đại-Việt, Đại-lý, Xiêm-quốc, mỗi nơi đều cử đến tổng hành doanh một số quan lại để giúp đỡ.
… Thôi, Thường-Kiệt tiếp đi.
Thường-Kiệt nói với Trí-Cao:
– Sư phụ phụ dạy, tất cả các đạo binh đều là phụ. Đạo Trường-sinh là chính. Sau này sư đệ là Đại-Nam hoàng đế kia mà. Vậy sư đệ hãy điều quân đi, để có các vị cao minh hiện diện góp ý giúp sư đệ.
Trí-Cao suy nghĩ một lúc rồi đứng lên nói:
– Tấu vua bà. Thưa các vị sư bá, sư thúc, sư huynh, sư tỷ. Cùng các sư đệ. Cao này vốn tài thô trí thiển. May được sư phụ thương yêu dạy dỗ, rồi lại được tiên cô nhân cảnh côi cút mà ban ơn thu làm đệ tử. Hôm nay được các vị trưởng thượng ưu ái tin tưởng trao cho nhiệm vụ lớn, thực lấy làm hổ thẹn. Nhưng nghĩ lại: Nghĩa lớn của tộc Việt là đòi lại đất tổ, vì vậy dù tài hèn trí thiển, nhưng Cao cũng xin cố gắng hết sức mình. Sư phụ trao cho Cao này nhiệm vụ đánh cắt dọc Quảng-Tây, Quảng-Đông làm hai. Nay xin đưa ra phương án như sau.
Quần hào tuyệt không ngờ một thiếu niên sơn cước, mà có lời nhún nhường nhưng lại đầy chính khí như thế. Nhưng thoáng một cái, họ đều hiểu ngay rằng Trí-Cao được Hoàng-Giang cư-sĩ vừa dạy văn, vừa dạy võ. Gần đây được tiên cô dạy thêm nữa.
Trí-Cao chỉ lên bản đồ:
– Các đạo Trường-sinh, Phong-châu, Thượng-oai, Lạng-châu phát xuất một lúc, cùng đánh thực mạnh như sét nổ, tất toàn thể Lưỡng-Quảng rúng động, đám quan quân Tống kinh hồn táng đởm. Toàn Lưỡng Quảng thì trị sở là Quế-châu, Liễu-châu bị sư thúc Lê Văn đánh. Còn trị-sở các thành dọc Nam-biên là Ung-châu thì do Trường-sinh đảm trách. Trị sở các thành phía Quảng-Đông thì đặt ở Quảng-châu, mặt này do Lạng-châu, Phong-châu đảm trách. Vậy cần tiến công Ung-châu trước. Có như thế lệnh từ Quế, Ung không tới các thành khác. Ngược lại cấp báo các thành khác không tới được Quế, Ung. Chính Cao sẽ đảm trách công Ung. Nhưng Ung là hư, chỉ đánh cầm chừng. Còn thực là các thành khác. Khi chiếm xong các thành khác thì Ung biến thành thực.
Y hướng Thiệu-Cực:
– Phía Đông, đạo Phong-châu, Lạng-châu đánh Khâm-châu, Quảng-châu, trấn mặt Đông cho Trường-sinh. Nay Trường-sinh xin ra quân như sau.
Trí-Cao hướng Thuần-Anh:
– Hoành-châu ở gần nhất, ta cần ra quân chớp nhoáng. Trong thành đã có anh em đệ tử Đông-a chờ đợi. Vậy chính mẫu thân, âm thầm xuất quân trong đêm, sao cho đúng giờ Dần thấy trong thành có tiếng reo hò, có khói bốc lên là lúc anh em đệ tử võ phái đánh phá dinh trấn-thủ, kho lương, mở cổng thành. Ta ập vào chiếm lấy. Sau khi chiếm Hoành-châu, mẫu thân bắt dân binh Tống theo phục dịch binh mình, rồi tiến lên đánh Quý-châu (Ninh-châu). Xin mẫu thân cho biết cần bao nhiêu quân?
Thuần-Anh nói:
– Trong thành Hoành-châu có ba nghìn quân, gồm một nghìn kỵ, hai nghìn bộ, cùng năm nghìn dân phu. Nếu ta đánh sớm, chúng còn ngủ. Dù chúng có thức dậy cũng mất một giờ tập hợp cùng phản ứng. Vì vậy không cần nhiều quân. Ta chỉ xin cho ba nghìn nữ binh, một trăm hổ, một trăm báo, một trăm sói. Không cần voi. Về thành Quý trong thành có ba nghìn quân toàn bộ binh. Sau khi Hoành-châu mất Quý-châu rung động, chỉ cần dùng hư binh cũng khiến cho chúng kinh hồn bỏ chạy. Có điều tướng trấn thủ là Đức Quang, hữu dũng vô mưu, nhưng võ công y cực kỳ cao thâm, mụ già này không thể là đối thủ của y.
Thuần-Anh chỉ vào tuổi năm mươi, nhưng bà xưng là gìa, làm mọi người đều mỉm cười. Tuy tiếng nói ôn nhu, nhưng với một thành ba nghìn quân, năm nghìn dân phu, mà bà chỉ xin có ba nghìn nữ binh, thì ai cũng phục bà can trường.
Trí-Cao hỏi Bảo-Dân:
– Sư thúc, võ công sư thúc so với Đức Quang thế nào?
– Ta chưa đấu với y. Nghe đâu y đấu ngang tay với Vương Duy-Chính, Dư Tĩnh thì phải.
Nghe Bảo-Dân với Trí-Cao đối thoại, Lê Văn ôm gối ngửa mặt lên trời mà cười. Thường-Kiệt thấy vậy, y hỏi:
– Sư thúc ! Xin sư thúc cho phương thuốc trừ tên Đức Quang.
Lê Văn đưa ra bình thuốc nhỏ trao cho Bảo-Dân:
– Sư huynh phải dự cuộc đánh chiếm Ung-châu, Tân-châu, e không thể hiện diện dùng võ công giết tên Đức Quang, thì bình thuốc này sẽ trị được y.
Trí-Cao hỏi:
– Nghĩa là???
Lê Văn cười tủm tỉm:
– Trong thành hiện có người của phái Đông-a, y là chủ quán ăn. Quán của y nổi tiếng về món chả cá Thăng-long phải không?
Trí-Cao tỉnh ngộ:
– Phải rồi, Đức Quang là tên thích rượu ngon, thích gái đẹp, thì đêm Nhâm-Thìn sang ngày Quý-Tỵ chủ quán chỉ việc làm chả cá mời y, rồi bỏ thuốc nhuyễn-cân vào rượu thì hôm sau mẫu thân bắt y như bắt rùa.
Trí-Cao đưa mắt nhìn vợ:
– Kế tiếp là Củng-châu. Trong thành Củng có năm nghìn binh, gồm ba nghìn bộ, hai nghìn kỵ. Thành Củng ta cũng ra binh như thành Hoành, trong thành anh em đệ tử Mê-linh đã tiềm ẩn, đúng giờ Dần họ chiếm đinh trấn thủ, kho lương, chuồng ngựa, rồi mở cổng thành cho quân ngoài vào. Vậy Thuần-Anh hãy lĩnh năm nghìn nữ binh, cùng một trăm hổ, một trăm báo, một trăm sói tiến đánh. Thuần-Khanh có ý kiến gì không?
Thuần-Khanh hỏi:
– Tướng trấn thủ Củng-châu là ai? Tài trí y ra sao?
– Y tên Toàn Huy, nguyên y có tên là Phạm Đình-Huy, khi ứng thí tiến sĩ mới đổi ra là Toàn-Huy. Y xuất thân là người đọc sách, thi đậu tiến sĩ năm mười chín tuổi. Tuy y đỗ cao, nhưng không được triều đình trọng dụng. Mãi sau nhờ Yến Thù, y mới được làm tham quân trong đạo binh của Tần-vương Tự-Mai. Khi vương rời Bắc-biên về triều, có đề bạt cho y làm huyện lệnh Củng-châu. Võ công y bình thường, tài dụng binh bình thường, nhưng y là người có tài cai trị. Sau này toàn vùng Lưỡng-Quảng phải trao cho y.
Thuần-Khanh hỏi:
– Sau khi chiếm Củng-châu rồi, thì tiểu muội làm gì?
– Dân Củng nửa nói tiếng Quảng, nửa nói tiếng Việt. Sau khi chiếm xong, Thuần-Khanh cho tổ chức cai trị, an dân, cùng trấn đóng tại đây. Khanh đắp lại thành, bố trí cung nỏ thực nhiều, bởi tuy ta ra quân lần này cầm chắc cái thắng trong tay, nhưng cũng cần bảo vệ con đường rút lui . Nếu như các đạo quân khác thất thố, ta lấy thành Củng làm địa đầu.
Trí-Cao quay lại nhìn thấy Tĩnh-Ninh ngồi cạnh Trần Anh; Đào Phương-Hồng ngồi cạnh Tôn Trọng, thì cung kính chắp tay:
– Nhị vị sư thúc lên tham chiến giúp cháu đã là đại phúc rồi, không ngờ gót ngọc của nhị vị sư thẩm cũng quang lâm hỗ trợ nữa, với tài Thánh-Thiên, Vĩnh-Hoa của hai sư thẩm, nhất định cháu sẽ thành công.
Ai cũng ngạc nhiên khi Trí-Cao nói năng cực kỳ văn hoa. Y tiếp:
– Bây giờ tới cái củ trối thành Ung, xin sư bá Bảo-Dân cho biết tình hình trong thành.
Bảo-Dân đáp:
– Thành Ung xây bằng đá ong dầy tới một trượng, trên mặt thành xe cộ, lừa ngựa đi lại được. Thành cao tới bốn trượng (8 mét). Bên ngoài có lớp hào rộng tới ba trượng, sâu hai trượng. Dưới hào đầy chông. Bốn cửa thành bằng gỗ lim dầy, bọc thép. Nếu tất cả các thành khác đều chỉ có quân của địa phương, thì thành Ung là thành duy nhất có ba đạo quân 441, 442, 443 của Tống đóng tại đây. Tổng số lên tới ba vạn bộ, một vạn rưỡi kị. Thành Ung là thành mẹ của các thành Nam biên Tống. Tướng trấn thủ là Ky Mân, văn võ kiêm toàn. Y xuất thân tiến-sĩ, từng làm tham quân cho Kinh-Nam vương Tự-Mai. Vì y công kích chính sách nhu nhược của Tống với Liêu nên bị đầy. Chính y thống lĩnh đạo binh 443. Còn đạo 441 do Tống Kiều thống lĩnh. Võ công Kiều rất cao thâm, y bất mãn với Ky Mân. Ta có thể chiêu hàng y. Còn tướng thống lĩnh đạo 442 là Hàm Công, tuổi y còn trẻ, võ công bình thường, nhưng có tài dùng binh, trước đây theo Kinh-Nam vương Tự-Mai chinh chiến, được tân thăng, đưa về đây.
Trí-Cao hỏi Bảo-Dân:
– Thưa sư bá, cháu cho tế tác dò la thì biết lương thảo ba thành Hoành, Quý, Củng để ở Hoành hết. Còn lương tháo của Ung, Tầm, Đằng châu để ở đâu, cháu dò không ra.
– Tất cả để ở Tầm-châu. Thành này do Tôn Miễn trấn thủ. Y là quan văn, có tài dùng binh, võ công cực cao. Y là đệ tử của Bắc-sơn lão nhân phái Hoa-sơn.
Trí-Cao cảm ơn Bảo-Dân rồi nói:
– Muốn đánh Ung châu, ta dùng hư binh đánh Tầm-châu, để Ky Mân phải đem quân cứu viện. Ta lại dùng phục binh đánh viện quân, rồi có kế chiếm Ung châu. Nhưng sợ khi đánh Tầm thì Dương Điền lại đem quân đánh phía sau. Vậy như thế này.
Trí-Cao cung tay nói với Trần Anh:
– Thành Đằng-châu do Dương Điền trấn thủ. Trong thành có ba nghìn thổ binh. Vậy sư thúc Trần Anh cùng sư thẩm Tĩnh-Ninh đem ba nghìn quân cùng trăm hổ phục ngoài thành, ban ngày dùng cờ ngũ hành di chuyển, đêm đánh trống, cho cọp gầm để làm kế hư binh, hầu cầm chân Dương Điền.
Y cung tay nói với Tôn Trọng:
– Sư thúc cùng với sư thẩm Đào Phương-Hồng đem ba nghìn quân bộ, một trăm xe bắn đá đánh Tầm-châu, cần đánh thật rát. Tôn Miễn kinh hãi, ắt đốt phong hỏa đài cầu cứu với Ky-Mân. Ky-Mân đem quân cứu viện, cháu sẽ có kế chiếm thành Ung.
Trí-Cao nói với Trung-Đạo:
– Việc đánh thành cháu không kinh nghiệm, vậy xin sư bá dạy cho việc phá Ung-châu.
Ai cũng biết Trung-Đạo từng làm Tư mã Kinh-châu, chức tới Phiêu-kị đại tướng quân của Tống, từng đánh dư trăm trận. Tất cả im lặng nghe ông nói.
Trung-Đạo đứng đậy:
– Ky-Mân trấn thủ Ung-châu. Y từng làm tham quân cho tiểu sư đệ Tự-Mai, nên rất giỏi việc binh. Về võ công, y là đệ tử của Nam-Sơn lão nhân phái Hoa-sơn, võ công không thua Địch Thanh. Đường từ biên giới tới Ung-châu mất ít nhất một ngày đường. Khi ta vượt biên, thì tế tác ắt báo tin về cho Ky-Mân. Y kịp thời tập trung quân nghênh chiến. Ta không thể đánh úp như các nơi khác. Tốt hơn hết ta dùng lối dương Đông kích Tây, công thành đả viện. Vậy sư bá sẽ lĩnh ba nghìn quân bộ, ba nghìn quân kị , một trăm hổ, một trăm báo, một trăm sói, hai trăm voi phục ở phía Nam thành Ung. Đợi khi Ky Mân đem quân cứu viện Tầm-châu, thì chặn đường về của y.
Ông nói với Bảo-Dân:
– Nhị sư huynh cùng đội tế tác nhập thành Ung chờ sẵn. Đợi khi Ky Mân đem quân cứu Tầm-châu, đang giao chiến với ta thì đánh phá cửa thành Tây. Bấy giờ Trí-Cao đem quân vào. Giặc bị đánh thình lình ắt rút chạy ra cửa Bắc, ta cho chúng chạy, chỉ một ngày không lương là quân tan hết.
Thường-Kiệt đứng lên nói:
– Sư mẫu ban lệnh: tất cả tin tức của các đạo đều báo về Bắc-tiến tổng hành doanh, cũng báo cho nhau theo hàng ngang để nắm tình hình. Sư mẫu phụ trách cáo về triều cùng Đại-lý. Về việc tổ chức cai trị vùng chiếm được, hoàn toàn do sư bá Thiệu-Cực định đoạt.
Vua Bà đứng lên nói:
– Xin lưu ý quý vị ba điều. Một là tại Kinh-châu, Tống vẫn có trọng binh đóng, tổng số tới hai chục vạn, chia ra: Xuyên-khẩu năm vạn; Tương-dương năm vạn; Nam-quận năm vạn; Kinh-châu năm vạn. Ngoài ra họ còn có một hạm đội đóng tại Giang Bắc; một hạm đội đóng tại hồ Động-đình. Nếu như Tống mạo hiểm, họ có thể dùng hai hạm đội chở quân đổ bộ vào vùng Quảng-châu, vào cửa sông Bạch-đằng đánh phía sau ta. Việc này Thái-sư đã có kế hoạch dự phòng rồi. Hai là dọc bờ biển, Tống có lực lượng hải quân ở Tuyền-châu, Hổ-môn, Khâm-châu, Quảng-châu, tuy không nhiều nhưng nếu họ tập họp lại, cũng là lực lượng không nhỏ. Ta cần phải phòng. Ba là khi đánh chiếm các thành, các châu quận ta phải tế nhị với dân. Cần đi khắp khác thôn xóm nói cho họ biết rằng họ là người Việt, nay trở về với đất Việt. Họ được hưởng thuế nhẹ, họ được tự trị chứ không do quan Tống từ xa tới. Ta cần tìm những người có học thức trao cho họ đảm nhiệm cai trị. Những đạo quân không biết nói tiếng Quảng, chỉ đánh xong rồi rút. Còn những đạo biết nói tiếng Quảng thì trấn nhậm . Đối với quan lại gốc Tống, người nào đầu hàng, ta vẫn cho giữ nguyên phẩm trật. Người nào bị bắt thì chở thẳng về Trường-sinh giam, cho ăn uống tử tế. Một số tham quan bị bắt, cần đem chém cho dân thỏa lòng.
Vua Bà hỏi:
– Có ai thắc mắc gì không?
Mọi người im lặng. Thường-Kiệt nói:
– Tấu vua Bà, sư phụ muốn vua Bà cho một trong ba đại tướng Vi Chấn, Lưu Tường, Hoàng Tích ở cạnh sư phụ để phụ trách điều khiển chim ưng.
– Vậy Tráng-tiết tướng quân, Tiên-yên hầu Hoàng Tích hãy theo hầu tiên cô. Nhớ mang theo trăm chim ưng để thông tin với các đạo quân.
Giờ Dần, ngày Quý-Tỵ.
Công chúa Bảo-Hòa đứng trên đỉnh ngọn núi cao nhất Trường-sinh. Cạnh công chúa có đại sư Huệ-Sinh, đạo sư Nùng-Sơn tử, Lưu Tường cùng một số đệ tử Tản-Viên. Bốn nàng Mai, Lan, Cúc, Trúc theo hầu bên cạnh. Vừa đúng giờ Dần, công chúa truyền đánh lửa rồi châm vào phong hỏa đài. Phút chốc lửa bốc lên cao tận mây, ánh sáng đỏ tươi chiếu rực bầu trời.
Quốc-sư Huệ-Sinh hỏi:
– Tiên cô ! Kế hoạch tiến quân của đạo Trường-sinh, Hoa-sen, Thượng-oai bần tăng đã biết rồi. Không biết giờ cuối cùng, tiên cô có thay đổi gì không?
Bảo-Hòa đáp:
– Kính Quốc-sư không có gì thay đổi cả. Đúng kế hoạch, thì đội võ sĩ phái Đông-a đã ẩn trong thành Liễu-châu từ trước, do chính chưởng môn Phụ-Quốc chỉ huy. Khi họ thấy ánh lửa phong hỏa đài, lập tức nhanh chóng đốt dinh Kinh-lược an vũ sứ, chuồng ngựa, mở bốn cổng thành ra cho đạo kị mã Hoa-sen với đội thú xung vào làm nát lòng quân Tống. Sau đó đạo kị mã, bộ binh tiến vào sau. Đám năm nghìn quân bộ, ba nghìn kị Tống sẽ bị bắt hết. Lê Văn dùng đám quân đó là phu khuân vác lương thảo cùng dụng cụ cho đạo Hoa-sen, rồi tiến lên Quế-châu. Tôi độ chừng khi Văn đệ tới Quế-châu thì Vương Duy-Chính mới biết. Nếu y tập hợp được binh sĩ thì Văn đệ phải đánh thành. Còn trường hợp y không tập trung được quân thì sẽ bỏ chạy về Linh-lăng. Văn đệ sẽ đuổi theo.
Nùng-Sơn tử là vai sư thúc chưởng môn Bảo-Hòa. Rất giỏi về khoa tướng mệnh, ông nói:
– Chưởng-môn trao nhiệm vụ chiếm núi Ngũ-lĩnh cho Lê vương gia thực đúng. Bần đạo coi tướng vương gia, là người trung hậu, bác học, đa năng, suốt cuộc đời tắm trong y đạo. Cứ việc sang Xiêm thì rõ. Nếu muốn, vương có thể đem công chúa về Đại-Việt ở. Nhưng vương nghĩ , tục lệ Xiêm định rằng con trai lấy vợ, phải giúp gia đình nhà vợ. Vì vậy vương đồng ý, đem ngay trăm y sinh sang Xiêm truyền y đạo. Rồi bây giờ ta đem quân đòi cố thổ, vương đi tiên phong.
Bảo-Hòa ghé vào tai đạo sư nói nhỏ:
– Tại đền thờ Quốc-tổ ở đỉnh Thiên-đài còn …. vì vậy đệ tử phải để Văn đệ lên đó. Vả đạo quân của Văn đệ có thể gặp đạo quân của Kinh-Nam vương Tự-Mai. Hai người này thân với nhau như tay phải với tay trái. Nên nếu binh tướng hai đạo lỡ đụng nhau, cũng dễ hóa giải.
Công chúa tiếp:
– Ưu điểm của ta là đánh thình lình, khiến chúng choáng váng không biết đâu mà phòng, mà chống. Các đạo khác thì đệ tử thiết kế. Còn đạo Phong-châu, Lạng-châu thì do nhị huynh Thiệu-Cực với Tôn Đản, Cẩm-Thi chỉ huy. Tài dùng binh của Tôn Đản e thế gian này chỉ Tự-Mai là bì kịp. Tài cai trị dân thì Kim-Thành, Cẩm-Thi e không thua công chúa Phùng Vĩnh-Hoa thời vua Trưng. Nhị huynh tài trí tuyệt vời, nên đệ tử để ảnh tự thiết kế. Hôm trước họp xong, lúc trở về chính ảnh vượt biên đến Liêm-châu, Khâm-châu nghiên cứu tình hình. Ảnh cho biết tại Khâm-châu Tống có một hạm đội, khoảng vạn rưỡi người. Ban ngày họ chia làm bốn thủy đội đi tuần tiễu, một thủy đội giữ cảng. Ban đêm thì tất cả về bến đậu. Binh sĩ lên bờ hết. Mỗi chiến thuyền chỉ để lại một, hai người canh gác. Thường đêm, chúng ngủ hết. Trong Liêm-châu có đạo binh 331, 332. Thường binh lính ở lẫn với dân. Sáng điểm danh một lần rồi cho về. Đêm có bốn đội, mỗi đội mười người canh bốn cổng thành. Vì vậy anh ấy quyết định đánh úp Khâm-châu, Liêm-châu.
Huệ-Sinh hỏi:
– Tướng trấn thủ Khâm-châu, Liêm-châu là ai?
Bảo-Hòa hỏi Bảo-Dân:
– Xin sư huynh cho biết.
– Trấn Khâm-châu là viên Huyện-lệnh Tiêu Chú. Y xuất thân là nho sinh, đậu tiến sĩ, văn mô, vũ lược, tài trí khó ai bằng. Nhưng hiện y đang lên Tuyền-châu coi việc đóng thuyền, nên tại Khâm-châu chỉ có viên Đề-điểm hình ngục trông coi. Còn tướng trấn thủ Liêm-châu là Tô Giám. Tô Gíam là người đọc sách, xuất thân tiến-sĩ, tuổi y còn trẻ, nhưng tài trí tuyệt vời. Vì y là người Quảng nên triều Tống không trọng dụng, bổ y coi châu Liêm. Kế hoạch thì anh Thiệu-Cực với Tôn Đản định như sau: chia quân làm hai đạo. Đạo đi đường bộ và đạo đi đường biển. Đạo đường bộ do anh Thiệu-Cực chỉ huy. Đạo đường biển do Tôn Đản, Cẩm-Thi chỉ huy.
Huệ-Sinh bằng lòng:
– Cặp Tôn Đản, Cẩm-Thi thực ngàn năm mới có một. Hồi đi sứ, tuổi họ còn trẻ, mà hành sự như những người già. Huống hồ bây giờ tuổi họ đã trung niên. Năm trước, trong cuộc Nam chinh, tiếng rằng Hoàng- thượng thân chinh, chứ thực ra hoàn toàn do Tôn đại hiệp tổng chỉ huy cả.
– Đản đã định rằng: đêm qua y đem tất cả thú rừng của Phong-châu, Lạng-châu xuống chiến thuyền. Thuyền vượt biển suốt đêm, sao cho sớm hôm nay tới cửa biển Khâm-châu. Trong khi đó Kim-Thành, Thuận-Tông chuẩn bị sẵn. Khi thấy Phong-hỏa đài cháy thì đội Tế-tác Tây-vu bên trong thành Khâm, Liêm mở tung cửa thành ra, đạo binh Lưu Tường, Tôn Mạnh ào vào chiếm thành. Còn Tôn Đản, Cẩm-Thi đánh úp chiếm hạm đội đậu trên bến. Đạo Phong-châu vượt biên tiếp ứng. Đạo Lạng-châu thì tiến thẳng về thành Quảng-châu. Anh Thiệu-Cực ước tính, sau khi chiếm thành Khâm-châu, Liêm-châu thì đạo binh Tôn Đản chia quân làm hai. Một cánh tiến về Tây tao ngộ với cánh của Trường-sinh, một cánh tiến về đánh Quảng-châu.
Công chúa phải ngừng lại, vì tín hiệu pháo thăng thiên tại Hoành-sơn, Củng-châu vọt lên trời, rồi toả ra mầu tím. Đám đệ tử Tản-viên reo lớn:
– Thành công rồi. Đã chiếm được Hoành-sơn, Củng-châu.
Từ xa xa, ánh lửa Phong hỏa đài bốc lên ngút trời. Đám đệ tử Tản-viên lại reo:
– Phong hỏa đài Tầm-châu cháy rồi, chắc Bình Nam đại tướng quân và quận chúa Đào Phương-Hồng đang công thành, nên Tống đốt phong hỏa đài cầu cứu.
Trời dần sáng, ánh nắng chứa chan chiếu trên đỉnh núi, chim hót líu lo. Những con chim ưng từ khắp mặt trận liên tiếp đưa thư về. Công chúa Bảo-Hòa, Quốc-sư Huệ-Sinh, đạo sư Nùng-Sơn tử đọc thư, rồi chỉ thị, lại phải thông báo tin của đạo này cho đạo khác cùng gửi tấu chương về triều. Hoàng Tích cùng đội ưng binh làm việc không ngừng.
Vào khoảng giờ Ngọ, có chim ưng đem thư đến. Hoàng Tích cầm tù và thổi. Cặp chim ưng từ từ hạ cánh. Ông lấy thư trong ống dưới chân chim cung kính trình Bảo-Hòa:
– Thưa tiên cô, thư của chị Cẩm-Thi.
Bảo-Hòa mở thư ra đọc:
” Giờ Dần, trong thành Khâm-châu có ba tiếng pháo nổ, bốn cửa thành mở rộng. Lưu Tường chiếm thành trong vòng nửa giờ. Tất cả binh, tướng, các quan văn võ đều đầu hàng. Tại Liêm-châu, Tôn Mạnh, Thanh-Nguyên chiếm thành dễ dàng. Tô Giàm trốn mất trong loạn quân. Đản với muội chiếm các chiến hạm không người thực dễ dàng. Trao việc cai trị cho các quan gốc người Quảng hay Việt. Quan, quân nhất nhất mỗi người đều được thăng một trật. Dân chúng được xá thuế trong nửa năm, ai thiếu thuế năm trước đều được tha hết. Thả hết tù. Yết bảng cho sĩ dân, ai đã đậu đạt, mà Tống triều không dùng, thì đến trình diện, sẽ được cử vào những chức vụ tùy khả năng. Bẩy nghìn dân binh cùng năm nghìn chính binh đầu hàng. Trộn lẫn dân binh, chính binh với binh Lạng-châu, thành đạo binh lớn”.
Đến chiều lại có thư của Thiệu-Cực:
“…Anh hai với Kim-Thành, Thuận-Tông xuất quân đúng giờ Dần, đánh chiếm các đồn phía phải đạo Trường-sinh dễ dàng. Giờ Mùi thì tới Khâm-châu bắt tay với đạo của Tôn Đản. Bỏ kế hoạch tách làm đôi. Không tiến về Tây bắt tay với đạo Trường-sinh. Để Lưu Tường trấn Khâm-châu, Tôn Mạnh, Thanh-Nguyên trấn Liêm-châu. Kim-Thành tiến về Khai-bình, Giang-môn rồi đánh Phật-sơn. Ta với Tôn Đản, Cẩm-Thi dùng chiến thuyền của ta với chiến thuyền thu được của Tống, vượt biển đánh úp Quảng-châu chứ không đi đường bộ như dự liệu”.
Bảo-Hòa đưa mắt nhìn Nùng-Sơn tử:
– Sư thúc. Từ trước đến giờ anh Thiệu-Cực với cháu thường xung đột nhau về việc dùng quân. Cháu thì cho rằng quân mình là quân mình. Không nên trộn lẫn với quân người. Nhưng anh Thiệu-Cực lại cho rằng quân Lưỡng-Quảng không tự coi là binh Tống, cũng chẳng tự coi là binh Việt, khi bắt được binh Quảng, cứ trộn lẫn hai người họ với một người mình, có thể tạo thành đội binh lớn. Bây giờ thêm Tôn Đản, Cẩm-Thi cũng đồng ý với anh hai. Cháu sợ đạo binh đó khó trung thành…
Nùng-Sơn tử đáp:
– Công chúa hơi lo xa. Tôn Đản, Cẩm-Thi hiểu rất sâu về tâm tình người Quảng. Hơn nữa quốc công Thiệu-Cực cầm quân lâu, người hiểu rõ tình hình hơn ta. Nếu như đội quân hỗn hợp dùng để trấn Đại-Việt thì không nên. Còn như dùng trấn hay đánh Lưỡng-Quảng thì lại cần thiết. Vì khi quân, tướng người Quảng trấn đất Quảng họ hiểu dân tình hơn, lại nữa dân có cảm tưởng là người Quảng cai trị người Quảng chứ không phải người Việt cai trị họ.
– Đa tạ sư thúc minh thị.
Mãi đến tối mới có thư của đạo Hoa-sen. Bức thư hơi dài, Bảo-Hòa mở ra đọc:
“… Trên đường đi, dùng cờ Tống, vì vậy đội kị binh tới Liễu-châu thực dễ dàng. Vì không thông thuộc đường lối, nên tới nơi vào giờ Mão, thành đã mở cửa. Quân giữ thành thấy kị binh, chưa kịp phản ứng, thì thành đã bị chiếm. Tuyệt không thấy tế tác của sư huynh Phụ-Quốc hành động. Có cuộc giao tranh nhỏ giữa đội vệ sĩ của Cao Nhất với kị binh. Cao Nhất bị giết chết. Đã yết bảng an dân. Trao thành cho Trường-Ninh, Thiện-Lãm rồi tiến lên Quế-châu…”
Đính kèm có bản kê khai các thành mà hai đạo Hoa-sen, Thượng-oai chiếm được, cùng quân số Tống đầu hàng, danh sách các quan lại bị bắt. Một bản của công chúa Trường-Ninh kê khai chức vụ các quan Tống được giữ nguyên cùng danh tính những nhân tài mới ra trình diện, được bổ nhiệm.
Quốc-sư Huệ-Sinh khen:
– Lê Văn từng cai trị, trấn nhậm, đánh dẹp, nên bản báo cáo thực chi tiết. Còn các đạo kia họ chỉ báo binh tình thôi.
Bảo-Hòa truyền cho Hoàng Tích:
– Viết thư gửi cho Phụ-Quốc hỏi tin tức xem sao? Có biến cố gì không?
Hoàng Tích vội sai viết thư.
Đến đêm thì có một kị mã tới trình diện tổng hành dinh, xin yết kiến Trưởng đại-công-chúa. Quân canh dẫn vào. Bảo-Hòa nhìn ra thì là Vi Chấn. Vi Chân nói ngay:
– Thưa chị em về báo tin mừng của đạo Trường-sinh.
Rồi y thuật.
Đạo của Thuần-Anh, người ngậm tăm, ngựa buộc hàm. Đội kị mã đi trước, kế tiếp là đội thú. Thú đặt trong những cũi để trên xe. Từ chỗ xuất phát đến Hoành-sơn phải qua một khu rừng thưa. Khi qua hết khu rừng thưa thì đã thấy thành trước mặt. Thuần-Anh cho quân ẩn vào phía xa xa cách thành một quãng, vừa đủ để tránh con mắt binh canh.
Vừa nhìn thấy ánh lửa Phong hỏa đài, bà hô lên một tiếng, thú binh mở cũi, cầm tù và rúc lên. Đoàn thú gầm gừ đến chân thành. Khi còn cách thành hơn dậm, thì trong thành có tiếng reo hò, rồi lửa cháy đỏ rực. Bốn cánh cổng thành mở rộng. Thuần-Anh phi ngựa vào thành đầu tiên. Một đội võ sĩ hơn mười người hô lớn:
– Phu nhân đánh vào trung ương đi. Chỗ kia là dinh trấn thủ.
Thuần-Anh lao ngựa đi trước. Đoàn thú ào vào, tiếp theo đoàn kị mã, rồi tới bộ binh. Quân Trường-sinh đã đóng giữ bốn cửa thành. Quân canh đang ngủ, thình lình bị bắt trói. Họ ngơ ngơ ngác ngác không hiểu những gì đã xẩy ra. Toàn quân trong thành bị bất ngờ, vì đang ngủ lẫn ở nhà dân.
Thuần-Anh cho đội thú vây kín phủ tổng trấn. Dường như bên trong không có quân canh gác. Đội cảm tử phái Tản-viên tiến vào lục soát, bắt được vợ con, gia bộc, nhưng không thấy Đức Quang đâu. Thuần-Anh ra lệnh cho thư lại kiểm kê tài vật, thình lình bà cảm thấy khó thở, như có ai đánh trộm, rồi một kình phong chụp xuống đầu. Kinh hãi bà phát chiêu đỡ. Bộp một tiếng, cánh tay bà tê dại, tai kêu vo vo. Biết gặp cường địch, bà nhảy lui lại, thì người kia di chuyển thân hình theo sát. Kinh hoảng bà tung người lên cao, người kia hướng chưởng lên trời. Đám đệ tử Tản-viên hò hét, nhưng không nhảy vào can thiệp được.
Từ trên cao, Thuần-Anh phóng xuống một chưởng. Hai chưởng gặp nhau, bùng một tiếng, người bà bay bổng lên cao, kình lực mất hết. Người kia lại phóng một chưởng vào bà. Bà kinh hãi hét lên, nhắm mắt chờ chết, thì có tiếng hừ, rồi một người nhảy bổ vào người kia. Người kia đổi chiều chưởng hướng người nhảy bổ vào. Bùng một tiếng, người đó kêu thét lên, thân hình bị vỡ làm năm sáu mảnh. Trong khi đó Thuần-Anh đã đáp xuống an toàn. Bấy giờ bà mới nhìn rõ đối thủ của mình là một đạo sĩ đã già. Còn người tan xương nát thịt thì là một tên gia bộc trong phủ tổng trấn.
Tuy gặp nguy nan, nhưng không hổ là đại đệ tử của chưởng môn phái Mê-linh. Thuần-Anh bình tĩnh, tay rút kiếm cầm tay, rồi bái đạo sĩ:
– Thuần-Anh thuộc Trường-sinh, xin tham kiến đạo sư.
Đạo sĩ như không trả lời Thuần-Anh, mà hướng vào một nho sinh đứng xa xa:
– Vị nhân huynh kia, người là ai? Tại sao người cứ theo làm khó dễ bần đạo hoài như vậy? Ban nãy người túm một gia đồng ném vào bần đạo, cứu Nùng phu nhân bằng chiêu thức Sài-sơn, nhưng nội lực thì không phải.
Nho sinh lạnh lùng:
– Nam-Sơn đạo sư phái Hoa-Sơn quả có con mắt tinh đời. Vì lẽ riêng, tiểu sinh không thể nói tên ra được.
Nghe nho sinh nói, Thuần-Anh kinh hoảng:
– Lão này là một trong Hoa-sơn tứ lão, danh trấn Hoa-Việt cách đây hai mươi năm có khác, hèn gì võ công thực kinh nhân.
Nam-Sơn lão nhân cười nhạt:
– Dù tiên sinh không chịu xưng danh tính, nhưng võ lâm Đại-Việt bần đạo đã biết hết. Có lẽ võ công tiên sinh ngang với Đại-Việt ngũ long, người như vậy đâu có nhiều.
Quân hổ, báo đã vây kính lấy Nam-Sơn lão nhân. Lão hướng nho sinh:
– Tiểu đồ Đức Quang là đệ tử của đại sư huynh bần đạo. Y làm tổng trấn thành này. Đêm qua y bị trúng độc, nên sáng nay bị bắt. Bần đạo lớn mật xin tiên sinh tha cho y được không?
Nho sinh lắc đầu chỉ Thuần-Anh:
– Chỉ Nùng phu nhân mới có quyền, tiểu bối không thể chiều tiên sinh được. Tiểu bối không có chức tước gì mà ra lệnh cho Nùng phu nhân.
Thuần-Anh chợt nhớ ra điều gì, bà nghĩ thầm: thì ra thầy đồ Bắc-ngạn Thăng-long đây. Bà chắp tay hướng nho sinh:
– Đa tạ tiên sinh cứu mạng. Nếu cô phụ này không lầm thì dường như phu quân tôi cùng cháu Trí-Cao đã có duyên được tiên sinh cứu ở Bắc-ngạn, rồi Thăng-long thì phải?
Nho sinh đáp lễ:
– Đúng thế. Phu nhân khỏi đa lễ. Ta đã hứa với Trí-Cao rằng lúc nào cũng ở bên cạnh y cùng đạo Trường-sinh để giúp đỡ. Đêm qua Nam-Sơn lão nhân Nam du ghé Hoành-châu thăm Đức Quang. Ta đoán ra, thế nào phu nhân cũng gặp hung hiểm, nên ta ẩn ở đây sẵn, may đâu vừa kịp ra tay cứu phu nhân.
Thuần-Anh cung tay nói với Nam-Sơn lão nhân:
– Kẻ cô quả này xin tuân lệnh đạo sư không giết Đức Quang, mà chỉ xin giữ y lại cho đến khi chiếm xong Lưỡng-Quảng, sẽ thả y về.
Nam-Sơn lão nhân thở dài, nói với nho sinh:
– Bây giờ bần đạo phải tranh thắng với Nùng phu nhân để cứu sư điệt. Không biết tiên sinh có còn làm khó dễ bần đạo không?
Nho sinh cười:
– Xin đạo sư tùy tiện.
Nam-Sơn đạo sư nói với Thuần-Anh:
– Bần đạo biết rằng xử dụng võ công với phu nhân là vô phép. Nhưng bất đắc dĩ.
Nói rồi lão rút kiếm ra chiêu Hoa-sơn, giống như hành lễ vậy. Thuần-Anh nghĩ thầm:
– Trước đây nghe vua bà Bình-Dương khó nhọc lắm mới thắng nổi Đông-Sơn lão nhân với mụ Tăng Tuyết-Minh. Không biết mình có chịu nổi lão này không?
Bà cũng rút kiếm ra chiêu Hoa-khai kiến Phật của Long-biên kiếm pháp giống như hành lễ, rồi chuyển lên hướng vào cổ lão. Lão nhảy lui lại ba bước rồi phóng một chiêu như ánh chớp vào cổ bà. Thuần-Anh đảo kiếm đưa vào ngực lão. Lão lộn người đi hai vòng, rồi mới trả đòn.
Kiếm pháp Hoa-sơn vốn lấy mau thắng chậm, kiếm pháp Long-biên cũng cùng một nguyên tắc, nên chi người đứng ngoài không còn phân biệt được Thuần-Anh với Nam-Sơn nữa. Khi xử dụng cả hai loại kiếm pháp, đều tổn hao rất nhiều công lực. Cho nên được trên trăm hiệp, thì Thuần-Anh bắt đầu kém thế, vì công lực thấp hơn. Bà cứ phải lùi dần.
Cặp cọp mun là linh vật của rừng núi Trường-sinh, chúng thấy chủ mẫu gặp nguy khốn thì gầm lên rồi song song nhảy vào vồ Nam-Sơn lão nhân. Lão nhân kinh hãi vội nhảy lui lại tránh thế vồ, thì một con nằm rạp xuống nhảy vào chụp chân lão. Một con nhảy lên vồ vào ngực lão. Lão tung mình lên cao tránh, thì kiếm của Thuần-Anh lại đưa vào hạ bàn. Không hổ là Hoa-sơn tứ lão. Nam-Sơn lão nhân phóng một chưởng xuống đầu hai con hùm, còn tay kia vung kiếm đỡ chiêu của Thuần-Anh.
Nhưng cặp cọp mun được huấn luyện rất chu đáo về võ công Mê-linh, khắc chế võ công Hoa-sơn, vì vậy chúng né tránh dễ dàng, rồi nhảy vọt lên vồ lão. Lão kinh hoàng, mượn đà đỡ kiếm của Thuần-Anh vọt ra xa. Lão vừa đáp xuống thì đôi cọp lại chuyển mình đuổi theo. Lão vội tung mình ra sân, nhưng lão bị đàn beo vây kín như thành đồng vách sắt.
Lão đeo kiếm vào lưng rồi xuất chưởng. Chưởng của lão đẩy bay tung bốn con beo một lúc, vòng vây có chỗ hở, lão lách mình chạy ra ngoài thành.
Thuần-Anh hú vía, bà cho đàn sói đi lùa hết đám tàn binh trong thành, phân loại rồi kiểm kê tài vật. Mọi việc xong xuôi, thì có thân binh báo:
– Vua Bà giá lâm.
Thuần-Anh cùng các tướng vội dàn quân, rồi ra ngoài thành đón vua bà Bình-Dương. Vua Bà vẫy tay miễn lễ rồi hỏi:
– Sao, sư bá đấu với Nam-Sơn lão nhân được mấy hiệp?
Thuần-Anh hỏi ngược lại:
– Thần chỉ chống với lão được hai trăm hiệp. Nếu không nhờ đôi cọp mun thì mất mạng rồi. Sao vua Bà biết?
Bình-Dương mỉm cười:
– Đêm tiểu bối với phò mã Thiệu-Thái đánh úp Ninh-châu (Quý-châu), bắt sống Vĩnh Cơ, rồi tiếp viện cho đại sư bá. Giữa đường gặp Nam-Sơn lão nhân, thì biết lão định cứu Đức Quang mà không thành.
Thuần-Anh kinh hãi nghĩ thầm:
– Rõ ràng trong kế hoạch thì mình đánh Hoành-châu, sau đó đánh Ninh-châu, mà nay lại chính vua Bà đánh. Từ trước mình cứ cho rằng điều binh giỏi nhất là tiên cô, mưu kế là Thiệu-Cực, võ công là Thiệu-Thái, đạo đức là Bình-Dương. Không ngờ bây giờ vua bà Bình-Dương cũng điều binh nữa.
Vua Bà như đoán được ý nghĩ của Thuần-Anh:
– Sư bá đừng ngạc nhiên. Khi công chúa Bảo-Hòa với tiểu bối thiết kế đã ước định như vậy. Tính công chúa Bảo-Hòa cực kỳ cẩn thận, có đâu để Thuần-Khanh đánh Củng-châu, trong khi phía sau lưng bị Ninh-châu đe đọa?
Phò-mã Thiệu-Thái truyền lệnh:
– Nùng phu nhân thế mà giỏi. Phu nhân khẩn đem quan tiếp ứng cho Thuần-Khanh, việc tổ chức cai trị Hoành-châu, Ninh-châu chúng tôi xin lo liệu. Dường như tế tác của ta trong thành Củng-châu bị tê liệt thì phải.
Đến đó có chim ưng đem thư lại. Phò mã mở ra coi thì ra tin của tế tác tại Biện-kinh.
“… Tin đại quân Bắc tiến đã về đến triều. Triều đình cho rằng đây là cuộc đụng chạm giữa các biên thần phía Nam. Tin Khâm-châu, Liêm-châu, Hoành-châu, Liễu-châu thất thủ làm cho nhà vua cực kỳ bối rồi. Triều đình khẩn triệu Tam-anh, Ngũ-hổ sai xuống trấn Kinh-châu. Một mặt mời Kinh-Nam vương về triều để giải quyết vụ xung đột Nam thùy”.
Vừa lúc đó tế tác báo:
– Đạo quân đánh Củng-châu trúng phục binh, hiện đang bị vây trên ngọn đồi Nam-sơn.
Thiệu-Thái kinh hãi nói:
– Nùng phu nhân mau đem quân tiếp cứu Thuần-Khanh. Chúng tôi sẽ điều quân tới sau.
Thuần-Anh vội đem đội thú binh cùng kị mã đi trước, để bộ binh lại cho phó tướng.
Đường Ninh-châu đi Củng-châu không xa. Chỉ sau hai giờ sức ngựa thì đạo binh Thuần-Anh đã thấy xa xa khói bốc lên từ một ngọn đồi. Trên đồi, quân Trường-sinh núp vào các tảng đá, cùng với thú rừng dàn thành phòng tuyến. Dưới đồi, quân kị, quân bộ reo hò, nhưng không tiến lên được. Thuần-Anh than:
– Con bé Thuần-Khanh thực giỏi, với chỉ ba nghìn quân, mà chống với ba nghìn bộ, hai nghìn kị của Tống được gần một ngày rồi mà phòng tuyến vẫn chưa loạn.
Bà cầm kiếm hô lên một tiếng, đạo quân của bà chia làm hai, đánh vào hai hông đồi. Quân thú đi trước, quân kị, bộ theo sau. Quân Tống thấy bên địch có viện binh, lập tức lùi lại bầy thành trận thế.
Thuần-Khanh đứng trên cao, cầm cờ đỏ phất, đội binh thú, với đám xe bắn đá đổ đồi, sức mạnh như thác cuốn. Quân Tống bị ba cánh quân đánh một lúc, lập tức đổi tiền đội ra hậu đội, rồi rút lui.
Thuần-Anh cầm cờ chỉ một cái, quân Trường-sinh đẩy xe bắn đá đi trước, có đội cọp hộ tống, đuổi theo. Đuổi được một quãng, thì Thuần-Khanh nói:
– Mẹ mau cho quân ngừng lại, vì e có phục binh.
Miệng nói, tay nàng chỉ lên trời: Xa xa, trong thành Củng-châu, mấy cặp chim ưng từ trên cao đâm bổ xuống, rồi lại bay lên. Tín hiệu đó, có nghĩa rằng trong thành có nhiều quân.
Thuần-Anh hỏi:
– Tình hình ra sao?
– Tế tác của mình bị lộ, cho nên đêm trước, Toàn Huy cho bắt hết, rồi y tương kế tu kế: cho phục quân trong thành. Lúc con đem quân tới, thấy trong thành có lửa cháy, có tiếng reo, rồi cửa thành mở rộng. Con cho quân đánh vào, thì bị trúng phục binh. Con vội vàng dùng thú cản đường, rồi rút về đồi Nam-sơn cố thủ. Toàn-Huy đem quân đuổi theo. Quân của y đông gấp đôi quân mình, nên con cố thủ rồi sai chim ưng báo về cho tiên-cô với sư phụ. Toàn Huy tuy là quan văn, nhưng y quả có tài dùng binh. Y đánh lên núi mấy lần, nhiều lúc con tưởng đã nguy rồi.
Hai mẹ con kiểm điểm lại binh mã, rồi tiến về phía thành Củng. Vừa đi được một quãng, thì gặp đội quân Tống hàng ngũ rối loạn đang chạy ngược lại. Thuần-Khanh phất cờ cho quân dàn ra chuẩn bị nghinh chiến. Không ngờ đám quân Tống kinh hoảng bỏ chạy vào rừng. Thuần-Khanh cho quân đuổi theo, bao vây bắt đám tàn binh.
Thuần-Anh bảo con:
– Như vậy quân Toàn Huy vỡ rồi. Vậy con tiếp tục bắt tàn binh, để mẹ đánh Củng-châu.
Bà đem đội kị binh phi khẩn cấp đến thành Củng. Tới nơi, cửa thành Củng đóng kín, trên cách địch lâu, không một bóng người. Thuần-Anh định ra lệnh cho xe bắn đá đánh thành, thì một chiếc pháo thăng thiên vút lên bầu trời rồi nổ đánh đoàng một cái. Lập tức trên thành gươm giáo sáng ngời, quân đồng xuất hiện. Một tướng cung tay hướng xuống thành:
– Nùng bá-mẫu, sao tới trễ quá vậy. Cháu tuân lệnh tiên cô chiếm thành này lâu rồi.
Thuần-Anh nhìn lại thì ra Vi Chấn, cạnh y có lá cờ bay phất phới với hàng chữ Hữu thiên ngưu vệ thượng tướng quân, Na-dương hầu .
Cổng thành Củng-châu mở rộng, Thuần-Anh cho quân tiến vào. Vi Chấn cung kính ra đón bà trước cửa dinh tổng trấn. Vào trong dinh, bà kinh ngạc vô cùng, khi thấy Toàn Huy đang ngồi làm việc cùng một số thư lại để ban bố lệnh miễn thuế cho dân. Toàn Huy đứng dậy thi lễ với Thuần-Anh:
– Tiểu sinh xin tham kiến phu nhân.
Thuần-Anh ngớ cả người ra.