Nghe anh nói, mặt tôi nóng như bỏng lửa, cứ như bị ba tát thêm một cái. Tôi thầm nguyện cầu, tốt nhất cả đời này Lịch Xuyên và ba không gặp được nhau.
Lúc xuống xe, tôi đeo thêm chiếc máy ảnh Nikon vào cổ. Lịch Xuyên hay dùng máy này để chụp phong cảnh. Anh thường hay chụp ảnh nhưng chưa bao giờ tự chụp mình. Hôm nay tôi nói dối anh sẽ chụp cổng chào Kim Mã Phường cho anh, nhưng thật ra tôi có âm mưu, chụp một tấm ảnh chung của tôi và Lịch Xuyên.
Chúng tôi đến quán bar Bướu Lạc Đà trước. Ánh đèn trong quán mờ mờ ảo ảo, Lịch Xuyên gọi bia, nhưng không cho tôi uống. Anh nói tôi chưa đủ 20 tuổi, chỉ được uống nước ép trái cây. Tôi gọi nước thơm ép, anh lại nói nước thơm quá ngọt, không tốt cho sức khỏe. Tốt nhất là uống nước cam. Khi chúng tôi ra khỏi quán, trời đã tối. Lúc về đến cổng chào, tôi nhờ một người đi đường chụp cho chúng tôi một bức ảnh.
“Anh ta không biết chụp đâu.” Lịch Xuyên nói nhỏ “Hay là để anh chụp cho, đảm bảo rất đẹp.”
“Anh chụp cho em nhiều rồi, bây giờ em muốn chụp chung.” Tôi nhấn mạnh từ “chụp chung”.
“Em chụp chung với cổng chào thôi được không?” Anh nhíu mày “Anh không thích chụp ảnh.”
“Không được. Em chỉ muốn chụp chung với anh. Chúng ta – anh và em – đứng cạnh nhau.” Tôi nghiêm mặt, nói từng chữ một.
“Được rồi.” Anh bất đắc dĩ gật đầu.
Người đi đường tỏ vẻ khá chuyên nghiệp, kêu chúng tôi xích vào gần nhau hơn, sau đó bấm máy “tách, tách” liên tục 5, 6 tấm.
Tôi nói: “Làm phiền anh, chụp một tấm xa xa, tôi muốn chụp cả cổng chào.”
Anh ta cầm máy ảnh lui đi thụt lùi, rồi đột nhiên, xoay người bỏ chạy.
Tôi biết máy ảnh của Lịch Xuyên là máy ảnh chuyên nghiệp, giá rất mắc. Chắc là hắn nổi lòng tham, lại thấy Lịch Xuyên đi lại khó khăn, mới nhân cơ hội ra tay.
“Đứng lại!” Tôi la lớn, nhanh chóng đuổi theo.
Hắn luồn lách giữa đám đông, sau đó chạy nhanh vào một con hẻm nhỏ. Xem ra hắn ta không quen thuộc khu vực này lắm, lần nào tới ngã tư cũng hơi khựng lại, suy nghĩ có nên quẹo hay không. Tôi một mạch đuổi theo, hết con hẻm nhỏ, tới một ngã tư vắng vẻ. Bóng của hắn vẫn luôn cách tôi khoảng trăm bước. Tôi ước chừng mình đã chạy qua hai khu phố, hắn có quay đầu lại mấy lần, tưởng rằng đã cắt được tôi, nhưng tôi vẫn đuổi sát hắn như hình với bóng. Hơn nữa, khoảng cách giữa tôi và hắn ngày càng gần. Hắn ta lại quẹo vào một con hẻm nhỏ khác. Trong hẻm có khá nhiều hẻm khác thông ra đường lớn, nhưng hẻm càng ngày càng hẹp lại, đột nhiên, một ngã rẽ xuất hiện trước mắt. Hắn hơi do dự, có lẽ đang suy nghĩ có nên quẹo hay không. Trong lúc hắn chững lại, tôi đã đuổi kịp tới. Hắn đứng lại, cầm máy chụp ảnh trong tay, nói: “Mày dám qua đây, ở đây chỉ có một mình mày. Có tin tao bẻ gãy cổ mày không?”
Tôi nói: “Ai nói chỉ có mình tôi, sau lưng anh còn có hai anh công an kìa.”
Sau lưng hắn có người đi đường, là hai người thanh niên, tiếng chân bước hơi vang vọng, tôi la lớn: “Bắt ăn cướp!” Hai người thanh niên chạy nhanh về phía tôi, một trong hai người chạy nhanh quá, đập bể một chậu hoa. Hắn liền quay đầu lại nhìn.
Ngay lúc đó, tôi nhớ lại một động tác quan trọng của Muay Thai[1] được học trong giờ thể dục, liền tung cước đá vào đũng quần anh ta.
[1] Là một món võ thuật cổ truyền đồng thời là một môn thể thao phổ biến cảu Thái Lan, còn được gọi là quyền anh Thái.
Anh ta hét lên, quỳ trên mặt đất, đau quá nên ngất xỉu. Tôi giật lại máy chụp ảnh, co chân bỏ chạy. Lúc này tôi mới phát hiện, vì chạy một đoạn đường dài, nên cả người đã mướt mồ hôi, thở hồng hộc. Trái tim tôi cũng đập thình thịch.
Chạy được vài bước, vừa đến ngã ba, một chiếc xe hơi đen trờ tới, dừng trước mặt tôi, cửa đồng thời mở ra, giọng của Lịch Xuyên vang lên: “Tiểu Thu, lên xe!”
Tôi chui vào, xe nhanh chóng chạy.
“Có bị thương không? Hả?” Lịch Xuyên kéo tôi tới trước mặt anh, hỏi.
“Không có.”
“Sao em lấy lại được máy vậy?” Anh lấy khăn lau mồ hôi cho tôi, hỏi tiếp.
“Em đá anh ta một cái, anh ta té xỉu rồi.”
“Thiệt không? Sao dễ quá vậy? Đá một cái là té xỉu? Đây là trình độ chuyên nghiệp của ăn cướp ở Côn Minh hả?” Anh nói “Sao dở dữ vậỵ, có cái máy ảnh cũng không lấy được?”
“Ê, anh đang bênh ai vậy hả?”
“Vậy để anh khen em là chiến sĩ bắt cướp nha?”
“Vậy cũng được.”
Chúng tôi lại về Kim Mã Phường, cùng xuống xe ngay chỗ chúng tôi đứng chụp ảnh lúc nãy.
Lịch Xuyên nhìn tôi, hỏi: “Em có mệt không? Chạy xa không? Chắc khoảng 2,000m lận?”
“Chắc khoảng đó.” Tôi vẫn thở dốc.
“Còn chạy tiếp được không?” Anh nói “Mới nãy, ngay tại đây, có người móc bóp của anh.”
“Hả? Cái gì? Anh… làm mất bóp tiền?” Tôi la lớn “Chỗ quỷ quái gì vậy? Sao nhiều trộm cướp dữ vậy? Hình dáng hắn ra sao? Chạy hướng nào rồi? Còn bị mất gì nữa không?”
Tôi nhìn anh, phát hiện anh đang nín cười.
“Lịch Xuyên, em biết anh tiếc tiền mặt. Nhưng trong bóp có thẻ tín dụng và thẻ ngân hàng, coi chừng người ta xài hết bây giờ.”
“Chọc em thôi mà, nhìn em lo lắng kìa.” Anh xém mấy sợi tóc ra sau tai tôi “Sau này, lỡ lại xảy ra chuyện như thế, thà rằng bỏ máy ảnh, chứ đừng bỏ anh lại một mình.”
“Dạ, dạ, em sai rồi. Thiên kim chi tử, tọa bất thùy đường[2]. Em phải ưu tiên bảo vệ anh.”
[2] Trích Sử Ký Mã Thiên, dịch nghĩa “Tấm thân nghìn vàng không ngồi trong căn nhà sắp đổ”, ý muốn nói phải luôn chọn hoàn cảnh tốt nhất, nhằm đảm bảo an toàn cho bản thân.
“Vậy mới đúng chứ.” Anh nhìn tôi, ánh mắt mênh mông như ánh trăng.
Tôi ôm máy chụp ảnh, đắm chìm trong niềm vui chiến thắng: “Lịch Xuyên, trong máy có hình chụp chung của hai đứa. Em không thể để người khác lấy mất.”
“Nếu như không có thì sao?” Anh hỏi.
“Đó là máy của anh, đâu phải của em, mất thì mất chứ. Dù mắc tiền, nhưng đâu phải anh không mua nổi, đúng không? Hơn nữa, tính mạng của em cũng quý mà, đúng không?” Tôi nói liên tục một hơi.
“Tưởng em không hiểu chuyện, không thù dai, ai ngờ em rất hiểu chuyện, mà còn tính sổ rất rõ ràng.” Anh thở dài “Anh cầu Chúa phù hộ anh, sau này tuyệt đối không đắc tội với em, nếu không cũng sẽ bị em đá.”
Tôi đứa hai tay ôm eo anh: “Ờ, người ta từ trước đến giờ rất hiền. Chỉ dữ một lần, lại bị anh nhìn thấy.”
“Trước giờ rất hiền? Làm gì có? Lần đầu gặp em, em đổ cà phê đầy người anh. Lần thứ hai gặp em, em leo lầu trước mặt anh. Lần thứ ba gặp em, em đánh bảo vệ trường. Anh cảm thấy em là một cô gái bạo lực, vừa bạo lực vừa háo sắc, thật khiến người khác sợ hãi.”
Tuy Lịch Xuyên hay khiêm tốn nói mình không biết tiếng Trung. Thật ra, anh biết rất nhiều từ vựng, đều là từ dùng trong văn nói, anh nói liên tiếp một tràng, tôi nghe xong liền á khẩu.
Để anh không nói tiếp, tôi vội ngắt lời: “Lịch Xuyên, em đói bụng, muốn ăn bún.”
“Em mới ăn bánh xếp xong mà? Sao đói bụng nhanh vậy?”
“Người ta lo dì làm khó anh, nên ăn không vô. Chứ lúc trước em thích ăn bánh xếp lắm.”
“Vậy đi LDW đi.”
“Hương vị Vân Nam.”
“LDW.”
Quán Hương vị Vân Nam có vẻ là doanh nghiệp quốc doanh. Muốn vào ăn phải đến quầy mua phiếu.
Tôi hỏi Lịch Xuyên: “Anh ăn ở đây lần nào chưa?”
“Chưa. Anh có xem quảng cáo. Người ta nói hương vị rất chính tông.”
“Bún Qua Cầu ở tầng 2, cầu thang trơn lắm, hay mình đừng đi nữa.”
“Ở trên ít người, em đi tìm chỗ trước đi.” Anh đi đến quầy xếp hàng. Một hàng dài ước chừng có mười người.
Họ thấy anh chống gậy, liền nói “Không cần xếp hàng đâu, lên trước mua luôn đi.”
Không biết ai còn nói thêm một câu: “Ưu tiên cho người tàn tật.”
Họ tiếng Côn Minh, tôi tin Lịch Xuyên nghe hiểu mang máng. Vẻ mặt anh hờ hững, nhất quyết đứng vào cuối hàng.
Mua vé xong, chúng tôi lên lầu, ngồi xuống bàn ở một bên phòng. Lát sau, nhân viên phục vụ bưng bún lên, còn đem thêm một nồi gà hầm[3] khói nghi ngút. Tôi hỏi Lịch Xuyên: “Chỉ mua một phần bún, anh không muốn ăn hả?”
[3]Một món đặc sản khác của Vân Nam, gà được hầm trong nồi đất, giữa nồi có lỗi thông hơi, nhìn giống như ống khói.
“Anh ăn ở nhà dì no rồi.”
“Hay là anh ăn gỏi nha?”
“Cay lắm.”
Thật ra, suốt dọc đường tôi đi cùng Lịch Xuyên, cả nam cả nữa đầu quay đầu nhìn anh, khiến anh mất tự nhiên. Dù anh đã ngồi xuống bàn, tôi vẫn cảm thấy sau lưng có nhiều ánh mắt đang nhìn anh. Tôi không để ý nước dùng rất nóng, chỉ muốn ăn nhanh cho xong.
“Đừng ăn nhanh quá, coi chừng phỏng. Tối nay mình cũng không làm gì mà.” Anh khuyên.
Bún Qua Cầu ngon ở chỗ, một là nước dùng phải ngon, hai là thức ăn phải tươi, ba là sợi bún phải dai dai mềm mềm. Quả nhiên là canh gà loại một, tôi uống một hơi hết nửa chén.
Sau đó tôi nói: “Không được rồi, em uống hết nổi rồi.”
“Vậy cứ để đó đi. Đâu có ai ép em đâu.”
“Không nên lãng phí quá, em đi toilet cái đã, về rồi uống tiếp.” Nói xong, tôi đứng lên tìm toilet. Anh kéo tôi lại “Đừng đi, để anh uống hết giùm em.”
Anh kéo tô canh to đùng tới trước mặt mình, uống từ từ từng muỗng một, cho đến lúc hết sạch không còn một giọt.
Tôi nhìn anh, cười: “Biết vậy chừa mấy sợi bún cho anh, bây giờ hết canh rồi.”
“Tiểu Thu, em đi Hạ Môn[4] bao giờ chưa? “Anh đột nhiên nói.
[4] Thủ phủ của tỉnh Phúc Kiến, ở phía Đông Nam Trung Quốc, đồng thời cũng là một đặc khu kinh tế.
“Chưa.”
“Qua Tết anh phải đi Hạ Môn, bên chủ đầu tư có một cuộc họp quan trọng, không đi không được. Đi với anh, được không?”
“Phải ở Hạ Môn bao lâu?”
“Hai ngày. Sau đó, em về Bắc Kinh, anh đi Thẩm Dương. Thẩm Dương lạnh lắm, em đừng đi.”
“Sao dẫn em theo làm gì, em đâu phải thư ký của anh.”
“Thư ký của anh được người ta gọi là tuyệt đại giai nhân, em có muốn làm quen không?” Anh cười một cách thần bí.
“Thư ký của anh là nam mà.” Tôi nhớ lại, người thư ký báo tôi biết tin anh nằm bệnh viện là đàn ông.
“Đó là trợ lý. Anh có thư ký nữ, kiêm phiên dịch luôn.”
“Anh? Anh cần phiên dịch làm gì?”
“Lúc đàm phán anh chỉ nói tiếng Anh, thư ký dịch sang tiếng Trung. Một chữ ngàn vàng, không thể nói sai được.”
Một tuần sau, tôi và Lịch Xuyên bay đi Hạ Môn. Trong một tuần này, anh bị cảm sốt hết ba ngày, ngày nào cũng nằm trong khách sạn. Sau khi hết bệnh, anh lại liều mạng làm việc, hoàn thành ba bản vẽ thiết kế.
Lịch Xuyên dẫn tôi ra công trường. Một khu đất rộng sát bờ biển.
“Ở đây sẽ xây một khu resort rất lớn, non xanh nước biếc. Đầu tư mấy trăm triệu tệ rồi. Văn phòng anh nhận thiết kế toàn bộ công trình. Ngoại thất, nội thất, vườn cảnh.”
“Ừ, nhìn địa điểm cũng tốt lắm, thoáng đãng mát mẻ.”
“Ba năm sau em đến đây sẽ nhìn thấy toàn bộ đều là cao ốc và biệt thự do anh thiết kế.”
“Lịch Xuyên, em hâm mộ anh lắm!”
“Anh cũng vậy.” Anh nói.
Tôi ngạc nhiên nhìn anh.
“Em cho anh rất nhiều linh cảm. Thiết kế cũng giống như yêu đương, cần phải có kích thích.”
Gió biển rất lạnh, anh ôm eo tôi, chúng tôi nhìn mặt biển, ôm nhau thật chặt.
Từ công trường trở về khách sạn, tôi thấy một cô gái cao cao gầy gầy ngồi một mình trên sô pha ở đại sảnh. Áo len cashmere, váy lông cừu màu xanh đậm, đôi tai nhỏ xinh, đeo đôi bông tai ngọc trai nhỏ xinh. Nửa gương mặt đẹp không thể tả.
Cô gái nhìn thấy chúng tôi, đứng dậy chào: “Anh Vương.”
Mặt cô mang nét đẹp tinh tế, vẻ đẹp cổ điển, sang trọng, không thể tả bằng lời. Nhìn cô, sẽ làm người ta nhớ đến những câu thơ trong Kinh Thi[5] hay Tống Từ[6].
[5] Là một tập thơ ca cổ của Trung Quốc, có từ trước Công Nguyên.
[6] Là một thể loại thơ phát triển mạnh vào đời Tống, Cả Kính Thi và Tống Từ đều có những bài thơ miêu tả vẻ đẹp của người phụ nữ Trung Hoa.
“Để tôi giới thiệu.” Lịch Xuyên nói “Đây là thư ký kiêm phiên dịch của anh, Chu Bích Tuyên. Đây là Tạ Tiểu Thu.”
Chúng tôi bắt tay nhau, mỉm cười.
Trong mắt Chu Bích Tuyên ánh lên vài tia nghi ngờ. Lúc Lịch Xuyên nói chuyện, anh vẫn nắm tay tôi.
“Có chuyện gì sao?” Lịch Xuyên hỏi.
“Có vài giấy tờ cần anh kí tên. Còn nữa, đây là bản dịch của cuối cùng của thư đăng ký dự thầu, cần anh duyệt.”
“Tiếng Anh thì cô xem là được rồi. Tiếng Pháp và tiếng Đức để lại cho tôi.”
Anh nhận bút, ngồi xuống, xem nhanh giấy tờ rồi ký tên.
Tôi và Chu Bích Tuyên ngồi nhìn nhau cười, vô cùng lịch sự.
“Cô Chu tốt nghiệp khoa Ngữ Văn Anh hả?” Tôi hỏi.
“Khoa tiếng Anh Đại học Bắc Kinh. Cô Tạ thì sao? Cũng học Ngữ Văn Anh à?”
“Đúng vậy. Tôi học Đại học Sư Phạm S, năm nhất.”
“Giáo sư Phùng Giới Lương khoa cô là chuyên gia về Lawrence[7], lúc tôi viết luận văn, có đọc sách của ông ấy.”
[7] D.H Lawrence (1885 – 1930) là nhà thơ, nhà tiểu thuyết, nhà phê bình nổi tiếng của Anh. Được đánh giá là một trong những nhân vật vĩ đại nhất trong nền văn học Anh thế kỷ 20.
“Ừ, thầy rất nổi tiếng. Tôi tính năm sau chọn môn của thầy.”
“Cô Tạ thích Hạ Môn không?”
“Rất thích. Cô Chu tới Hạ Môn lần đầu à?”
“Không phải, vì công trình này tôi phải theo các kiến trúc sư trong công ty đến nhiều lần rồi.”
Tôi cảm thấy lúc Chu Bích Tuyên nói chuyện có phong cách chuyên nghiệp hơn hẳn người thường. Chỉ trò chuyện mấy câu, nhưng cô rất cẩn thận, không nói quá nhiều vì sợ nói sai. Mà tôi, vừa nói vừa chà chà chân lên thảm, giống học sinh tiểu học đang bị cô giáo phạt đứng.
Lịch Xuyên ký xong, đứng dậy nói: “Tiệc tối của tập đoàn Tấn Đạt, anh Hà sẽ tham dự thay tôi.”
“Chuyện đó… Tổng giám đốc Kha bên đó nhắc nhiều lần, anh Vương nhất định phải tới, ông ta muốn uống ba trăm ly với anh, không say không về.”
“Vì câu này tôi mới kêu anh Hà đi, anh ta uống được nhiều.” Anh suy nghĩ một chút, lại thở dài: “Thôi, lần trước họ mời cơm tôi không đi, họ không để ý. Lần này nếu không đi nữa, họ sẽ nghi ngờ thành ý của tôi. Chắc tôi phải đi thôi. Mấy giờ?”
“Bảy giờ.”
9 giờ tối, Lịch Xuyên say khướt trở về, vào phòng liền đi thẳng vào toilet, đến cạnh bồn cầu để ói.
Tôi đỡ anh, nói: “Sao anh giữ lời hứa dữ vậy, còn uống ba trăm ly với người ta thật à?”
Anh ói hết cả 10 phút, sau đó mới đứng dậy đi tắm. Một chân, chống gậy cũng đứng không vững.
“Ngồi xuống đi, em tắm cho anh.” Lòng tôi đau như cắt.
“No.” Không biết anh lấy sức đâu ra, anh đẩy tôi ra ngoài. Một riếng “rầm” vang lên, cửa đóng lại.
Lát sau, tiếng nước vọng ra. Trong vài phút anh đã tắm xong, người cũng tỉnh táo hơn, mặc áo ngủ chui vào chăn, liên tục thở dài: “Haiz, làm ăn với người ở đây không dễ chút nào. Vì một cái hợp đồng, phải hút thuốc, uống rượu, ăn cơm, chỉ thiếu mỗi hiến thân thôi. Khu phòng riêng của nhà hàng cao cấp rõ ràng có viết cấm hút thuốc, nhưng mà ai cũng hút thuốc. Sao như vậy được chứ.”
“Kiếm được tiền còn giận cái gì, nghĩ tới trẻ em vùng sâu vùng xa đi.”
“Năm nào anh cũng quyên góp cho Công trình Hy Vọng[8] mà.”
[8] Là Quỹ hỗ trợ học sinh vùng sây xùng xa do Trung Ương Đoàn và Hội Liên Hiệp Thanh Niên Trung Quốc phát động từ năm 1989.
Anh kéo tôi vào chăn: “Hễ anh uống một ly, là anh lại nhủ thầm, mau mau kết thúc đi, để anh được về với Tiểu Thu của anh sớm một chút.”
“Thật không? Sến dữ vậy luôn hả?”
“Anh không nỡ để em cô đơn một mình trong khách sạn.”
“Em đâu có cô đơn một mình.” Tôi nói “Ăn tối xong, em xuống đi bơi, rồi đi chơi điện tử, sau đó còn đi xem phim nữa. Phim Tết do Cát Ưu[9] đóng, hay lắm. Vừa mới về phòng là anh về đó.”
[9] Một nam diễn viên nổi tiếng của Trung Quốc.
Anh ôm eo tôi, nghiêng người qua, tôi nhẹ nhàng vuốt ve anh. Sau đó, anh lấy điều khiển mở TV.
“Bộ phim Nắm tay[10]hôm bữa tới tập bao nhiêu rồi?”
[10]Một bộ phim truyền hình dài 20 tập gây tiếng vang lớn vào năm 1998, do Ngô Quốc Lập, Tưởng Văn Lệ, Du Phi Hồng đóng vai chính, chủ đề là ý nghĩa của hôn nhân và vấn nạn ngoại tình.
Lịch Xuyên rất khác với những người đàn ông tôi biết. Anh không thích xem đá banh, cũng không thích xem kênh thể thao. Anh thích xem phim truyền hình, phim tình cảm hay phim võ trang đều được, nhất là loại phim khóc lóc sướt mướt, càng dài càng tốt, không chê phim nào. Lí do của anh là, phim truyền hình giúp anh học tiếng Trung, đặc biệt là đối thoại hằng ngày. Còn kênh thể thao thì không cần xem, bản thân nhớ thường xuyên tập thể dục là được.
Bấm tới bấm lui, đổi mấy chục kênh, cũng không tìm được bộ phim đó. Cuối cùng anh mở một bộ phim truyền hình Nhật không đầu không đuôi. Nhạc đệm trong phim là nhạc Nhật, anh nghe xong, nói: “Đổi kênh khác, bi kịch, không xem.”
Tôi nói: “Anh nói anh không biết tiếng Nhật mà?”
“Dù anh không biết gì, thì cũng biết nhiều hơn em.”
“Ngoại ngữ thứ hai của em là tiếng Nhật.” Tôi nói tiếng Nhật với anh.
Sau đó, anh nói một câu tiếng Nhật, tôi trừng mắt nhìn anh, không ngờ tôi nghe không hiểu. Tôi nghĩ, chắc là: “Ajinomotosuzuki” gì đó thôi.
“Thơ Haiku của Basho[11].” Anh hỏi “Em tâm phục khẩu phục chưa?”
[11] Matsuo Basho (1644 – 1694) một thiền sư thi sĩ nổi tiếng của Nhật, là người đặt nền móng phát triển cho thể thơ Haiku gồm ba câu với 17 âm tiết.
“Sự khiêm tốn của anh có giới hạn không?”
“Không có. Nếu anh là em, với trình độ đó, anh sẽ không dám nói người khác biết mình có học ngoại ngữ thứ hai.”
Tôi nhảy dựng lên, làm tư thế sắp bóp cổ anh.
Anh giơ tay đầu hàng: “Sau này nếu có bài tập tiếng Nhật không biết làm, anh làm giúp em, không tính tiền công. Thật đó. Em tha cho anh đi.”
Hôm sau, chúng tôi tạm biệt nhau ở sân bay. Tôi về Bắc Kinh, Lịch Xuyên đi Thẩm Dương. Khi anh từ Thẩm Dương về, kỳ nghỉ tết đã kết thúc. Tôi vẫn đi làm thêm ở quán. Ba vẫn gửi tiền cho tôi, mỗi tháng 100 tệ, gấp đôi trước đây. Ông không viết thư cho tôi. Tôi viết thư cho ông, ông cũng không trả lời. Tôi cảm thấy, ba rất hiểu tôi, ông biết tôi đang làm gì. Hơn nữa, ông biết tôi giống ông, cho dù đi trên con đường nào, đều sẽ càng đi càng xa, không bao giờ quay đầu lại nữa. Cho nên, ông căn bản không muốn khuyên tôi.
Sau khi Lịch Xuyên trở về, anh ở lại Hoa viên Long Trạch mười ngày. Trong mười ngày đó, ngày nào chúng tôi cũng ở bên nhau, như keo với sơn, giống một cặp vợ chồng son chìm trong cuộc sống ngọt ngào. Tấm ảnh chung của chúng tôi được treo lên tường. Tuy tên cướp giựt máy ảnh, nhưng quả thật hắn chụp hình cũng khá đẹp. Bức ảnh tôi thích nhất trong số đó, đèn đường xa mờ, Lịch Xuyên quay đầu, vén sợi tóc mai lớt phớt bên mặt tôi. Khoảnh khắc đó, anh nhìn tôi, tình cảm yêu thương đong đầy đáy mắt.
@STENT:http://luv-ebook.com/
Sau đó, anh về Zurich, quê hương Thụy Sĩ của anh, thăm bà nội đang nằm trên giường bệnh.
Anh đi một tuần, cách ngày gọi điện cho tôi một lần. Sau đó, anh nói, trong nhà có việc, phải ở lại thêm vài ngày. Qua một tháng, anh nói, anh phải đi trượt tuyết với anh trai. Chỗ trượt tuyết không gọi điện thoại được.
Anh ở Thụy Sĩ suốt hai tháng trời.
Thứ 2, tôi tới sân bay đón anh, phát hiện anh gầy rộc đi. Góc cạnh trên mặt càng rõ ràng hơn.
“Hi!” Anh thấy tôi giữa đám đông, chúng tôi ôm chặt nhau.
“Sao ốm quá vậy?”
“Đâu có đâu. Em hơi mập hơn trước.”
“Em ăn uống đầy đủ mà.” Trước khi đi, Lịch Xuyên một mực đòi cho tôi tiền. Tôi không lấy. Tôi vẫn làm thêm ở quán cà phê. Học kỳ này tôi không chọn nhiều môn lắm, có thể làm thêm mấy tiếng, cho nên tiền lương khá cao.
“Tai lành chưa?”
Anh bước qua lề đường, kiểm tra lỗ tai mới bấm của tôi. Tôi thấy Chu Bích Tuyên đeo bông tai ngọc trai, thích vô cùng, lúc ở Hoa viên Long Trạch rảnh rỗi, Lịch Xuyên liền dẫn tôi xuống cửa hàng trang sức dưới lầu bấm lỗ tai. Anh nói da tôi trắng, đeo ngọc trai không đẹp, đeo ruby mới đẹp. Trước khi Lịch Xuyên đi, mỗi ngày anh dùng cồn rửa tai cho tôi ba lần, vì sợ nhiễm trùng. Kết quả là tai tôi vẫn sưng lên.
“Lành rồi.”
“Còn đau không?”
“Hết đau lâu rồi. Em tự tháo ra đeo vô vài lần rồi.”
“Sáu tuần mới được tháo xuống mà?”
“Anh Hai ơi, anh về Zurich hai tháng, sáu tuần qua từ đời nào rồi.” Tôi gõ đầu anh.
Anh cười cười, nụ cười hơi buồn buồn.
“Hôm nay em mời.” Tôi nói “Mình đi ăn sushi đi.Nhà hàng lần trước ăn đó.”
Chúng tôi lên taxi, anh nói “Nếu em mời thì mình đi ăn bún đi. Quán sushi đó mắc lắm.”
Suốt đường đi, anh không nói gì.
Lúc ăn, anh cũng không nói gì.
Ăn xong, anh lái xe đưa tôi về thẳng ký túc xá.
“Xảy ra chuyện gì rồi? Lịch Xuyên?” Trái tim tôi trĩu nặng.
“Nhà anh có chút chuyện, rất phiền toái, là chuyện làm ăn thôi. Ngoài ra, ông nội anh không khỏe lắm, bệnh tình nguy kịch.”
Tôi ít khi nghe Lịch Xuyên nhắc tới người nhà. Nhưng tôi biết ở nhà anh rất được cưng chiều. Mỗi lần nhắc tới người nhà, khuôn mặt anh tràn ngập dịu dàng.
“Không phải bà nội anh bị bệnh sao? Ông nội anh cũng bị bệnh luôn hả?”
“Xin lỗi, anh nói nhầm. Bà nội anh bị bệnh nguy kịch.” Anh nói “Có lẽ sắp tới anh còn phải về Thụy Sĩ. Anh đang đợi điện thoại.”
Anh nhìn tôi, mặt đầy tâm sự.
“Như vậy,” tôi nắm tay anh, nói “Anh cố ý về thăm em?”
Dưới bóng cây bên ngoài ký túc xá, anh nâng mặt tôi lên, nhẹ nhàng hôn: “Đúng vậy.”