Hoàng Quyền

Chương 4 - Ngày Nào Nâng Chén Trên Cầu Đơn Côi

trước
tiếp

Tia nắng ấm áp ngày đông từ từ lặn xuống, gió cuốn theo hơi lạnh buổi đêm thổi tới từng cơn.

Sắc trời sập tối, trên đường chỉ còn lác đác vài người qua lại, người phu canh gõ mõ lách cách, nghe mà thê lương.

“Kẹt”, tiểu nhị trong quán rượu nhỏ trên phố Thiên Thủy buông tấm khung trúc đỡ cửa sổ, cười nói với người ngồi trong một góc âm u hơn cả tiểu điếm vốn dĩ đã âm u: “Quý khách… quán tôi đóng cửa rồi…”

Trong góc quán, một người co ro ngồi dựa vào tường, trên bàn là mấy bình rượu lạt hạng xoàng. Nghe tiểu nhị cáo lỗi, người này chỉ khẽ “ừ”, chậm rãi đứng lên, thả xuống một mẩu bạc vụn rồi tiện tay lấy đi phần rượu thừa mình còn chưa uống hết trên bàn.

Tiểu nhị nhìn theo bóng dáng mảnh mai của người ấy co ro trong chiếc áo bông mỏng manh, lặng lẽ lắc đầu – những người đến tối muộn còn nán lại bên ngoài, phải chăng đều không có nhà để về?

Bước ra khỏi cửa, đón gió lạnh lùa thẳng vào mặt, Phượng Tri Vi kéo chặt chiếc áo bông, ngón tay kề sát bên môi, hơi thở toát ra đã ngưng lại như sương.

Nàng cầm theo một bầu rượu, bước những bước vô định ngược chiều với đám đông, dần dà đã vượt qua khu thành Đông nơi dân nghèo tụ họp, hướng vào trung tâm thành.

Đi được một đoạn, chợt thấy phía trước hiện ra một con sông phản chiếu bóng đèn chập chờn hư ào, tuyết còn chưa tan điểm xuyết trên những tảng đá ven bờ sông, thoạt nhìn như những viên ngọc băng lấp lánh.

Phượng Tri Vi ngồi lên một tảng đá đọng tuyết, nhìn xuống mặt sông.

Nàng lần tìm bình rượu giấu trong ngực, kề môi vào miệng bình hớp từng ngụm nhỏ. Chẳng mấy chốc rượu đã gần cạn, nàng ngửa đầu nghiêng bình rượu dốc cả vào miệng mình.

Bình rượu bằng gốm thô, chế tác vụng về, miệng bình không bằng phẳng, có dòng rượu trong vắt rỉ ra, bò ngoằn ngoèo trên gương mặt vàng vọt, chảy xuống khóe mắt.

Nàng hờ hững đưa tay ra lau, ngón tay nàng ướt đẫm, có hơi rượu lại có một thứ chất lỏng khác. Nàng nhìn ngón tay mình đến xuất thần, rất lâu sau mới khẽ khàng giơ tay lên che mắt.

Đêm tuyết rơi lặng ngắt, gió lạnh mênh mang, nước sông lặng lẽ chảy. Bóng thiếu nữ ngồi trên tảng đá sao mà lẻ loi, những ngón tay che mắt lấp lánh sắc nước trong màn đêm.

Đằng xa thoang thoảng hương son phấn, nghe láng máng có tiếng cười yểu điệu lướt sóng truyền tới, khi truyền đến góc bò sông vắng lặng này cũng chỉ còn sót lại vài tiếng lác đác.

Chợt có tiếng gọi phá tan khoảnh khắc vắng lặng đến thê lương này.

“Công tử…”

Giọng nói yêu kiều, âm cuối kéo dài ra nũng nịu. Kế đó vang tiếng bước chân lộn xộn, có người đến gần nàng.

Phượng Tri Vi buông tay xuống, nhíu mày, bấy giờ mới để ý đến bóng đèn hoa in ngược trên mặt sông – nếu nàng nhớ không lầm, thì nơi này hình như là sông Yên Chi trong thành, nổi tiếng nhờ mười dặm sông dựng đầy những thanh lâu buôn son bán phấn, trải dài hai bên bờ sông, ra sức mua vui cho người.

Đây có lẽ là khách làng chơi nhà ai nảy ra ý tưởng đưa nhau ra bờ sông tìm kiếm lạc thú giữa thiên nhiên.

Phượng Tri Vi ngồi yên không nhúc nhích – khách làng chơi không sợ bị người ta nhìn, thì nàng sợ gì mà không xem người ta chơi?

Tiếng bước chân ngày càng tới gần, nữ từ ấy yêu kiều kêu lên, “Ấy dà, có người…” Giọng nói cũng không có vẻ gì là bận tâm, quay sang nam tử bên cạnh tiếp tục làm nũng: “Công tử… ngài bảo muốn cho Nhân Nhi hưởng cảm giác mới lạ kia mà…”

Nghe loáng thoáng cỏ người bình thản đáp “ừm”, chỉ là âm họng nhưng cũng thấy lành lạnh, giọng điệu này sao nghe quen quen.

Phượng Tri Vi vuốt ve bầu rượu, một vạt cẩm bào thêu hoa bạc thanh nhã với áo choàng đen thẫm thêu đóa mạn đà la màu vàng nhạt phô ra nơi khóe mắt nàng, đón gió bay phần phật.

Ngọc bội kêu lanh canh, cô gái phục trang lộng lẫy quay về phía nàng, đưa lưng về phía mặt sông, đi đến trước mặt nam tử vận cẩm bào, vòng tay lên ôm cổ y, cười duyên: “Vậy… Nhân Nhi sẽ chờ.”

Người kia gần như không nhúc nhích, trong giọng nói ẩn chứa ý cười: “Hôm nay được xem một vở kịch hay, ta cảm thấy đặc sắc vô cùng, nếu không chia sẻ với ai đó thì thật tình không chịu nổi.”

Phượng Tri Vi thoáng động tâm, ngoảnh đầu đi.

Rồi nam tử vận cẩm bào thanh nhã kia bình thản liếc nhìn nàng, sau đó mỉm cười nhàn nhạt, ôm cô gái kia, tiến lên phía trước từng bước, từng bước một.

Đi thẳng đến bờ sông.

Cô gái tên Nhân Nhi say đắm trong phong độ siêu phàm thoát tục của nam tử, hoàn toàn không nhận ra mình đang quay lưng về phía mặt nước, lùi lại từng bước một.

Cho đến sát bờ sông.

Nam tử cúi mặt, mỉm cười nhàn nhạt.

Nữ từ “ưm” một tiếng, ghé sát môi.

Nam tử dịu dàng vươn tay, đẩy nhẹ.

“Tõm.”

Phượng Tri Vi ôm đầu, rên lên một tiếng.

Thì ra… đúng là như thế.

Nhân Nhi có nằm mơ cũng không ngờ mình lại bị đẩy xuống nước, bàng hoàng đến độ quên cả vùng vẫy. Cũng may nước sông không sâu, bởi con sông này vốn chỉ đào làm cảnh, nhưng trong nháy mắt mặt cô đã trắng bệch, không biết là vì sợ hãi hay vì bị nước sông làm cho rét cóng.

Cô ngơ ngác nhìn đôi nam nữ bên bờ sông, nam tử chắp tay mỉm cười phóng mắt nhìn về phương xa, không thèm liếc cô lấy một cái. Nữ tử nâng bầu rượu, chỉ chăm chăm uống rượu phần mình một cách ưu nhã và cố chấp.

Nhân Nhi trong thoáng chốc đã suy sụp hoàn toàn.

Trên đời lại có những kẻ như thế, một kẻ vô cớ đẩy người xuống nước, một kẻ thấy người rơi xuống nước cũng chẳng thèm ra tay cứu vớt.

Cô run rẩy rất lâu trong nước mới bắt đầu giãy giụa, chầm chậm bơi lại gần bờ, vươn tay cầu xin nam tử, “Công tử… Công tử…”

Ngón tay vươn ra đã lạnh ngắt đến tái xanh, run rẩy đáng thương như một đóa hoa sắp lìa cành.

Nam tử nhìn ngón tay cô, chậm rãi thu tay vào trong tay áo, mỉm cười nói: “Thôi, tay nàng bẩn lắm.”

Phượng Tri Vi đang uống từng hớp rượu nhỏ, bỗng dưng ho sặc sụa.

“Công tử… Nhân Nhi biết sai rồi… Từ sau Nhân Nhi sẽ không bao giờ dám quấn riết lấy ngài nữa…” Cô khóc trong nước như hoa lê hứng mưa, “Nhân Nhi đã biết… mình không nên thích ngài…”

Nước mắt tẩy đi phấn son diễm lệ, lộ ra gương mặt non nớt.

Xem ra cô gái này còn rất nhỏ tuổi.

Cô ngâm mình trong nước lạnh đêm đông, run lên cầm cập mà không dám cầu viện thêm, thậm chí không dám tự trèo ra khỏi nước.

Phượng Tri Vi bỗng buông bầu rượu.

Nàng đứng lên, không nhìn nam tử mà đi thẳng tới bờ sông, chìa tay ra với Nhân Nhi.

Nhân Nhi vẫn còn khiếp hãi, Phượng Tri Vi mỉm cười: “Lên nào, không ai muốn đẩy cô vào chỗ chết đâu.”

Kéo cô gái ướt đẫm kia lên, Phượng Tri Vi thấy cô vốn chỉ mặc áo đơn váy mỏng, giờ ngấm nước lộ ra đường cong, hóa ra ngay cả áo lót cô cũng không mặc. Nàng ngẫm nghĩ, rồi cởi chiếc áo bông mỏng mình đang mặc khoác lên người cô.

Dù cô gái bán tiếng cười mua vui này không ngại thoát y để gây chú ý, nhưng là một nữ nhân, nàng cũng không muốn để cô cứ thế đi qua trước mặt nam tử kia.

Nhân Nhi nhìn nàng cảm kích, khẽ nói: “Muội ở Lan Hương viện bên kia… Nếu tỷ tỷ có việc cần thì hãy tới tìm muội.”

Phượng Tri Vi mỉm cười, vỗ vỗ vai cô. Cô gái không dám liếc nam tử kia lấy một cái, quấn áo bông mỏng chậm rãi rời xa.

Một cơn gió lạnh thổi tới, Phượng Tri Vi chỉ còn lớp áo đơn rùng mình ớn lạnh, ôm chặt vai nhìn xuống mặt sông.

Bỗng có một bầu rượu đưa tới.

Ngón tay cầm bầu rượu thon dài sạch sẽ, tư thế vững vàng, vững vàng đến gần như thờ ơ, vĩnh viễn không thay đổi.

Phượng Tri Vi cúi đầu, nhìn bầu rượu kia, nhíu mày nói: “Đây là rượu của tôi.”

Một tấm áo choàng đưa tới.

“Đổi lấy rượu của cô.”

Phượng Tri Vi nhận áo không hề khách sáo, “Vậy thiệt cho ngài rồi.”

“Chẳng sao.” Nam tử mỉm cười, khóe mắt hơi xếch lên, quyến rũ như hoa đào, “Hôm nay học được một chiêu của cô, đây coi như là học phí.”

Phượng Tri Vi lặng thinh nhìn bóng của người này in dưới mặt nước. Kẻ này thiên biến vạn hóa, không thể nắm bắt, ngay đến dung mạo khí chất một ngày cũng biến đổi ba lượt. Lúc mới gặp, y thanh nhã phiêu dật như ẩn sĩ trong núi; khi đẩy người xuống sông, sắc mặt y lại ngạo mạn phóng túng như đóa mạn đà la màu vàng nhạt kia; mà giờ này mỉm cười, lại đẹp như đào mận, gần như là mị hoặc.

Người như thế, chỉ có thể dùng hai chữ “nguy hiểm” để miêu tả mà thôi.

Nam tử dường như không biết suy nghĩ của nàng chợt cười nói: “Bờ sông gió lớn, coi chừng cảm lạnh, chúng ta đổi chỗ khác đi.”

Phượng Tri Vi chẳng ừ hử gì, lẳng lặng đi theo y. Đằng trước có khúc quanh, bỗng xuất hiện một cây cầu đá hình vòm, thân cầu rất đồ sộ nhưng mặt cầu lại loang lổ rêu mốc, xem ra đã bị bỏ hoang.

Hai người lên cầu, lan can trên cầu được tạc từ một khối đá tảng nguyên vẹn, đây là một chỗ tránh gió cực tốt. Cả hai cùng ngồi xuống đất, nam tử cầm bầu rượu của Phượng Tri Vi lên, nốc một ngụm rồi đưa lại cho nàng.

Phượng Tri Vi hơi ngẩn ra, một là không quen uống chung một bầu rượu với nam nhân, hai là không ngờ người này trông như công tử cao quý mà lại chịu uống thứ rượu xoàng xĩnh kia; vả lại rõ ràng y không thích người ta quấn lấy mình, thế mà lại chịu uống rượu với nàng.

Nàng ngẫm nghĩ, lấy cổ tay áo lau miệng bầu, rồi cẩn thận uống một ngụm.

Cứ đinh ninh người này sẽ nổi giận, không ngờ y lại không đoái hoài gì đến nàng, chỉ ngẩng đầu nhìn đăm đăm về phía chân trời. Phượng Tri Vi ngẩng đầu nhìn theo mới phát hiện cây cầu này rất cao rất rộng, đứng trên cầu không những thấy bầu trời bao la, mặt trăng lành lạnh hết sức rõ ràng, còn thấy quá nửa Đế Kinh, mà điểm tận cùng của những đường phố ngang dọc đan xen là hoàng cung nguy nga cũng hiển hiện trong tầm mắt.

Phượng Tri Vi chậm rãi nuốt xuống ngụm rượu cay nồng kia, ánh mắt sáng lên, đột ngột hỏi: “Hình như ngài rất quen thuộc với nơi đây.”

“Nó vốn là cây cầu hạng nhất của Vọng Đô nước Đại Thành, tương truyền do Hoàng đế khai quốc của hoàng triều Đại Thành xây cho Hoàng hậu của mình.” Nam tử khép hờ đôi mắt, giọng nói khoan thai, “Hoàng hậu thích những thứ rộng lớn, do đó cây cầu này cao rộng khác thường, nhìn xuống bốn phương, được xưng tụng là Đại Thành đệ nhất kiều, sáu trăm năm trước, Hoàng đế và Hoàng hậu thường cải trang để dạo chơi trên cầu, truyền lại thành giai thoại.”

Phượng Tri Vi mỉm cười, khen: “Rất đẹp.”

Nàng không nghĩ một nam nhân như thế sẽ lưu luyến cảm động vì truyền thuyết của triều đại trước.

“Sau khi Đại Thành sụp đổ, Hoàng đế Thiên Thịnh đưa quân vào kinh sư, đổi tên Vọng Đô thành Đế Kinh. Để trấn an thiên hạ, lần đầu bệ hạ tiếp kiến cựu thần trong kinh ngay trên cây cầu này. Hôm ấy, cựu thần Đại Thành ngả rạp như cỏ, đều quỳ lạy dưới chân Hoàng đế của ta.”

Nam tử cất giọng bình tĩnh, lại phàng phất nét kiêu ngạo bề nghễ. Phượng Tri Vi lau rượu dính bên khóe môi, chợt cảm thấy tâm tình phiền muộn, không nén nổi một nụ cười lạnh nhạt, nói: “Thứ họ quỳ lạy chẳng qua là binh đao nhuốm máu mà thôi.”

Nam từ chợt quay đầu, trong khoảnh khắc ánh mắt y sắc bén như đao. Phượng Tri Vi thản nhiên đối mặt, mỉm cười nhu hòa trước ánh mắt như đao kia.

Hồi lâu, nam tử từ từ thu ánh mắt về, không ngờ y lại mỉm cười, nói: “Phải, chẳng qua là thắng làm vua thua làm giặc đó thôi. Đám cựu thần đó suy cho cùng cũng gặp may, đổi Hoàng đế mới vẫn được làm quan. Chuyện đáng sợ nhất là ngay cả làm giặc cũng không được.”

Phượng Tri Vi im lặng, ngay cả làm giặc cũng không được, dĩ nhiên chỉ còn đường chết.

Nàng mỉm cười, trở về chủ đề cũ: “Cây cầu này cảnh đẹp như thế, tại sao cuối cùng lại bị bỏ hoang?”

“Thiên hạ đã định, bệ hạ đưa gia quyến vào kinh. Công chúa Thiều Ninh được bế lên cầu bỗng dưng khóc lớn, có quan Khâm Thiên giám lén lút rỉ tai nhau rằng đây là điềm xấu.”

“Ba năm sau, ngay trên cây cầu này,” Nam tử dừng một chặp, nhận bầu rượu trong tay nàng, nhấp một ngụm rồi mới tiếp, “Tam hoàng tử phát động binh biến, nuôi ý đồ bức vua thoái vị. Trong trận chiến ấy, hoàng thất chết mất ba người, bị thương bốn người, một người tàn phế… Từ đó trở đi, cây cầu này bị bỏ hoang.”

Lịch sử tranh đấu trong hoàng tộc kinh tâm động phách tái hiện qua lời kể bình thản của y, đơn giản mộc mạc, lại giống như trong nháy mắt đã phô ra đầy trời gió tanh mưa máu. Phượng Tri Vi đột nhiên cảm thấy lành lạnh, cuộn chặt trong áo choàng.

Trên cây cầu hạng nhất cao rộng khác thường này, từng in dấu chân sánh đôi của Hoàng đế và Hoàng hậu khai quốc tiền triều, cũng từng văng vẳng tiếng than khóc bi ai của Hoàng tử tân triều.

Không biết trong cơn gió đêm luẩn quẩn này, có còn hồn phách của kẻ chết oan không được siêu thoát đang nhón bước hay chăng?

Mà cái kẻ lợi hại thần bí kia, tại sao lại mang tình cảm khác thường với cây cầu này?

Y hiểu rõ về cây cầu này như thế, phải chăng trong những đêm dài thao thức, y thường bồi hồi lưu luyến trên cây cầu này?

Nhưng chuyện này chung quy vẫn chẳng liên quan gì đến nàng. Đêm nay nàng có thể uống rượu chuyện trò thâu đêm với nam tử xa lạ này, đã là chuyện lạ trong đời – đó chẳng qua lá vì trải qua thời khắc cô đơn sinh ra sợ hãi cô đơn, rồi lại vừa hay gặp gỡ một người cô đơn khác mà thôi.

Giống như y không hỏi vì sao nàng lại xuất hiện ở đây, nàng cũng không hỏi tại sao ánh mắt y lại trống trải và lạnh lùng đến thế.

Khi chút rượu thừa cũng đã uống hết, sắc trời đã hơi hừng sáng. Dưới tia nắng ban mai đầu tiên, Phượng Tri Vi dốc nốt giọt rượu cuối cùng trong bầu, cười nói: “Giọt rượu cuối cùng xin kính cây cầu lẻ loi này. Sự đời biến đôi vô thường, chỉ có cây cầu này là vĩnh viễn nằm ở đây.”

Rồi nàng đứng lên, cổ tay vung lên áo choàng tuột xuống, tự bước xuống cầu mà không hề ngoái lại.

Tia nắng đầu tiên của buổi sáng xuyên qua sắc tuyết, chiếu lên đầu vai nàng. Thiếu nữ tuy gầy yếu, bóng lưng lại thẳng tắp.

Nam tử ngồi khoanh chân bất động, nhìn nàng dứt khoát xuống cầu đi mất, đôi mắt y lóe lên một tia sáng nhàn nhạt, hồi lầu mới nói: “Ninh Trừng, ngươi nói xem nàng sẽ đi đâu?”

Hộ vệ dung mạo bình thường ló mặt ra dưới vòm cầu, nghiêm túc nhìn theo bóng lưng Phượng Tri Vi rồi đáp: “Có hai khả năng, một là đập nồi dìm thuyền, về phủ đấu tranh; hai là chịu oan cầu toàn, tuân theo ý Thu phủ.”

Hắn cười cười, chỉ vào mười dặm yên hoa sau lưng mình, nói: “Tóm lại, nàng ta sẽ lập tức quay về, tuyệt đối không lưu luyến lâu ở chôn yên hoa này. Nán lại thêm một khắc nghĩa là thanh danh vấy bẩn thêm một phần, dù sao nàng ta cũng không thể đem cuộc đời mình ra đùa giỡn.”

“Thật không?” Nam tử mỉm cười, kéo dài âm điệu.

“Tôi đánh cược.” Ninh Trừng hào hứng sán lại gần.

Nam tử chẳng ừ hừ gì, hai người đứng trên cầu, thấy nàng đi thẳng một mạch không hề do dự giống như đã có mục tiêu. Thế rồi nàng dừng chân trước một cánh cửa treo đèn hoa lan, vấn tóc theo kiểu của nam, sau đó, dứt khoát gõ cửa.

Ninh Trừng xanh mặt.

Gương mặt nàng hơi nghiêng, mỉm cười nói gì đó với người ra mở cửa. Người bên trong hình như ngớ ra tại chỗ, mà Ninh Trừng biết đọc khẩu hình đứng trên cầu cách đó rất xa cũng loạng choạng muốn ngã ngửa.

Trên cầu, nam tử chợt cười khẽ.

Đôi mắt đen láy như mặc ngọc của y lóe lên một tia sáng lạ lùng mà sắc bén, giống như vực sâu tĩnh lặng bao năm bị cơn gió cuốn theo tuyết thổi từ bầu trời bên ngoài vào, khơi lên trùng trùng sóng cuộn.

Y đứng giữa vạn trượng nắng hồng phía đầu cầu, đóa mạn đà la màu vàng nhạt thêu trên áo choàng đen tung bay trong gió. Cơn gió lạnh dữ dội thổi tới tiếng nói chuyện đằng xa, hình như y nghe trong gió có tiếng thiếu nữ gầy yếu kia hỏi tú bà Lan Hương viện ra mở cửa một câu bình thản mà điên khùng.

“Chỗ của bà, có cần quy nô(*) không?”

(*) Thời xưa kỹ nữ bó chân, không tiện đi lại, mỗi khi được khách gọi phải có một người đản ông cõng đến điểm hẹn. Những gã đàn ông làm công việc dắt gái cho khách này gọi là quy nô.

“Tiểu Tri, nghe nói ngoài chợ có một loại hoa lụa nhuộm lốm đốm mới, ra mua mấy bông về đây cho ta!”

“Lấy thêm cho ta mấy bông màu xanh cánh trà với màu da cam!”

“Nửa cân cơm nếp đường phèn nhồi ngó sen của Tứ Phương trai!”

Gần đến giữa trưa, mười dặm phấn son mới chớm tỉnh. Lầu nhỏ trong Lan Hương viện ríu rít tiếng yến oanh, các cô nương thi nhau nhoài người ra ngoài í ới gọi gã tiểu tư áo xanh đứng dưới sân đang xách giỏ chuẩn bị ra ngoài mua đồ.

Tiểu tư là bà con xa của hồng bài cô nương Nhân Nhi ở Lan Hương viện, một tháng trước tìm đến đây nương nhờ, gã không lắm lời nhưng rất nhanh nhẹn và biết việc gì nên làm, được các cô nương yêu thích vô cùng.

“Yên Hồng tỷ tỷ có làn da trắng ửng hồng, cài hoa màu xanh biếc sẽ chỏi nhau, chỉ bằng dùng màu hồng nhạt, sẽ càng tăng thêm vẻ mỹ lệ.” Tiểu tư ngẩng đầu mỉm cười, lại tiếp: “Món cơm nếp nhồi ngó sen dù ngon, nhưng ăn nhiều sẽ ngấy. Thúy Hoàn tỷ tỷ ham ăn, coi chừng lại biến thành mỹ nhân mũm mĩm đó.”

“Tiểu tử thối!” Các cô nương cười mắng, nhưng nét mặt vẫn rất vừa lòng, Yên Hồng cười nói: “Tiểu Tri, nếu cậu không phải là bà con xa của Nhân Nhi lại đi trà trộn vào chỗ chúng ta, thì ta còn tưởng cậu xuất thân là công tử danh gia vọng tộc nào đó cơ.”

“Làm gì có chuyện ấy chứ?” Nhân Nhi bước ra khỏi phòng, vỗ vai nàng, “Hoàng triều Thiên Thịnh ta phân chia giai cấp nghiêm ngặt cỡ nào, công tử danh gia vọng tộc dù có sa sút phải đi xin ăn hay thậm chí là chết đói, thì cũng không thèm đến chỗ chúng ta đâu.”

Cô liếc nhìn tiểu tư với vẻ mặt phức tạp, đối phương khẽ mỉm cười với cô bình thản như trước, giống như khí chất xưa nay không đồi của người này – tưởng như cởi mở, thật ra lại rất thần bí, tưởng như lạnh nhạt, thật ra lại hành sự vượt ra khỏi khuôn khổ thông thường.

Tiểu Tri, tức Ngụy Tri có quan hệ với mọi người cực tốt, chính là Phượng Tri Vi.

Ấn thân trong kỹ viện được một tháng, nàng đảm đương rất tốt nhũng công việc vặt. Đương nhiên cũng phải nhờ Nhân Nhi chiếu cố mới được như thế, cô ấy không để nàng đi làm quy nô thật, quấn lấy tú bà xin nhận nàng làm tiểu tư, tuy thực chất làm toàn chuyện vô bổ, nhưng dù sao cũng là một chút thiện tâm. Phượng Tri Vi vô cùng cảm kích, Nhân Nhi lại tạ ơn nàng rối rít, nói ngày ấy thật sự đã mang ơn cứu mạng của nàng.

Chẳng qua chỉ chìa tay kéo cô ra khỏi sông, làm gì nghiêm trọng đến nỗi gọi là ơn cứu mạng. Phượng Tri Vi không hiểu, Nhân Nhi lại lặng thinh không đáp. Cô vẫn chưa nguôi khiếp sợ với chuyện đêm đó, nhắc đến nam tử kia là kinh hãi ra mặt. Nhìn vẻ hoảng hốt kia, thì có lẽ cô sợ không chỉ vì bị đẩy xuống sông, mà cứ như còn nguyên nhân khác.

Nhưng Phượng Tri Vi không muốn truy hỏi. Đêm đó cộng ẩm trên cầu, từ biệt trong tuyết rơi, nàng cũng không muốn gặp lại y lần nữa.

Có điều sự đời thường không thuận theo ý người ta – không phải cứ không muốn gặp là sẽ chẳng bao giờ thấy mặt nhau.

Nàng xách giỏ, đang định bước ra ngoài thì chợt thấy trước cửa có một đám người tìm đến.

Phượng Tri Vỉ ngẩn người, đang định tránh đi thì đằng kia đã có người gọi lớn: “Này, gã quy nô kia, các công tử gia đến đây, còn không bố trí cho các cô nương tiếp khách!”

Phượng Tri Vi cúi đầu, khóe mắt liếc nhìn đám người ăn mặc sang trọng, dễ dàng nhận ra đây đều là vương tôn công tử trong kinh thành. Trong số đó có một bộ cẩm bào tinh tế màu nguyệt bạch, vạt áo thêu hoa văn trúc bằng chỉ bạc, thanh nhã cao quý. Thấy tà áo kia, chân mày nàng khẽ giật, đầu lập tức cúi gằm xuống thấp hơn.

Vừa nghiêng người tránh ra, vừa ngoảnh đầu lại, gọi với vào trong viện bằng giọng khàn khàn: “Các cô nương, có khách…”

Tiếng gọi này nàng học được do thường nghe quy nô Trương Đức đón khách, nên nghe không thuần thục, giọng điệu hơi cứng nhắc, khiếm đám vương tôn công tử kia lập tức cười phá lên.

“Lan Hương viện kiếm đâu ra tên quy nô mới này vậy? Đón khách mả sao gọi lên như tiếng đàn bà rên rỉ trên giường.”

“Trương Đức đi đâu thế? Sao lại thay bằng tiểu tử lơ ngơ này?”

Một đám người vênh váo khinh người cười sằng sặc đi qua bên cạnh nàng. Phượng Tri Vì cúi gằm mặt xuống, thấy tà áo kia cũng lướt qua người mình mà không mảy may phản ứng, nàng mới lặng lẽ thở phào. Chợt nghe một gã công từ cười cười chỉ vào nàng, bảo ma ma đang đón khách: “Đợi bao giờ chúng ta chơi trò tửu lệnh(*) thì gọi tiểu tử này đến hầu hạ!”

(*) Một trò chới rất phổ biến trong những bữa tiệc rượu, cách chơi là chọn một người ra lệnh, những người khác phải tuân lệnh người này, thường là đọc thơ từ hoặc câu đối, ai trái lệnh sẽ bị phạt uống rượu.

Ma ma đớ người, miễn cưỡng đồng ý rồi nháy mắt ra hiệu cho Phượng Tri Vi lại gần, khẽ thì thào: “Cẩn thận một chút! Ây dà…”

Ma ma tỏ ra lo lắng, không hề hồ hời vui mừng vì có khách sộp tìm đến tận cửa. Phượng Tri Vi nhìn bà kinh ngạc, ma ma có vẻ nghiêm túc, hạ giọng nói: “Thấy cái gã gầy gầy áo vàng kia không? Nghe nói gã đó là hạng quái thai, người ta bảo đầu bài Nhuyễn Ngọc Nhi của Quan Hoa cư trước cửa nhà ta đã bị gã chơi đến tàn đời, Cẩu ma ma của Quan Hoa cư cậy mình có người chống lưng, muốn làm to chuyện lên, chưa đầy vài ngày đã bị người ta bức bách đến độ phải phá viện đóng cửa, ây, sao hôm nay lại đến đây cơ chứ? Đừng có kiếm chuyện với ta mà…”

Lại dặn dò Phượng Tri Vi: “Tiểu Tri, xưa nay con vẫn lanh lợi hiểu lễ nghi, kiên cường hơn bất cứ ai trong viện này. Hôm nay con hãy giúp ma ma một lần, dù thế nào cũng phải để mắt đến họ.”

Phượng Tri Vi không còn cách nào khác ngoài đồng ý. Sống gửi nhà người, mà nhà người còn là kỹ viện, ngày này sớm muộn gì cũng đến. Trốn được đương nhiên phải trốn, không trốn được thì đành phải đi bước nào hay bước nấy.

Đám người kia chiếm lấy “Quyện Phương các” tốt nhất trong viện, gọi những cô nương đẹp nhất ra hầu, mỗi người ôm một cô, nói năng cười đùa ầm ĩ không chịu được. Nhưng vẫn còn một góc mà ai nấy đều tự giác không đi quấy rầy, có vẻ yên lặng đến nỗi hơi kỳ quặc.

Đó là chỗ của y.

Một tấm bình phong bằng đàn hương đen thêu trúc bạc ngăn hờ ra một không gian yên tĩnh. Bên tấm thảm tinh tế, trong chiếc đỉnh nhỏ ba chân bằng đá đen đốt trầm hương hảo hạng. Giữa làn khói trắng mong manh, suối tóc của người kia xõa nhẹ, vạt áo buông lơi, tay uể oải chống lên má, ý cười nhàn nhạt, cúi đầu xuống cổ tay trắng muốt và ngón tay như ngọc của cô nương, uống rượu trong chén nàng dâng lên.

Kế đó nhẹ nhàng bẹo cặp má phấn của nàng, khiến Lan Y cô nương hoa khôi của Lan Hương viện phải thẹn thùng nũng nịu.

Trong góc ấy chỉ nghe tiếng cười trầm trầm và tiếng nữ tử thỏ thẻ, so với gian ngoài huyên náo lại mang vẻ tình tứ thú vị khác hẳn.

Phượng Tri Vi mặt không biểu cảm bưng trà hầu hạ, nghĩ thầm nếu Lan Y chứng kiến cảnh y đẩy Nhân Nhi xuống sông đêm đó, thì không biết nàng có còn thẹn thùng nổi nữa không.

Lại nghĩ rõ ràng y đi phiêu kỹ với một đám vương tôn công tử, hành động cử chỉ cũng tự do tùy ý, nhưng không hiểu vì sao nàng vẫn cảm thấy không ăn nhập.

Nàng bận luôn tay, lúc quay lưng rời đi cứ cảm thấy sau lưng có ánh mắt lướt qua, rồi dán vào mình đầy vẻ dò xét, nhưng từ đầu đến cuối nàng vẫn tỉnh bơ, cũng không ngoái lại một lần về hướng đó. 

Nàng dồn sự chú ý vào mâm tiệc, bởi sắc mặt của Nhân Nhi rất khó coi, luôn nháy mắt ra hiệu với nàng không biết vô tình hay cố ý. Ngồi bên cạnh cô chính là cái gã gầy gò xanh xao mặc áo vàng kia, ánh mắt gã đục ngầu, thoạt nhìn có vẻ không ổn cho lắm.

Phượng Tri Vi không định lo chuyện bao đồng, chỉ vờ như không thấy – phận gái phong trần khó tránh cảnh chạm mặt đủ loại khách khứa kỳ quặc, ứng phó với bọn họ là chuyện bắt buộc đối với các cô, không phải nghĩa vụ của nàng.

Rượu quá ba tuần, ai nấy đều đã ngà ngà say. Có vài người dẫn cô nương ra ngoài, Nhân Nhi cũng bị gã công tử bột kia dẫn ra ngoài. Mọi người nhìn theo bóng lưng họ, ánh mắt đều có vẻ quái lạ.

Nhân Nhi bị gã kia ôm trong lòng, liên tục ngoái dầu, ánh mắt thê thảm và van nài, tựa như đang kiếm tìm ai đó có thể giải vây cho mình, nhưng mọi người đều nhìn lảng sang chỗ khác.

Phượng Tri Vi nhíu mày, bàn chân vẫn không hề nhúc nhích. Nàng cứ có cảm giác, chỉ cần người ấy ở đây thì tốt nhất mình đừng nên phô trương.

Nhưng khi hai người kia ôm nhau bước qua bên cạnh nàng, dưới vạt áo mở hờ của Nhân Nhi, một vệt đỏ thẫm bầm tím in trên làn da trắng như tuyết bỗng rơi vào tầm mắt nàng.

Phượng Tri Vi giật mình, trầm mặc hồi lâu rồi lặng lẽ buông chén trà trong tay, rón rén trốn ra khỏi cửa bên rồi bám theo họ.

Bên này nàng vừa ra khỏi cửa, thì bên kia, trong nhã gian quay lưng về phía nàng, nam tử thanh nhã vận cẩm bào màu nguyệt bạch bỗng dưng mỉm cười, đẩy Lan Y trong lòng ra.

Lan Y nghĩ y dù đang đùa bỡn, bèn cười duyên rồi tiếp tục sán lại gần.

Người ấy cúi đầu, gương mặt điên đảo chúng sinh nở một nụ cười bình thản, nhìn nữ tử không biết việc gì không nên làm kia xáp tới, khóe môi khẽ cong.

Thế rồi y vẫy ống tay áo.

Thị vệ tướng mạo bình thường đột ngột lao ra không biết từ xó xỉnh nào, tóm cái đỉnh nhỏ bằng đá đen, lật qua dốc ngược lên đầu Lan Y.

Tàn tro nóng hầm hập rơi xuống, kèm theo một tiếng thét thê thảm của nữ tử.

Bốn bề lập tức yên tĩnh, ai nấy bàng hoàng không dám hó hé một câu.

“Ninh Trừng, dạo gần đây ngươi bắt đầu thương hương tiếc ngọc rồi.” Nam tử không thèm đoái hoài tới nữ tử ngã vật ra đất kêu đau, mỉm cười đứng lên, “Ta cứ ngỡ ngươi sẽ đổ thẳng vào mặt cơ.”

“Tôi cũng định làm thế.” Ninh Trừng nhìn Lan Y với vẻ thăm dò, “Nhưng tôi chợt phát hiện ra mặt cô ta tô trát quá dày, chỉ e không bỏng đến mặt.”

Mỉm cười rất khẽ, phớt lờ gã thị vệ hâm hấp của mình, nam tử lặng lẽ đi lướt qua đám đông, bước ra khỏi cửa theo hướng Phượng Tri Vi rời đi.

Những nơi y đi qua, tàn tro cũng không bốc lên nổi, tiếng khóc đành ngậm ngùi chôn trong cát bụi.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.