Đêm rằm, trọng hạ. Khí đã chăng mờ biên trấn Cao Bằng.
Trong bản doanh đạo quan binh, giữa hàng trường thành kiên cố, đầy nhóc kỵ binh, thiết giáp, súng ống, tại phòng Chỉ huy, lão tướng lừng danh biên giới đấm mạnh xuống bàn, gầm lên như cọp đói xổng mồi:
– Mất mặt! Mất mặt! Oai danh nhà nước chuyến này còn chi? Trăm tàu chiến, hùng hậu chạy trên sông tàu hỏa ầm ầm thiết lộ, giữ không nổi mấy tử tù, bị đốt cả tàu hỏa, đánh chìm luôn chiến hạm! Định thị oai, làm mất cả oai danh, nói thế nào với quan toàn quyền, quan thống sứ!
Tất cả ngồi im, liếc nhìn nhau.
Tây Bàn, công sứ, tuần phủ, các sĩ quan biên phòng, không ai lạ gì tính điềm đạm bình tĩnh cùng đầu óc biến động của viên tướng già bách chiến từng dẹp tan bao nhiêu đám lục lâm, cách mạng. Chỉ là sự nóng giận bất thường của một danh tướng bị giặc cỏ phạm đến uy danh… Không ai lên tiếng. Quả nhiên, chỉ thoáng qua, lão tướng De Monstre đã vơi cơn giận, đưa tay vuốt bộ râu thưa lâu không cạo, dịu lời:
– Thôi được! Chúng ta sẽ gỡ lại canh bạc đó! Bài chưa đốc nọc, mẻ lưới sáng mai sẽ tóm hết cá kình! Mọi việc đã xong chưa? Các ngài…
Tây Bàn quấn băng, liếc tuần phủ Cung, gật đầu:
– Xong hết! Bố cáo đã dán từ chập tối. Sớm mai các tỉnh sẽ “trảm” cùng một lúc vào sáu giờ. Riêng con “rồng cái”, tôi định bốn giờ sáng, mới cho dán giấy nói rõ địa điểm, cốt chúng không huy động kịp. Lão tặc cùng kẻ thân hắn sẽ phải liều mạng, dẫu thế cô!
– Còn kỹ thuật chém?
Viên quan triều chậm rãi:
– Các ngài yên chí! Tôi đã quen việc trảm, có đao phủ hành nghề, vờn mã tấu rất đẹp, chuyên chém trèo ngành và đáng tin cậy! Nhưng con giặc cái Cờ Đen này là tay đánh trận giỏi, nhất biên thùy, nếu chỉ cần dùng nó để nhử tặc tướng, thân nhân, sao quan Sáu không dùng mẹo “trảm” xác chết, cho chắc ăn. Ta đã bị xổng tên phó soái!
Tướng Tây nhướng mày hỏi:
– Quan tuần phủ muốn nói sao?
– Là chúng ta bí mật giết luôn giặc cái sớm phút nào hay phút đó, vào sớm mai, buộc xác vào cọc trảm!
Tây Bàn cùng nhiều người gật gù, nhưng De Monstre lắc đầu:
– Với bọn lục lâm giang hồ sống ngoài vòng pháp luật đều tối kỵ là hèn và phi pháp. Ý kiến quan tuần cũng hay, nhưng bản chức muốn nêu cao tinh thần trọng pháp luật, chém kẻ ngang ngạnh, khuất phục, bao dung kẻ đầu hàng!
Mọi người gật gù, viên công sứ Cao Bằng cười hỏi:
– Quan Sáu đã đề phòng nhưng xem chừng bọn giặc Cờ Đen gớm lắm, đêm nay có thể bị cướp tù!
Tướng Tây điềm nhiên, thấp giọng:
– Giải về xuôi! Để đường ngược, Hà Giang, ChaPa, Lao Kay, Cao Bằng?
Tài thánh cũng không làm gì nổi đêm nay! Nữ tặc sẽ bị chém tại Cao Bằng! Và hiện nay, nó đang ở dưới… một chiếc tàu ngầm!
Mọi người cùng “à” một tiếng đắc ý, bỗng nhốn nháo ngoài sân. Bọn quan tướng vội bước ra, thấy binh sĩ nhìn cả lên trời.
Tít trên thinh không, phía Đông Bắc, một mũi tên lửa rất lớn đang kẻ vòng cầu sáng chói, hướng vào thị trấn, vụt cái đã lại gần, từ trên không, lao xuống doanh trại đạo quan binh, cắm phập giữa sân một mũi tên lửa dài đến ba thước
Tây, to bằng cổ tay cháy ngút.
Lính tráng hò reo, dạt ra xa, dáo dác. Bỗng nghe “đùng” một tiếng, từ phía đuôi tên bắn một dải lụa đen rộng chừng nửa gang, dài hơn thước.
Một chú lính liền chạy ra, vồ dải lụa đem trình quan Sáu. Đó là một bức thư, thảo chữ Hán, nét rất sắc: “Quang Sát Tinh Quân Võ soái chủ kế truyền Cờ Đen Phi Mã Ác Sơn gửi
Nhà nước Đông Dương! “Ta đã nhận được thư của tướng Tây, nói để nhà nước rõ: con gái ta chẳng may sa cơ bị bắt cùng chú nó, nếu nhà nước chịu thả ta sẽ giúp nhà nước quét hết giặc giã biên thùy, và sẽ về Quảng Tây! Nếu sáng mai con ta vẫn bị ra bãi chém, ta sẽ đốt cháy biên thùy, bắt hết vợ con các quan Tây về chém lấy đầu làm một bãi khô lâu mới.”
Khẩn đạt, Đông Quân”
Viên tướng Tây vò nát lá thư, vừa cười nhạt, bỗng lại nghe lính reo hò ầm ì, trông lên, lại thấy một mũi tên lửa nữa, rất lớn, dài, từ phía Bắc vọt lên, bay vào trấn, vù ập tới, phát những tiếng vi vu tựa quỷ hú, đâm vụt xuống sân trại, cắm phập ngay ngoài hiên, cách bọn quan tướng chừng vài thước, đùng một tiếng, lửa bắn tóe hình con phượng, giữa đốm đỏ tựa pháo bông, bắn ra một mũi dao lan cắm phập vào một thân cây.
Tướng Tây tiến ra rút phắt dao, soi đèn, thấy lưỡi dao chi chít chữ ta. “Thập Vạn Đại Sơn Vương kính gởi tướng nhà nước Bắc Đông Dương De
Monstre “Thỉnh cầu: Tha ngay gái Cờ Đen! “Đừng để máu loang bãi chém, khổ dân biên thành! Chớ coi lão Đông Quân như phường tiểu tặc! Mỗ chẳng ưa chi lão Độc Phi Mã Ác, nhưng mắt không thích nhìn cảnh Nhà nước chém gái giặc, bỉ mặt bọn múa súng ngoài vòng pháp luật. Và nói trước: 5 giờ chém, 5 giờ mạng sẽ nguy!
Thần Xạ Đại Sơn Vương!”
Chữ khắc như cắt, nét tựa rồng bay, chứng tỏ kẻ gửi “thư sắt” công lực cực kỳ thâm hậu đã dùng thép viết lên lưỡi dao. Tướng De Monstre coi xong trao lưỡi dao lan cho mấy hàng phụ tá, cười lớn:
– Lại một tay cường khấu nữa muốn nhảy vào vòng binh phục! Bản chức đã quyết huy động quân lực biên thùy, thị uy, chăng lưới, bắn một tên được mấy con chim, có đâu vì mấy lời vu vơ của một tướng giặc, bỏ đi cả một kế mưu gia!
Bọn De la Table đọc vội “dao thư”, bất giác ngó cả lên trời. Viên công sứ
Cao Bằng chợt hỏi, giọng hơi lo:
– Quan Sáu đã bố phòng đâu đấy chứ? Tôi nghe lão tặc Phi Mã Ác giỏi lại nhiều thuật lạ, đến viên tướng Vân Nam càng gớm, bắn giỏi như thần, xưa thiếu tướng Roux nguyên Tư lịnh quân đoàn lưu động biên giới, có lần lừa bắt được, giam tại Hà Giang, như chúng, đến vỡ ngục, loạn trấn, xổng tù, cả đến quân Mèo tự trị cũng ngụy trang về phá ngục. Mai, nếu xẩy chuyện, liệu phủ Toàn quyền, thống sứ nghĩ sao?
Lão tướng biên thùy vuốt râu cười khà:
– Các ông chớ quá lo xa! Tôi đã được ủy lệnh đặc biệt! Ngoài hỏa lực thép, chúng ta còn thêm bọn cường sơn khác giúp sức!
Tất cả nhao nhao, dáng ngạc nhiên:
– Ai? Bọn nào! Sao lại Cường sơn?
Lão tướng Tây mỉm cười liếc nhìn Cung Đình Quyền. Viên tuần phủ nãy giờ im lặng, bèn chậm vuốt bộ râu thưa, điềm nhiên:
– Hòa Ngô diệt Ngụy, dùng giặc đánh giặc có chi các vị phải lạ lùng? Quan
Sáu mới có ước mật với mấy đám giặc núi!
Tất cả chợt hiểu, gật gù riêng viên giám binh vốn tính nóng nảy, vùng hỏi:
– Nhưng chúng là ai? Mà mật ước lúc nào?
Lão tướng Tây chưa kịp nói, thình lình nghe tiếng la từ trên không hắt xuống:
– Lúc đầu thủy giải tử tù bị nổ chìm gần ngã ba Lô Gầm! Cường sơn đó là gái trẻ này đây!
Tiếng lảnh dùi tai thanh nhọn đàn bà, vừa vọng xuống, ai nấy giật mình ngó phắt lên, đang sửng sốt, đã nghe tiếp tràng cười khanh khách, từ trên ngọn cây sấu um tùm, một bóng gái vẹt cành lá nhảy xuống áo choàng lộng bay xòe màu hồ thủy, tay cầm một cây cờ đuôi nheo nhỏ, khuôn mặt đẹp lẳng hiện lồ lộ dưới ánh đèn vàng, giám binh De la Table bật kêu trước nhất:
– Kìa giặc Tình! Sao vào được dinh trại đầy lính gác?
Bóng vừa xuống chính là nàng nữ tặc Phi Mã Yên Sơn (Pi-A-Uác), phất nhẹ cây cờ hiệu núi, tiến đến trước đám tướng quan nhà nước, nghiêng mình chào rất ình, rút trong túi ra một cây cờ đuôi nheo ba sắc, có nét vẽ hiệu quân đoàn, trao cả cho lão tướng Tây.
– Xin hoàn lại quan Sáu lá cờ lệnh, và Hàn Tố Liễu tặng quan Sáu cây cờ của thiếp phòng khi tới chơi núi khỏi mất thì giờ!
Các quan tướng cùng đáp lễ, tướng Tây thừa hiểu nữ tặc đã ngầm khoe tài xuất quỷ, vì chính ông đã trao lá cờ hiệu mời đến dinh cho tiện, nhưng tướng Tây vuốt râu nói luôn:
– Các ngài thấy chưa? Lính gác đều vô dụng trước kẻ dạ hành, người bạn gái rừng xanh đến giúp ta vì lẽ đó?
Khắp trên biên giới Việt – Hoa, không ai lạ gì nàng giặc khách họ Hàn nổi danh cao bản lĩnh, lẳng tình, từ Quảng Tây sang chiếm núi Pi-A-Uác, miệt thượng lưu sông Gầm, chuyên ăn cướp, buôn người bắt cóc… Nhưng đã ngầm hiểu, kế mưu trị loạn của viên tướng “cáo già”, nên công sứ Cao Bằng liền ứng tiếng
Quảng Đông nói mấy lời khen ngợi. Nào ngờ vừa dứt, sực nghe có tiếng lảnh thé trên không vọng xuống như búa bổ màng tai:
– Ả Tình vào trại có chi phải tốn lời ca tụng? Gái già này đã cho bọn lính gác ngủ gục hết còn đâu? Tuy giờ này chúng đã tỉnh rồi!
Ai nấy cũng dáo dác tìm hướng phát tiếng, bất thần cùng nghểnh cổ nhìn cả ra phía tiền trại, tưởng mình mê ngủ trước cảnh tượng lạ đời. Vì ngay xế cổng ra vào, trống trơn có một dãy nhà một tầng gạch tựa vào hàng cây rậm vừa hiện ra một hình thù kỳ dị sừng sững in vào nền trời mờ đầu người mình thú, bốn chân hai tay coi hệt một con nhân mã trong thần thoại Hy Lạp!
Nhất thời thấy lạ trên mái nhà, quan tướng đều bật “ồ” sửng sốt ngay lúc đó, bóng nhân mã phát tiếng cười nhọn hoắt lê thê, vươn mình, tung gió từ trên mái nhà phi xuống, coi chẳng khác quái thú thần thoại bay trên mây đến mấy con sào, “rập” cái, hạ xuống đất, sải vó như giông qua khu sân trại, dừng phắt trước mắt mọi người.
Mãi khi đó, đám quan tướng mới vở lẽ, lại cùng “ồ” một tiếng nữa, vì… hình con nhân mã kỳ dị chỉ làm người cỡi ngựa, lại cỡi trên cổ, xiêm lòa xòa che cả đầu con vật.
– Bạch Ma Nữ!
Người mới đến chuyển nhẹ một cái, đã vọt xuống đám quan tướng, cất tiếng cười the thé:
– Chào quan Sáu, quan Năm, quan Bốn, quan Ba… Chào cô em Hàn Tố
Liễu!
Mọi người đáp lễ, nhưng đều đưa mắt cho nhau! Và Bạch Ma Nữ, chúa động thác ngầm Phi Mã Biệt Sơn (Pi a biếc) vẫn khét danh đệ tử truyền đời của ông
Bành Tổ, với thuật lạ hấp tinh đan khí đến hơn 70 tuổi rồi vẫn nguyên như khuê nữ, môi son má phấn, mắt phụng mi tằm, phảng phất vẻ đẹp hồ ly 20 tuổi, nhìn muốn nổi da gà. Vì “nàng” mặc rất kỳ, xiêm y trắng toát mỏng dính hàng “voan” coi chẳng khác mặc quần áo thủy tinh, dưới đèn, lồ lộ cả từng đường cong nét uốn, một tòa thiên nhiên sừng sững tự nhiên, khiến bực thánh nhân ngó phải rùng mình.
Hàn Tố Liễu, Bạch Ma Nữ vốn có cựu hiềm vụ tranh đoạt Thái Dũng, thấy mặt muốn đánh liền, lại bị mỉa, nữ tặc Phi Mã Yên Sơn cười nhẹ giáng luôn một búa:
– Chào cô chị! Quả danh bất hư truyền Tuyệt Dâm Nương! Nghe người ta truyền ngôn “cái tốt khoe ra xấu xa đậy lại”. Cô chị đây tuổi 70 lại thích khoe cái xấu ra! Hà hà!
Quan tướng Tây ta lẫn lộn, nghe Hàn mỉa tiếng Quảng, lại viện cả “châm ngôn” ta, ai nấy muốn phì cười, phải bấm bụng, làm nghiêm, nào ngờ “nàng” nữ chúa động Phi Mã Biệt Sơn đã cất tiếng cười ngất:
– Cô em “Tình” này xuất thân làm giặc, làm tình làm tội đàn ông tứ xứ, còn ngây thơ đến thế ư? Bực quân tử có cái hình ngu độn, thánh nhân sống thuận thiên nhiên. Chị đây, thân thể phụ mẫu sinh ra, tuổi 70 lại là tuổi “cổ lai Huyết Ảnh” của quý trời ban, ngu gì lại đậy? Cô em vừa nhỏ vừa dại, mới tập nghệ tình, muốn đàn ông tặng danh thuẫn nữ ngốc đó ư?
Hàn Tố Liễu nổi xung trợn mắt, Bạch Ma Nữ được thể cười vang, lão tướng
Tây thấy găng, vội vuốt râu bảo:
– Bản chức mời nhị nương đến đây cốt chung lo việc “trảm”. Cả hai đều là khách quý, xin gác giận hờn riêng, còn trổ tài cường sơn giúp bản chức. Còn quân gia? Bản chức đã truyền quan binh lương giao tế lo sẵn việc trú quân!
Hàn Tố Liễu gật đầu:
– Theo đúng mật ước Mã Yên Sơn, chỉ đem vào một đại đội tinh nhuệ, với nhiều đầu mục!
Dứt lời, nàng nữ tặc giật sau lưng ra một cây cung lớn, lắp một mũi tên hỏa bắn luôn về phương tây bắc xế. Vệt lửa Phi Mã Yên Sơn vừa mất hút trong đêm,
Bạch Ma Nữ cũng giật cung, bắn đi một mũi tên cháy rực về hướng Tây Nam.
Chỉ phút chốc, đã thấy pháo hiệu quan binh vọt lên giữa trấn, liền hai vệt rớt vòng cầu đặt sệt, lão tướng Tây phất tay, vui giọng:
– Đại tá De la Tour đã đón quân hai núi về điểm trú! Ta nên vào trong uống rượu đàm đạo, có lẽ hơn! Đoạn quay sang giám binh Cao Bằng, viên tướng già dõng dạc:
– Giờ quan giám binh có thể cho bố ráp khắp nơi: đúng 5 giờ 30 sáng mai chém nữ tặc Cờ Đen tại Cao Bằng. Bãi tập. Cùng giờ với các tỉnh!
Viên quan Năm sốc kiếm, đi luôn về phía phòng truyền tin, cùng mấy tùy viên.
Còn bọn tướng Tây, Cung Đình Quyền cũng đưa Bạch, Hàn hai nữ tặc vào khu phòng tham mưu, vừa uống sâm banh vừa luận địa hình, kế hoạch trước một tấm bản đồ hành quân lớn đầy hình nổi, coi gần như một bức sa bàn.
Trại dinh rơi vào im lặng, trăng rằm đã lên cao, ngơ ngác, nhìn xuống vùng biên trấn đã vào canh hai lâu, còn rầm rập tiếng người đi ngựa chạy. Nhất là các khu vực buôn bán quanh chợ. Đêm lại vào dịp giáp phiên, các sắc dân Mèo, Thổ,
Mán, Nùng, Dao, xạ phang từ các bản, động xa xôi lũ lượt từng đoàn ngựa thồ lâm sản về, ríu rít giữa trấn biên, cùng với người Kinh tạo nên cảnh nhộn nhịp khác thường. Đủ mặt nam phụ lão ấu, gái kiềng đeo loảng xoảng, nhai trầu bỏm bẻm, trai khăn quấn mấy chục vành, phì phèo thuốc “sừng bò”, cười nói líu lo như chim.
Lại nghe tin biên trấn sắp chém tử tù, dân tò mò lại càng nhân dịp đổ về xem, phố xá càng đông gấp bội, bao nhiêu hàng quán nhà trọ sang hèn đều chật chỗ, thậm chí chợ chưa tới ngày họp đã đầy người, các bãi trống đường vắng xa gần chỗ nào cũng đầy người ngựa. Đặc biệt dân sơn cước hay dùng ngựa thồ hàng. Cao Bằng lại là miền nuôi ngựa, nhiều nhất Đông Dương, có khi cả một bản xuống chợ đều đi ngựa, lại thêm dân Kinh miệt Thái Nguyên, Bắc Cạn, Cao Bằng thường dùng xe ngựa chở hàng hóa, thực phẩm, nên vào dịp giáp phiên cảnh biên trấn ngựa xe như nước đầy phong vị thời cổ.
Lại thêm vụ “trảm”, lính nhà nước kỵ bộ kéo về rầm rập, khố đỏ khố xanh, đủ Tây ta dõng, súng gươm tua tủa, coi càng huyên náo và đầy vẻ “thái bình thịnh trị”, lại lẫn vẻ “loạn lạc nhiễu nhương.”
Theo lệnh trên quan binh bố trí cẩn thận nhiều nơi lại đặt mấy trạm kiểm soát mấy ngả vào trấn, cố chận bớt việc đột nhập của giặc cướp. Cả mấy ngày đêm chỉ thấy dân Kinh Thổ vào ra, quen rồi các chú lính cũng nản, thường khám qua loa, còn để bụng tán đùa các “bông hoa rừng”, nhất là các cô vùng Tĩnh Túc
Trùng Khánh Phủ, nước lành người đẹp luôn miệng cười duyên, các chú “trấn thủ lưu đồn” tít cả mắt.
Canh hai, bố cáo vừa dán xong, dân gian đã xúm lại xem như kiến, bàn tán không thôi.
Ngay cửa chợ, đám đông đang đọc một tờ bố cáo lớn, vòng trong vòng ngoài ồn ào huyên náo. Bỗng có một chàng tuổi trẻ mặc quần áo chàm Thổ, cỡi con ngựa đỏ đi tới, người vật còn bám đầy cát bụi đường.
Vẻ phong trần quắc thước không dấu được nét điển trai khác thường, chàng trai thấy đám đông coi cáo thị, bèn rẽ ngựa vào, hơi nghểnh cổ xem, lẩm bẩm:
– 5 giờ 30 sáng mai đã chém rồi! Hừ! Tướng Tây gớm thật! Không biết nhốt “nàng” tại đâu? Chỉ quanh vùng, chẳng lẽ lại giam ngay trong trại?
Vừa quay ngựa ra, bỗng nghe có tiếng từ tốn bên mình:
– Xin có lời chào nhân huynh!
Chàng trai vội trông sang, đã thấy một chàng trai cũng mặc y phục miền núi, mặt trắng, dáng hào hoa dưới nếp khăn quấn chéo chữ nhân, cỡi một con ngựa trắng bờm tua. Thấy vẻ mặt quen quen, chàng trai cỡi ngựa đã hơi nhướng mày còn đang nghĩ, người trai này đả mỉm cười hỏi luôn:
– Nếu đệ không lầm, phải nhân huynh là Lê Thái Dũng?
Chàng trai nhìn người đối diện, dò xét và điềm nhiên gật đầu. Lập tức người này kêu liền hai tiếng “lạ thật” và hỏi luôn:
– Huynh đã nhận ra đệ chưa? Hai năm trước chuyến huynh sang Tàu, đệ có dự tiệc tiễn hành?
Chàng trai – Lê Thái Dũng – lúc đó mới sực nhớ ra, vùng bắt tay người lạ:
– À! Thì ra đại huynh Cung Đình Giáo? Huynh mặc khác làm đệ ngờ ngợ!
Nếu vậy… phải chính huynh có dự cuộc vây bắt sống được cô gái Cờ Đen?
Cung Đình Giáo mỉm cười:
– Và đệ cũng có nhiệm vụ đưa “nàng” ra bãi chém sáng mai! Huynh cả nhà mang họa vì bọn chúng, chắc không phiền trách đệ chứ? Mà sao từ đó huynh phiêu bạt nơi nào?
Thái Dũng nghe nói, mừng thầm. Hồi nhỏ từng học với nhau ở Hà Nội, chàng là chú bé hiền lành yếu đuối nhất, còn Giáo lại là một thứ tiểu yêu ranh mãnh, hay nghịch “ác” trong bọn mấy anh em con nhà quan. Và cả hai đều được coi là đẹp trai “như con gái”! Nay gặp lại, thấy Giáo lại đi vào con đường quan cách vẻ mặt vẫn như xưa, xem chừng còn hiểm ác hơn, chàng không mấy cảm tình, cũng cố lựa dọ hỏi. Bèn thở dài bảo:
– Cha con Đông Quân ghê gớm khôn lường. Đệ may thoát, phải ẩn mặt cho qua. Nghe nhà nước bắt được chúng vội về coi. Bọn chúng quỷ quyệt lắm, hình như đã cướp cả tù, còn một con giặc cái đệ đâu có thể lại để xổng mất!
Cung Đình Giáo cùng Thái Dũng sóng ngựa chậm bước, cười bí mật:
– Thoát sao nổi khi giam tận thủy cung!
Và họ Cung nói luôn sang chuyện khác, sực bảo:
– Lạ thật! Vừa rồi có một bóng đột nhập trại dinh, võ nghệ cao cường, nhưng động, bị rất nhiều cao thủ vây bắt, cái bóng đều đánh dạt, vọt đi, tình cờ gặp quan giám binh, chiếu đèn giữa mặt. Vừa chiếu “tách” lên đã bị bắn tắt. Và huynh biết không? Quan giám binh đã nhận được một bóng lạ… là huynh, hay giống huynh như đúc?
Vừa nói vừa nhìn Thái Dũng, nhưng chính chàng trai cũng lấy làm lạ, chàng vừa đến Cao Bằng, sau mấy ngày tốn công dò nơi giam Long Nữ. Chàng chợt có ý mừng thầm, nhớ lại đêm gia biến, không thấy xác người anh thứ hai Thái Kiệt.
Bèn từ tốn hỏi thêm, nhưng họ Cung chỉ mỉm cười bảo:
– Mai chém, tối nay Cao Bằng đầy kẻ thù, có lẽ nhân huynh nên vào trại nghỉ là hơn!
Thái Dũng kiếm lời thoái thác, bỗng nghe trong đám dân xem bố cáo có điều to tiếng, huyên náo hẳn lên, rồi một gã dân buôn gốc Kinh lực lưỡng hét:
– Chém đứt đuôi con nòng nọc chớ còn gì nữa! Thứ giặc cái giết người như ngóe, không có các “quan lớn nhà nước” bắn thần công vào đít, có mà loạn! Lại không phải à? Còn cứ suýt xoa muốn vào “bót” hả?
Một gã khác cũng người Kinh vạm vỡ mặt đầy chất “lưu tinh”, trợn mắt lè nhè:
– Ờ! Ờ! Cái bác này nói lạ! Này đừng giở giọng nịnh “phú lít” đổ vạ cho ông! Đấy bà con coi! Ông nói đếch gì! Là ông nghe đồn nó đẹp như tiên, ông suýt xoa ông tiếc, là tiếc cái đẹp mà lại chết chém, hoài của! Thế thôi! Mà cũng…
Bốp! Một bàn tay hộ pháp giữa đám đông người ngựa thình lình vươn ra tát trúng mồm gã say rượu bắn người đi cả thước! Bốp! Cái nữa! Cả gã kia vừa cùng đám đông cười ồ, đã bị luôn cú trời giáng, lộn như trái cầu, cả hai kêu oai oái, cỡi cả lên thiên hạ, vừa cố nhỏm dậy, nhổ phì cả nửa hàm răng theo máu, rãi, hùng hổ định tìm kẻ ăn thua, vụt trố mắt nín thít, lắc lắc cái đầu như bị kinh phong, vì một tên xạ phang vừa hiện ra, lù lù trên con ngựa ô cao lớn to như hộ pháp, râu xồm, mắt vọ, ngực áo phanh đầy lông lá, dữ như cọp, lừ mắt quát chìm tiếng Quan Hỏa:
– Chúng mày coi biết coi, biết gì mà nói? Lần nữa láo, tao đánh vỡ đầu!
Cút!
Thấy dạng hung thần, tất cả len lén lảng xa. Cung Đình Giáo sáng hẳn mắt:
– À… A Thiên cận tướng Cờ Đen! Ma đưa lối đến nộp mình!
Dứt lời, giục ngựa lộn luôn lại, Thái Dũng đã nhận ra liền nhẹ nhàng nắm lấy tay Cung, từ tốn:
– Đại huynh tha cho hắn! Xá chi một đứa tiểu tốt!
Cung dừng phắt nhìn Dũng, cười hỏi:
– Bọn thù giết cha mẹ anh em, sao huynh lại muốn tha?
Dứt lời nhẹ đảo tay nắm lấy tay Dũng ra chiều vồn vã. Dũng điềm nhiên:
– Cũng chẳng có chi! Hắn không phải là kẻ thù chính! Và ngày mai thế nào chả gặp lại! Tội chi bắt lẻ đêm nay cho động ổ!
Nhưng Cung không muốn phi cơ hội, lập tức buông tay Dũng, định xốc lại, nhưng… có một thứ gì kìm chặt tay chàng. Ngạc nhiên sực hiểu, Cung bèn ngầm vận kình lực rút, nhưng rất nhanh, cảm rõ lực mạnh vừa phát đã tiêu liền, có một luồng điện lạ từ tay Dũng truyền sang rủn cả gân cốt. Giật mình, Cung vội cười bảo:
– Vậy đệ cũng chiều huynh! Sớm mai gặp nhau ngoài bãi chém!
– Cám ơn huynh!
Lời vừa dứt, tay đã nhẹ lâng, con trai tuần phủ Quảng Yên bắt tay Dũng rung luôn mấy cái và quất ngựa vọt đi ngay. o O o
Năm Lực chỉ nghe kẻ lạ quát “Lui mau” rồi cả căn phòng nát bỗng như nổi gió cuồng, chưởng phong, ảnh kiếm vun vút lập lòe tựa chớp giăng, cát bụi gạch ngói mịt mù, tiếng hét nổi da gà, rồi phút chốc im hẳn. Lực nhìn lại, chẳng thấy ai nữa bèn nhảy ra ngoài, chỉ thấy một khu trang cũ đầy lau cỏ, trăng vàng, đóm bay.
– Cậu biết không, hắn lúc bới nền phòng cụ lớn nhà, tôi thấy bàn tay phải hắn bị mất một ngón trỏ.
Thái Dũng nghe chuyện, sực nhớ tới kẻ vào khinh khoái đỉnh Tây, định giết Độc Tinh Quân, bị Đông Quân chém đứt tay, trầm ngâm bảo Lực:
– Còn nhiều bí ẩn! Có thể là một người trong giòng họ Lê nào đó? Hay anh
Hai Kiệt? Vì biết đâu anh còn sống? Cũng như em Kiều, đã gặp tôi lại không chịu nhận tôi! Cuốn gia phả chia hai, hiện mỗi người giữ một nửa! Đến lượt Năm Lực sửng sốt, vùng bảo:
– Đêm qua, lúc qua sông Gầm, tôi lại gặp một đám Tàu chiến trên mui chài.
Nghe quát, mới hay là Độc Tinh Quân với hai người đàn bà lạ đòi gia phả họ Lê.
Mãi lúc xuống mấy lính tuần giang tới, mới bỏ đi. Tôi ẩn mé sông, chờ vắng mới qua, suýt bị đắm thuyền vì sóng dữ, bỗng dâng lên bất thần chẳng khác nào giao long, dải dữ, tuy lúc đó trời quang không gió!
– À ra thế! Gia phả đã bị Long Nữ cướp! Nhà nước nhốt gái Cờ Đen dưới tàu ngầm! Tàu ngầm ngả Việt Trì lên, qua ngã ba Lô Gầm lên thượng nguồn, và bí mật di động dưới lòng sông, chờ giờ áp điệu lên bãi chém! Đi thôi!
Và trước cặp mắt ngơ ngác chàng Năm Lực, chàng trai gọi lại trả tiền, giục quản gia rời quán lên ngựa, đi như gió về nẻo sông Gầm.
Nhưng… được chừng mười lăm dặm xuyên sơn, hai người đang rạp mình phóng, vừa đến một hẻm núi vắng, bất thần một mũi tên bay vút tới, cắm phập vào thân cây trước mặt. Ngạc nhiên, Thái Dũng liền giục ngựa lên, rút phắt cây tên, thấy nơi cánh có một tờ giấy nhỏ. Vội lấy ra đọc: “Sông Gầm đầy đá ngầm nước xiết, thủy lôi, dọc tả hữu ngạn hơn 20 cây, lính phục vừa đổ tới chực giải tù. Tàu ngầm kính bưng, rào điện trùng trùng, xuôi ngược, dọc ngang, chạy, đậu, nhật dạ, bất kỳ. Hay nhất chờ nơi bãi chém, khỏi uổng công!
Chữ thảo vội, không tên, hiệu, Thái Dũng thấy ý hảo, kẻ bắn tên không phải dọa, gạt, bèn cùng Năm Lực lộn luôn lại Cao Bằng, đến nhà dân ở ngoài tạm trú.
Khoảng 4 giờ sáng, chàng lén dậy, đeo mặt nạ da người, nhập trấn, tới trại doanh tướng De Monstre. Bốn bề đèn sáng, quân lính canh phòng, thiết xa tuần tiễu cẩn thận tưởng một con kiến không lọt. Nhưng đảo tới khu hậu lại thấy lính gác ngồi như tượng đất cả, Thái Dũng biết ngay có khách dạ hành vừa ra tay, bèn rùn chân vọt qua tường thành đầy dây điện thép gai, đáp xuống một khu nhiều bóng tối.
Bỗng “vút vút” liền hai bóng đen từ ngoài nhảy vào, băng qua xế đằng trước mất hút. Vốn đã rõ địa thế Cao Bằng như trên bàn tay, Thái Dũng giở thuật “ảo ảnh di hình” phóng đến khu dinh soái ẩn trên một cành rủ dòm vào. Phòng tham mưu sáng trưng, sĩ tốt qua lại rầm rập, trong hình như đang ăn uống, chuyện trò. Mắt tinh, chàng nhận ra cả cha con Cung Đình Quyền, bọn Hàn Tố Liễu, Bạch Ma Nữ.
Bất giác ngạc nhiên nghĩ thầm:
– Lại có cả Dâm, Tình hai ả! Tưởng De Monstre gớm thật! Đang quan sát, bỗng nghe trong phòng huyên náo, lính tráng chạy túa ra, xách súng chạy loạn.
Rồi từ nóc phòng gần đấy, hai cái bóng vọt lên như pháo thăng thiên, đứng trên nóc, hét the thé:
– Tây già chó đẻ! Lừa để két không? Làm như gia phả nhà mi!
Toàn tiếng Quảng Tây, ngay khi đó, lại hai bóng nữa vọt lên đuổi, Thái
Dũng vừa nhận ra dáng cha con họ Cung, lại thấy Hàn, Bạch hai người nữ tặc nhảy ra sàn nhìn lên, kêu “à, hai con quái” rồi vọt luôn lên mái, thoắt cả sáu đã biến dạng nẻo sau. Thái Dũng thấy tất cả đang hướng về phía xa, một mình xuống một khu sân tối giáp phòng tham mưu. Vừa xuống, chợt thấy một lính từ trong bước ra thềm, tiến ngoắt về phía chàng, vẫy tay bảo:
– Quý khách không cần vào nữa! Quan Sáu sai tôi trao hộp gia phả lấy được của gái Cờ Đen đây!
Miệng nói tay tung luôn về phía Dũng. Trong xó tối cách chừng mười thước, chàng trai càng kinh ngạc, không dám đưa tay bắt, nhưng cái hộp cứ quay tít trước mặt chàng không ngớt, người lính cười lớn:
– Tướng Tây đang điên đầu trong phòng mật. Chúng còn đánh nhau nhiều!
Còn đợi gì không về ngủ, chờ sáng! Mỗ cũng đi đây!
Lời dứt đã nghe rầm rập tiếng chân chạy, người lính kỳ dị phất nhẹ tay một cái, vọt đi như tên bắn. Chiếc hộp sắt vừa bay sát ngực Dũng đỡ luôn lấy, ngó theo chỉ thoáng thấy một vệt loang trắng nhạt vút tít nóc nhà cao gần đấy mất hút như trong mơ.
Mãi lúc đó mới hay một khách dạ hành thượng thặng nào đó đã lấy giúp mình nửa cuốn gia phả quan hệ. Cả mừng, chàng trai lập tức rời doanh trại, đúng lúc súng khai hỏa đì đẹt mấy phía. o O o … Một đêm ngột ngạt trôi qua… Khắc khoải… Rồi canh tàn, trăng lụn, phương Đông đỏ hồng… báo hiệu một ngày đầy máu!
Pháp trường Cao Bằng lúc rạng Đông.
Bãi chém còn ngậm sương đêm, dân gian đã dắt díu bồng bế nhau lũ lượt, kéo ra bãi chém, tưng bừng đông đúc bằng mấy ngày “cát-tô”.
Mới hơn 4 giờ sáng, các sắc dân hiếu kỳ đứng chận mấy mươi vòng bãi, dành chỗ tốt, coi chém đầu nữ tặc Cờ Đen!
Lính nhà nước súng ống tua tủa trấn khắp trong ngoài, kỵ bộ cơ nào đội ấy chỉnh tề dàn bao quanh bãi, để hở một lối rộng từ cửa vào thẳng khán đài. Cờ quạt phất phới trước khán đài đã đóng sẵn một cái cọc sơn son cao độ một thước. Ngay từ lúc tinh sương kèn “bú-dích” đã vang khắp Cao Bằng dập dình chuyển ra bãi chém.
Cả biên trấn như vào hội. Hàng quân bật đèn, đốt đuốc, bàn tán ngoài hiên.
Lính nhà nước tuần phòng rầm rập coi thú vị đến rợn người.
Trong lúc cả biên trấn rầm rập, sôi sục khắc khoải, đợi từng giây phút đến giờ “trảm” thì trên hai một tửu quán khách trú, bên chợ, có một ông Thổ trạc ngũ tuần râu năm chòm, vẻ mặt khắc khổ, mắt sáng như điện, ngồi chống tay lên cằm, bâng khuâng nhìn ra ngoài, dáng lạnh lùng như đá tạc. Bữa nay cả trấn quán ăn đều mở cửa sớm, khách ra vào tấp nập, ăn uống chuyện trò huyên náo, ông già
Thổ không buồn để ý đến ai, thỉnh thoảng lại nâng ly trà uống một hớp.
Dưới phố, bóng đêm loãng dần bất thần, lão liếc nhìn chiếc đồng hồ quả lắc, dằn mạnh chiếc ly xuống bàn:
– Hừ! Lạ thật! Không một bóng cao thủ! Chắc mọi việc đâu vào đấy rồi, chỉ chờ giờ trảm huyết! Mà sao mãi chưa thấy dạng “hắn” đâu?
Ngay khi đó, bỗng có một bóng lù lù lên lầu. Vạm vỡ, râu xồm, “pạc-hoọc” hai khẩu trễ sườn, người khách trượng phu vừa ló đầu khỏi cầu thang đã dậm mạnh chân giầy, phát tiếng ồm ồm như lệnh vỡ:
– À! Cái quán này năm nào ta đã đánh nhau với quan binh! Hầy là tửu bảo! Đem may mấy đùi hươu nướng, vài vò Mai quế lộ cho ta giải sầu!
Thực khách ngó lại, thấy dạng khách trượng phu đều len lén quay vào ăn uống, trượng phu nói xong, lừ mắt nhìn quanh, ngã luôn vào một cái bàn rộng gần đấy, giọng say rè:
– À! Sáng nay lại có chém! Bọn quan binh này nhiễu sự! Chém! Khà khà!
Lời buông, khách đã gục xuống bàn, hình như đã cạn vài vò rượu nặng. Ông già Thổ lơ đãng ngó vào. Chợt sáng hẳn mắt “à” nhỏ một tiếng, đoạn khẽ nhún vai, lắc đầu:
– Mấy năm nay mới thấy say nhè! Chắc hỏng việc, chịu nhục đây! Đoạn lại điềm nhiên ngồi uống trà. Tửu bảo mang rượu thịt tới, khách trượng phu rót uống liên miên, thình lình nhìn cửa sổ, khách ngẩn người rất nhanh khi thoáng thấy vành khăn chữ “nhân” trên đầu ông già Thổ. Và tự nhiên bộ mặt dữ tợn thoáng biến sắc, người khách buông rớt ly rượu tiến ra chỗ ông già Thổ, cúi đầu cung kính:
– Thầy! Không ngờ thầy đã sang Nam! Thoòng này làm hư đại sự, tội đáng chặt đầu!
Vừa nói vừa định sụp xuống, nhưng ông già Thổ đã phất tay làm hiệu nghiêm giọng:
– Biên trấn sắp trảm gái Cờ Đen, hiện đầy địch thủ. Nên giữ tung tích đến năm giờ rưỡi! Ngồi đây! Ta đã được tin vua Pạc-họoc thua trí quái nhân rồi!
Trượng phu ngồi xuống ghế đối diện, mồ hôi trán vã ra, chứng tỏ xúc động khác thường. Bỗng phát lời u uất đến cùng:
– Thoòng không muốn sống nữa! Đã cam đoan còn làm hỏng việc thầy! Dọc ngang mấy cõi còn bị quái lừa! Phụ lời thầy dặn! Mất cả oai “Vạn núi” Vân Nam! Đoạn khách râu xồm thấp giọng kể qua “chuyện hỏng”. Lúc đó mới hay khách chính là khách râu xồm trượng phu Vân Nam năm ngoái tới tư dinh tù trưởng
Lai Châu Đèo Văn Phong, và sau đó đã độc hành vào hang Tuyệt Mệnh Hắc
Giang, khám phá Thần Thư kho tàng Tôn Thất Thuyết, và Hắc Ảnh quái nhân lừa đánh lộn xuống vực. May nhờ nội lực, chỉ bị trọng thương, phải rời vực kiếm hang sâu trị độc. Rồi lang thang đi tìm dấu vết kho tàng, cừu nhân. Chưa dám về núi cũ.
Khách dứt lời, cúi đầu chịu tội. Thì ra không ai khác Pạc-hoọc Đại Vương
Thoòng Mềnh, chúa ba núi Mã Đầu, Kê Đầu, Ngưu Đầu vùng nội địa Vân Nam.
Vì cảm ân lớn, đã xin làm đệ tử Đại Sơn Vương Thần Xạ, chàng trai Việt chúa tể miền Thập Vạn Đại Sơn, một trong võ lâm tứ trụ. Và ông già Thổ ngồi uống trà không ai khác tướng lạc thảo khét danh Bắc Thần!
Tướng lạc thảo trầm giọng:
– Hang Tuyệt Mệnh sụp rồi! Chuyên hư cũ bỏ đi, sau nhớ lời sinh tử: phạm với đám quái nhân độc vật, phải định rõ trước khi đối diện! Cần hạ thủ, hạ ngay, cần nói chuyện, phải chiếm luôn điểm lợi. Nếu không sẽ chết bất thần! Giờ ngồi đây và đợi giờ trảm!
Thoòng Mềnh khẽ hỏi:
– Thầy định chi?
– Cứu gái Cờ Đen khỏi vòng chết chém, nếu cha chú nàng chưa đủ trí đối địch cùng Tây Quỷ! Thoòng sẽ có việc làm sớm nay!
Khách vuốt bộ râu xồm, ngay lúc đó, phía dưới quan binh rầm rập chuyển qua đến mấy đại đội. Một bóng người lực lưỡng vọt lên tửu lầu nắm luôn lấy tay
Thoòng Mềnh, và cúi đầu bảo tướng lạc thảo:
– Thầy à! Quả lời thầy đoán! Mọi việc đã xong! Đông Quân quả tay túc trí!
Cung Đình Giáo sắp giải tù vào biên trấn! Đại Sơn Vương khẽ gật đầu:
– Ta có nghe lão Quang Sát là tay lợi hại. Tất biết phép tung hoành giữa rừng gươm súng. Còn việc chuyển tử tù, đi mấy ngả?
Người lực lưỡng đưa tay vuốt bộ râu đầy bụi đất đỏ Cao Bằng:
– Bẩm. Đến bốn, ba đường! Rầm rập toàn kỵ bộ, mỗi đoàn áp giải một tù xa, đều từ mạn sông Gầm xuất hiện, cốt đánh lạc hướng mọi người. Chính tử tù, con trai tuần phủ Cung thân điệu từ dưới tàu ngầm lên lúc bốn giờ sáng tận thượng lưu. Gái Cờ Đen bị bỏ vào bao tải coi như thể hàng hóa súng ống vậy! Binh hộ tống chỉ chừng Trung đội toàn người Kinh, chắc đám gia tướng họ Cung! Đại Sơn Vương ngồi trầm ngâm mươi khắc chợt đứng phắt lên, buông gọn:
– Theo ta! Bọn Tây Quỷ đa mưu, phút cuối cùng có thể đảo lộn cả kế hoạch khai đao! Phải chặn trước giờ trảm mới được!
Thoòng Mềnh vua pạc-hoọc nhìn người râu quai nón. Trong giới cướp biển không ai còn lạ chi viên phó tướng “chó biển” miền Bắc cân Sát cáp nhĩ, Đông
Nam Tỉnh, Đa Sát Hải Sơn Vương Voòng Lầu, trùm hải tặc râu quai nón khét tiếng
Tam Quang khiến dân Tàu mấy cõi phải khiếp vía. Các tướng quân phiệt, lãnh chúa vùng duyên hải Trung Hoa phải nể mặt cầu thân. Voòng tung hoành bao năm, giết người như ngóe, sau chạm trán chàng tướng Thần Xạ Việt, mấy lần bại trận, rớt súng, được tha, phục tài, cảm lượng, đã xin làm đệ tử theo hầu, vào sinh ra tử cùng thầy, không khi nào đổi dạ.
Cùng Thoòng Mềnh, thành hai viên cận tướng tả hữu, bộ ba Chúa lạc thảo, sáu tay súng thần xuất, còn dữ hơn mấy đạo quân.
Chừng quá quen với thói quen định việc chớp nhoáng của vị chủ soái tài cao tuổi trẻ, cả hai viên tướng cùng vọt theo như hai bóng hung thần, xuống thang.
Lúc đó, khách ra vào tấp nập, chẳng ngờ cả ba vừa lên ngựa, giật cương đi, thình lình có một toán hơn chục lính khố đỏ cận vệ tướng De Monstre phóng tới cửa quán, dẫn đầu có hai, ba tên khách cao lớn dáng đầu mục. Vừa nhác thấy mặt râu xồm, một tên vùng chĩa súng quát lớn:
– À! Thằng tướng giặc Mã Đầu! Bắt lấy bọn nó mau!
Thoòng Mềnh đi sau cùng, vừa phóng đi, nghe tiếng hô Quan Hỏa, vùng vắt mạnh chân một cái xoay phắt ngay người lại, lừ lừ mắt vọ nhìn. Đã thấy một dẫy hơn mười ngọn súng chĩa vào cách chừng ba, bốn bước. Nhún vai chán nản,
Thoòng từ từ giơ tay lên trước hàng trăm cặp mắt tò mò của khách qua đường.
Thoòng bất thần hét lên một tiếng như sấm, đánh vụt hai tay xuống sường. Chỉ thấy loáng hai ngọn pạc-hoọc xẹt ngang lửa. Đoàng đoàng. Liền một tràng đạn nổ, bọn lính có kẻ vội lảy cò, Thoòng đã lộn xuống bụng ngựa, thoắt đã ngồi lên như cũ, ai nấy thất kinh ngó lại: cả toán lính lẫn tên đầu mục vừa quát đã ngã nhào xuống chân ngựa, chết tươi! Mấy con vật hoảng chồm, hý loạn, kéo cả xác người còn mắc chân bàn đạp. Đại Sơn Vương, Voòng Lầu dừng ngựa nhìn lại. Thoòng quay tít súng cắm phập vào bao, vuốt râu xồm, mắng lớn:
– Hầy à! Thằng đầy tớ Kiệt, Trụ Kê Đầu Ngưu Đầu xưa! Chó dại định cắn quàng! Nhớ mặt lão Thoòng lại quên… pạc-hoọc!
Và trước đám đông len lén, Thoòng ngoắt người bỏ đi liền.
Cả ba lẳng lặng phóng ra khỏi biên trấn. Tới bìa rừng, bỗng chàng tướng lạc thảo Vân Nam nghiêm giọng bảo:
– Thoòng à! Cao Bằng quen mặt nhiều, sao không thấy dạng? Chưa vào việc đã giết hơn mười mạng! Đa sát thế, theo ta sao tiện? Không thấy Voòng ư?
Năm năm nay, xông pha tên đạn, chỉ giết có hai kẻ tử thù!
Viên tướng giặc núi Mã Đầu thất sắc, mặt ngẩn ngơ, giục ngựa lên, gãi má nhăn nhó khổ sở:
– Thầy bỏ tội… Không phản ứng ngay sợ chậm mất, nó dám phạm đến thầy!
Bọn lính nhà nước chẳng kể chi, nhưng Kiệt đó là cánh tay của anh em thằng A
Trụ, trước mắt nó đầy sát khí….
Chàng tướng kề sát ngựa Thoòng, bỗng đưa tay vỗ mạnh vào vai, cười lớn:
– Thấy mắt đứa nào có tử khí, hạ liền! Phản ứng đúng lời ta dặn đó. Nhưng lần sau, chớ quay mặt lại! Gặp cao thủ, sao kịp? Phải nhớ bắn ngược lại! Chính ta cùng Voòng đã định ra tay!
Vua pạc-hoọc “dạ” ran, nhe răng cười khoái chí. Theo chủ soái khá lâu,
Thoòng đã hiểu rõ tính thầy, tha giết đều phải đúng lúc. Cần đến hạ hàng loạt không sao, chưa cần, chạm đến lông chân người cũng bỉ quở! Và Thoòng hỏng việc, mang thương suýt vong mạng, cũng chỉ vì chưa lượng nổi địch nhân Hắc Ảnh!
Ba con ngựa sải gió như giông! Trăng thượng tuần đã lặn từ lâu, trời vẫn còn mờ mờ tối. Đường xuyên rừng bóng núi đen ngòm. Lát sau, tới một khu hiểm địa, chằng chịt lối mòn, thình lình nghe tiếng súng nổ rền xa xa. Ngựa qua một lòng chảo, lại nghe tiếng súng nổ phía khác. Vượt qua một vùng núi nữa, lại có tiếng súng phương khác.
Cả ba gò cương, lắng nghe Voòng Lầu khoát tay tứ phía:
– Mấy cánh đều chạm súng! Lão Phi Mã Ác bị lừa, uổng công cướp tù xa!
Tướng lạc thảo Vân Nam lắc đầu:
– Đông Quân phòng mọi mặt đó thôi! Tương kế tựu kế may gặp càng hay, còn chủ lực lão đặt cả ngoài bãi chém! Giờ ta nên kiếm chỗ đợi là hơn! o O o
Toàn thân chàng trai rung lên muốn nổ tan. Cung bỗng phát cười âm u:
– Gái Cờ Đen kiêu kỳ ngu xuẩn! Phụ lòng ta, kẻ vơ tay trái cũng ôm được cả ngàn trinh nữ! Để coi nàng còn tân không, hay đã qua cả quân gia mấy núi!
Mắt long lanh ngùn ngụt, Cung dứt lời, khẽ quài hữu thủ loáng một cái đã túm luôn lấy ngực áo Long Nữ, giật phắt! Soạt! Cả mảng áo lãnh rách bung, bay lật bật trên mấy ngón trảo họ Cung. Dưới đèn chập chờn, nửa khuôn ngực hoa đã để lộ ra, mong manh lần lụa lót cũng màu đen, càng làm tỏ làn da trắng mịn như ngà.
Thất kinh, Long Nữ vội kéo vạt áo choàng phủ ngực, thét:
– Chó đẻ! Dám làm hỗn thế sao?
Phía trước tên xà ích bỗng cất tiếng hát líu lô, tay gõ chan chát vào thanh gỗ.
Cười như điên, Cung Đình Giáo lắc mình một cái, đã ngồi kề Long Nữ, tay trái luồn vụt vào ngực áo nàng. Soạt cái nữa! Cả mảnh áo còn lại rách bươm, trên móng tay Cung đã phất phơ cả mảnh “lắc la nhụ” (áo lót). Đường xóc, xe nghiêng, đèn lắc, dáng thân nàng nữ tặc lắc theo, ánh sáng chập chờn ma quái lùa tận góc xe, soi thoáng cả khuôn gò bồng đảo đẹp dị kỳ như hai bóng chim uyên. Trong khoảnh khắc, nàng nữ tặc khét danh biên thùy như tan biến, hiện nguyên hình cô gái đào tơ, với tất cả sự kinh sợ của một khuê nữ cửa
Thiên Thai còn phủ kín mây trôi!
Bất giác nàng bật lên một tiếng kêu hoảng hốt, đưa tay khép vội mép áo choàng, dáo dác nhìn Cung. Trước mặt nàng, chàng trai mặt trắng nổi danh phong nhã cũng biến mất chỉ còn hiện thân của khát vọng cuồng si. Cung vò nhàu cả mảnh áo lẫn la nhụ đưa lên mũi hít chầm chậm, phát ra cười khàn đục:
– Cô nàng sắp du địa phủ, còn đợi chi không cùng ta đáo nhập Thiên Thai!
Vừa nói vừa tung mảnh áo. Cung đưa cả hai bàn tay mười vuốt thép chụp luôn lấy vai cô gái. Long Nữ cả kinh, vung tay gạt, nhưng võ công bị phế, thêm độc dược làm tiêu gân, chạm tay Cung như phải khối thép nguội. Như điên, Cung níu cứng vai tròn, kéo lại, mười ngón tay từ từ trôi miết xuống làn da thịt non tơ.
Cô gái vừa thét mắng vừa vùng vẫy, thở dốc, vô tình phào cả hơi vào mũi Cung, thứ hơi thơm mùi hoắc hương lẫn cả ngàn thứ kỳ hoa dị thảo có sức hấp dẫn ghê người, càng khiến chàng thư sinh mặt trắng nổi điên như con thú thèm mồi.
– Thiên Kiều! Nàng nổi tiếng nhiều thuật lạ, hẳn phải rõ 72 phép lạ “Phòng trung bí pháp”? Mỗ đây cũng học được thuật của ông Bành Tổ lưu truyền, không làm nàng thất vọng đâu! Hà hà!
Vụt! Bàn tay thủ thuật đã miết xuống nửa gang, chim uyên sắp bị bắt trong lồng áo rộng. Long Nữ cuống cuồng, cúi luôn xuống cắn nghiến vào mu tay Cung.
– Thằng khốn! Buông ra!
Nào ngờ Cung Đình Giáo lại thuộc loại người mang thiên bệnh “ái tình nghịch lý”, gậy đập, roi quất bắn máu chưa thấm, càng cắn càng hay, nên vừa bị cắn, Cung đã phá cười the thé như điên:
– Cắn nữa đi! Hé hé! Cắn cho thủng thịt, ta sẽ đưa nàng lên tận đỉnh Vu
Sơn!
Bệnh quái nổi ầm ầm, người Cung như cây đuốc, mười ngón tay ma muốn cắm xiên vào khuôn ngực hoa, Thiên Kiều bị phế võ công, thốt oằn mình hét lên:
– Trời! Chó dại! Đau… đau chết mất thôi!
Tiếng rên như gáo dầu đổ vào mỡ, càng khiến Cung si cuồng, Long Nữ thấy tình thế cực hiểm nghèo, bản năng tự vệ vùng dậy, nàng nữ tặc bỗng đổi hẳn thái độ, rướm hẳn mình lên, xoay nghiêng người thỏ thẻ:
– Chó dại! Khoan nào! Làm gì mà như tuồng gấu đói thế?
Nghe giọng oanh như nũng, Cung nao hẳn dạ nhướng cặp mắt đỏ ngầu nhìn nàng khàn giọng:
– À! Cô em biết điều là phải? Thuận ý mỗ, sẽ thoát tay tử thần!
Long Nữ cười thẹn:
– Chó điên! Nước đâu! Ngươi làm ta khô bỏng cổ mất thôi! Mà võ công ta đã bị phế, mi phải cho ta uống thuốc giải mới… hay chứ?
Kèm theo cái nhìn muốn chết người, Cung buông tay lấy “bi-đông” nước trao nàng, tay kia moi trong túi ra một viên thuốc trắng, búng luôn vào miệng hoa vừa hé.
Chiêu mấy ngụm nước, chỉ mấy giây, Long Nữ đã thấy trong người dễ chịu hẳn.
Liếc trông ra, trời vẫn tối mờ, nhưng xa xa đã phảng phất mây hồng, bóng núi từng dãy in lên nền trời. Xe đã ra khỏi hẻm, đang chạy dọc chân núi. Bọn hộ tống vẫn lóc cóc trước sau. Long Nữ còn đang bàng hoàng, Cung Đình Giáo đã sà sát lại, choàng lấy ngang sườn, bay tay ma trôi về phía trước.
Thói quen con nhà võ, trong cơn cuồng si, Cung đã vận sức lúc nào không biết. Long Nữ nghe như điện chạy vào mình, vội nảy ra một kế, vươn người lên, hơi ngã vào Cung thỏ thẻ:
– Cung! Mi hại đời ta! Sao cương ngựa chưa rẽ lên biên giới?
Lập tức Cung quát vọng ra:
– Biên thùy! Bay! Kiệu đại cho khỏi xóc!
Chiếc xe đảo nghiêng, cả dáng hình thục nữ lọt thỏm vào tay Cung. Nàng lách mình, cho ngón tay Cung trôi miết đúng huyệt đạo hai bên nách và lả lơi nắm cánh tay Cung. Mùi lan xạ hăng hắc xông ngào ngạt. Cung rít lên, cấu mạnh mười đầu ngón tay, phào giọng mê man:
– Thiên Kiều! Ta đưa nàng lên đỉnh non thần…
Cô gái thốt rùng mình, cảm rõ nội lực đang hồi phục, trong lúc khẩn cấp không thể đợi thêm được nữa, lập tức thét lên hai tiếng “chó đẻ” vung luôn tay ngược vào ngực Cung. Cung Đình Giáo vốn tay có bản lãnh, phản ứng rất lẹ, vừa thấy ánh mắt khác thường đã chột dạ, thu luôn tay về ngực. Đỡ được đòn tay, nhưng lại bị hai chân.
Bịch! Xoảng! Tay trúng tay, cả sợi dây xích lẫn xà sắt theo đà cước bật tung lên, quật bụng trên Cung Đình Giáo. Sức vô địch tướng Ngân Sơn tuy chưa hồi phục mấy phần, nhưng cũng mạnh hơn cọp dữ xổng chuồng.
Vút cái, Cung đã bị bắn tung đi như trái cầu, thân hình bay sát cửa hông. Tuy bị đòn quá bất ngờ, nhưng họ Cung vốn thạo chiến đấu, đã kịp vận khí vung luôn tay nắm được thành cửa trên.
Sức cước mạnh, Cung theo đà lộn bắn ngay lên mui. Lúc đó, xiềng đã đứt chỗ khóa vào xà nhưng hai cổ chân cũng bị xích mấy vòng. Không chậm trễ, nàng nữ tặc đưa tay bứt luôn xiềng. Nhưng sức chưa lại hẳn, vừa bứt được một đoạn, thì
Cung Đình Giáo đã từ nóc xe đu mình xuống, đứng ngay cạnh cửa hông, hộc ra một búng máu. Cung giơ tay lau mép, cười rợn:
– Quỷ cái lừa được cả Bạch Diện Thư Sinh! Bữa nay đừng hòng thoát tay ta!
Lời vừa buông, chưởng đã tung theo. Đúng lúc Long Nữ cũng đánh ra một nhát phản phong. Bùng! Hai luồng kình lực quất vào nhau, áp khí bắn tung cả mấy đống lâm sản
Hai người đều bị dội bắn vào vách xe. Rắc rắc! Vách gỗ gẫy nát cả hai cùng ngã ngửa muốn lọt ra ngoài! Long Nữ tinh mắt liếc sang cửa hữu, thấy con ngựa
Cung vẫn chạy sát xe, lập tức uốn mình tay thả chưởng, chân rún vọt ra cửa.
Phập! Vừa vặn đặt mông đúng yên ngựa. Vừa lúc đó, bọn hộ tống rập tới, tên xà ích cúi xuống, bất thần giáng xuống một báng súng trường trúng vai Long
Nữ. Nữ tặc thét lên một tiếng, quơ giật được cây súng, đánh lia một nhát gục luôn hai, ba tên và giật cương vọt đi.
Nào ngờ Cung Đình Giáo đã rúc lên một tràng hiệu lệnh, con ngựa tinh quái hí chồm dựng đứng lên, không chịu chạy. Trời tối mờ, đèn bấm chiếu lia cấp thời, cô gái vừa thấy bóng Cung lao ra, lập tức nhảy vọt lên mui xe, gạt bắn tên xà ích, quất ngựa chạy như giông.
– Bắt lại! Chớ để nó chạy! Bắn hiệu mau!
Náo loạn. Hỏa pháo vọt lên trời. Đèn lia, súng nổ. Xe vọt khỏi hẻm, ngựa rượt theo.
Bất thình lình, từ phía trước có tiếng ngựa chạy tới, rồi đèn chiếu lia, phía hữu lòng chảo, có tiếng sảng tựa chuông đồng:
– Thiên Kiều! Thiên Kiều! Có người đón đây! Chạy về hướng này!
Tiếng đàn ông Việt nói giọng Quảng Đông, nội lực sung mãn khác thường.
Long Nữ nhận ngay ra được tiếng Lê Thái Dũng.
Cả mừng, vừa định rẽ cương, bỗng nghe có tiếng veo véo bay tới. Một tia đèn bấm chiếu ré, soi rõ bốn khẩu súng cối đang hạ xuống trốc đầu nàng. Nữ tặc toan giơ tay bắt đã nghe đoàng một tiếng, khẩu súng đã bị xói mất tăm.
Tiếp liền có tiếng đàn bà Tàu lanh lảnh:
– Gái lai thối! Có chị đến thăm đây! Đi sao nổi!
Long Nữ nhận ngay ra tiếng Tuyệt Tình Nương Hàn Tố Liễu, vội vươn tay búng vỡ ngọn đèn bão, thì đoàng một tiếng, vai phải đau nhói một cái, rã rời.
Phía hữu, tiếng Thái Dũng còn khá xa vọng tới:
– Bỏ xe, dạ phi mau! Chúng kéo đến đông lắm!
Tiếp theo, luồng đạn kẻ chữ “V” tới, Long Nữ bị xích chân, nghiến răng giật một cái đứt tung, vùng thấy nhói bắp chân trái.
Nàng mím môi, lao đại xuống đất, lăn vèo vèo giữa luồng đạn yểm trợ.
Nào ngờ Cung Đình Giáo đã lăn ra một cây đèn bấm, rút súng bắn chữ “O”,
– Quân đâu! Đánh ngăn tứ phía! Để nó cho ta!
Long Nữ thấy đạn vây kín, lại bị thương, bèn cắn răng, chồm liều qua vòng đạn, tới một gốc cây lớn. Đạn vãi đậu, từ đâu, quân lính đổ tới như kiến. Thái Dũng đang kẻ đạn, thốt nghe vó ngựa ào lại chặn đường, còn đang tính kế, đã thấy Song Ma Kỳ Hình vọt tới, nhanh:
– Chậm mất rồi! Liều uổng mạng! Giám binh đem lính tới!
Chàng trai thở dài, dạt ngựa.
Vừa lúc lính tráng ập lại như rươi. Cách tù xa chừng hai bộ, Long Nữ vừa toan đu lên cây, bỗng “vèo” một bóng đen bay tới, khoa gươm chặt đứt luôn cành cây, tay kia quật vào đầu nàng một báng súng.
Long Nữ bị thương ra nhiều máu, cố lấy sức nhảy vọt sang. Nào ngờ, lại bóng nhân mã xốc tới, “véo” một ngọn roi da đã tung ra quấn nghiến lấy mình con rồng bị thương, giật mạnh. Toàn thân nàng cất bổng lên, như bị lốc cuốn, phập cái đã nằm gọn trong vòng tay ma quái của một thiếu phụ hơi hắc tựa hoắc hương.
Lính tráng ập lại vòng trong vòng ngoài. Ánh đèn loang loáng. Súng ống tua tủa. Thiếu phụ thọc luôn tay vào huyệt Long Nữ, tháo dây da. Ánh đèn chiếu vội cũng đủ soi tỏ bộ mặt đẹp yêu ma của “cô gái 70 tuổi” nữ động chúa thác ngầm Phi Mã Biệt Sơn: Tuyệt Dâm Nương, mặc quần áo hàng voan! Ma Nữ ôm gọn Thiên Kiều trong lòng, bỗng phá lên cười thé, rên đèn bấm khắp mình mẩy nàng, ngó từng đường cong nét uốn trên khuôn ngực đào tơ, chỉ còn hai vạt áo choàng hờ.
– Hê hê! Con nhỏ không áo lót, định theo đạo chi đây, hay có chú nào dạy phép ông Bành Tổ?
Hàn Tố Liễu sấn tới, mắng lớn:
– Mụ già nào sao dám phỗng tay trên? Ta bắn ả bị thương, trả đây!
Hai người dành nhau nữ tù, xuất thủ đập loạn, lính tráng dạt xa. Cung Đình
Giáo giục ngựa tới:
– Cám ơn nhị nương bắt giúp! Giờ xin trao mỗ đem nhốt tù xa!
Cả ba nhìn nhau. Bạch Ma Nữ liếc Cung cười tủm:
– Phải chú em định trổ nghề “phòng trung” nên suýt xổng tù! May quan Sáu lo xa, nhờ bọn ta đi đón, nếu không còn chi người đẹp pháp trường.
Cung lẳng lặng đưa tay đón nữ tù, nhưng Bạch Ma Nữ đã giục ngựa tới cạnh tù xa, tự tay xích Long Nữ cẩn thận. Vừa xong, chợt có giám binh De la Table đến.
Một hồi còi rúc, tù xa chuyển bánh. Quân lính trùng trùng, vây như nêm cối, cuốn như giông về nẻo Cao Bằng.
Ngay lúc đó, từ một khe núi ba bóng nhân mã chợt hiện ra, gò cương, nhìn theo hút đoàn tù xa. Không ai khác thầy trò Đại Sơn Vương. Tướng lạc thảo Vân
Nam trầm giọng:
– Muộn rồi! Giờ không còn cách nào bằng… tới Cao Bằng coi máu đổ và xem tài lão rể Lưu Vĩnh Phúc! Biết phải làm gì chứ?
Hai viên tướng râu xồm cùng gật đầu. Ba bóng nhân mã vụt đi trong bóng mờ, thoắt đã biến dạng giữa rừng cây! o O o
Rồi bình minh đỏ ửng trời Đông. Cả biên thùy, Hà Giang, Lào Kay, Bắc
Cạn, đều đục ngầu sát khí. Dân trấn biên kéo nhau tới pháp trường xem “trảm thủ” giặc Cờ Đen ngay từ lúc bóng tối chưa tan hẳn.
Cùng giờ đó, Cao Bằng rộn rịp gấp trăm, phố phường đầy nhóc lính, dân, mới 5 giờ 10 đã đổ tới pháp trường như thác lũ.
Bãi chém đông như kiến, đường đến bãi dân đứng dài hàng cây số, khắc khoải đếm từng khắc một, như đợi chờ phút giây sinh tử của chính đời mình.
Lính tráng kỵ bộ rầm rập qua lại. Loa gọi vang rền sắp đến giờ trảm thủ.
Cờ quạt lộng bay, khán đài chật ních, chỉ còn hàng ghế đầu.
Thời khắc nặng nề. Rồi pháp trường đỏ khé nhìn rõ mặt người. Ánh bình minh nhuộm đẫm, coi mặt ai cũng đỏ như tẩm máu. Dân gian sốt ruột bàn tán xôn xao. 5 giờ 20. Vẫn không thấy nữ tử tù. Thình lình nghe tiếng kèn “bú-dích” nổi dập dình ngoài bãi, ập lại gần, hai chiếc thiết xa lồng lộn nghiến răng xồng xộc tới đậu ngay ngoài cổng, chĩa súng hầm hập ra. Rồi kỵ binh, bộ binh tiến vào, trấn khắp Đông Tây Nam Bắc! Một đội kỵ binh, dàn dọc từ cổng vào tận khán đài mở một lối đi rộng. Im phăng phắc. Chỉ còn tiếng chân người ngựa rập bước theo nhịp kèn. Bỗng có tiếng hô binh. Mọi người trông ra, phía sau là một rừng lính khố đỏ, khố xanh, kỵ bộ uy nghi, đi theo một đội kèn Tây, trống Tây, ăn mặc sặc sỡ. Giữa rừng gươm súng là quân kỳ chủ soái biên thùy vươn lên, có hàng đoàn quân túc vệ theo là viên quan Sáu tướng tư lệnh biên thùy, công sứ Cao Bằng, tuần phủ Cung Đình Quyền, sau lưng có cá võ quan cao cấp. Sát cạnh đám vệ binh của lão tướng
Tây, còn mấy hàng quân thủ túc của quan triều, quấn “xà-cạp” trắng, đeo cả mã tấu, dàn đầu bọn này là một hàng bảy người mặc quần áo chàm, đi sát sau lưng bọn tướng Tây triều chừng tay hộ vệ đặc biệt. Đoàn binh phò đám văn võ quan chức tiến vào giữa bãi, thì có Đại tá De la
Tour – chỉ huy cuộc hành quyết – dẫn bộ tham mưu ra đón, đưa vào thẳng khán đài. Thiết xa rẽ ngang, đậu bên hàng quân túc vệ Tây Ta dàn tả hữu vòng ra phía sau khán đài.
Tướng De Monstre đáp lễ cùng đám quan chức cao cấp ngồi xuống ghế nhìn một vòng. Giữa rừng người là một rừng gươm súng ngửi trời. Những con ngựa Tây,
Nước Hai nhô lên cao mang trên lưng toàn quân thiện chiến. Hỏa lực kỵ bộ đến năm, sáu tiểu đoàn hiện diện. Không kể lính khố xanh của giám binh Cao Bằng và hai cánh quan Phi Mã Yên Sơn, Phi Mã Biệt Sơn bố phục ngoài xa.
Cọc trảm cắm cách khán đài chừng 40 bộ. Ba đao phủ thủ cao lớn, vạm vỡ đã chống mã tấu túc trực gần cọc trảm, cả ba đều bịt mặt cho tử tội khỏi oán – theo lệ cổ. 5 giờ 25.
Bọn trống chiêng thắt lưng xanh chít khăn điều quấn ống sớ, áo the, đã bắt đầu sốt ruột, mân mê chiếc dùi. Trong khán đài quan khách xem chừng đã khắc khoải luôn mắt liếc giờ.
Công sứ Cao Bằng khẽ hỏi:
– Còn năm phút nữa… sao chưa thấy? Hay có gì trục trặc?
Tuần phủ Cung Đình Quyền điềm nhiên:
– Quan Chánh yên trí! Có cánh cũng không thoát nổi! Đại nhân thấy không?
Ba đao phủ thủ kia toàn là tay lão luyện, cả ba đều thạo nghề chém treo ngành.
Nhưng lần này chúng sẽ biểu diễn lối trảm đẹp mắt hơn nhiều! Lối này, khắp biên chỉ có Đội Đởm biết trảm thôi!
– Có chi khác lạ?
– Lạ lắm! Nó vờn mã tấu cho tội nhân phải nghểnh cổ lên, bất ngờ phạt một nhát rất ngọt. Đại nhân thấy chiếc chậu đồng để trước cọc hai thước chứ? Thủ cấp sẽ bay đi nhảy vào chậu đồng và cứ thế vừa trợn mắt vừa quay tít coi rất thần tình!
Trăm nhát không sai một! Và nếu đại nhân muốn xem hai đao phủ thủ có thể vừa đôi mã tấu vứt hớt hết áo tội nhân, không phạm đến một cái lông tơ!
Cả mấy viên quan Tây cùng gật gù:
– Đầu nhảy vào chậu quay tít, được đó! Bản chức chưa được coi, còn hớt áo, không nên. Nó là đàn bà, để lõa thể… Khó coi!
De Monstre vừa dứt lời, bỗng nghe dân chúng reo hò inh ỏi.
– Đây rồi! Trời! Đẹp quá!
– Rồng cái! Đẹp như tiên!
Lính tráng lại một phen vút roi giữ trật tự. Đại tá De la Tour tiến ngựa ra đứng trước hàng quân lớn tiếng:
– Sửa soạn! Sắp đến giờ khai đao!
Ngay lúc đó, ngoài cổng, kỵ binh rầm rập tiến vào theo nhịp đại, tới giữa bãi mới hạ xuống kiệu băm. Viên giám binh Cao Bằng phi thẳng đến khán đài, phía sau Cung Đình Giáo cùng bọn thủ hạ áp giải chiếc tù xa chạy vào giữa lớp súng ống tua tủa, hai bên xe tù, Bạch Ma Nữ, Hàn Tố Liễu kèm sát, tay quất véo roi da.
Một tiếng hô lớn, cả cánh khố xanh lập tức đảo vòng sau khán đài ra tít ngoài bãi đứng. Bạch Ma Nữ theo giám binh vào thẳng khán đài ngồi, bảo tướng Tây:
– Suýt xổng tù! Nếu đến chậm nửa phút! Nó lừa giải huyệt, đã vọt ra ngoài.
Phải bắn bị thương mới tóm lại được!
Viên tướng Tây thở phào như trút được gánh ngàn cân. Rút đồng hồ quả quýt ra coi, vùng phất tay ra lệnh:
– Vừa đúng 5 giờ 20! Khai đao!
Soạt! De la Tour rút phắt kiếm Tây, hô lớn:
– Chuẩn bị hành hình!
Kèn “bú-dích” dập dình, vừa dứt. Tùng bi li! Tùng bi li!
Cả bãi im phăng phắc.
Rất nhanh mấy tên lực lưỡng nhảy vào tù xa lôi nữ tử tù ra, trói nghiến vào cọc xử trảm. Xích vẫn loảng xoảng. Long Nữ Ngân Sơn vô địch nữ tướng bị điểm huyệt, đưa cặp mắt lờ đờ nhìn quanh như muốn tìm nguồn hy vọng mỏng manh.
Khuy áo choàng cài vội, hai tên lực lưỡng ấn phắt nàng quỳ xuống, bẻ quặt hai tay vào cọc trảm, đầu chúc về phía trước! 5 giờ 25!
Cả pháp trường như tẩm máu rạng đông. Giám trảm quan Đại tá De la Tour vùng hô lên mấy tiếng rung động cả thanh kiếm Tây tuốt trần ngang sáng quắc.
Rập! Cả bãi chém ồn ào bỗng im phăng phắc vang lên gót giày “xăng-đan” nện vào nhau. Lính kỵ, bộ đứng yên như tượng, im đến nỗi nghe rõ cả tiếng ngựa quắc đuôi.
De la Tour cắm phập lưỡi kiếm vào bao, đảo một vòng ngựa, nhìn khắp dãy như soát qua mấy rừng mũi súng bít trời. Và về chỗ cũ, liếc vào khán đài. Lão tướng nhà nước lúc đó ngồi bất động, khuỳnh tay ngài trông ra bãi, dáng hài lòng, bỗng cất tiếng Quảng Đông truyền vọng ra:
– Gái giặc Cờ Đen! Trước giờ chết, còn muốn điều chi, cứ nói! Ta cho đặc ân cuối cùng!
Nữ tặc Ngân Sơn Long Nữ bị trói giật cánh tay khuỷu vào cọc trảm, mắt đang mơ màng nhìn vào cõi hư vô, nghe hỏi, vùng ngẩng phắt lên, giọng lạnh lùng, ngạo nghễ:
– Tây Quỷ! Muốn chém cứ chém mau! Nhưng đừng bịt mắt để soái cô còn nhìn thủ cấp nhảy múa trong chậu đồng!
Dứt lời, ngửa cổ cười sằng sặc. Lão tướng Tây hơi nhíu mày, đưa ngón tay trỏ vẫy nhẹ một cái.
Tùng bi li! Tùng bi li!
Chiêng trống rền rĩ đổ hồi, vang động khắp pháp trường, nghe tựa âm thanh quái gở từ bên kia thế giới vọng về, đưa hồn tử tù vào cõi hư không. Cả bãi nín thở, theo nhịp chiêng, ba tên đao phủ lực lưỡng vụt chuyển mình, đưa mã tấu ngang mặt, véo cái, ánh thép xé không khí, đao phủ tiến lên, vờn mã tấu, thân hình mềm như khúc rắn, lượn quanh cọc trảm. Lưỡi mã tấu liếm quanh cổ tử tù, vừa khít làn da, đủ để khiến tử tù lạnh gáy, vô tình cứ vươn về phía trước. Ba hồi chiêng vừa đổ nhịp mau, bọn đánh trống vừa hoành bộ giơ cao dùi nện mấy tiếng cuối cùng. Hai tên phụ đao cũng lui ngay lại, chánh đao vụt gia tăng tốc độ, vờn thật ngắn, ngắn mãi. Dư âm đồng, da trâu chưa kịp ngấm vào gió sớm, giám quan De la
Tour rút phắt cây súng lục, chĩa lên trời, vành môi hơi mím lại. Đúng 5 giờ 30!
Cả bãi muốn nghẹt thở, cùng cố nghểnh cổ nhìn nữ tử tội đẹp não nùng bên cọc trảm. Đoàng! Phập!
Súng hiệu vừa nổ, đao phủ đã nghiêng mình, chuyển thế, chém vụt xuống cần cổ tử tù.
Không bảo nhau cả bãi đều chớp lia mắt, dòm vào chiếc chậu đồng.
Một tiếng thét rợn người bỗng nổi lên, từ phía cọc trảm, một cái đầu lâu lìa cổ nhảy tót vào lòng chậu, đảo tít như lên đồng, phun máu phì phì. Hai con mắt láo liêng nhấp nháy, mồm há hốc nhe răng trắng nhỡn như nhát chúng nhân!
Và thốt nhiên, mọi người bỗng giật bắn mình như chạm phải điện. Vì mải lúc đó mới sực nhận rõ cái đầu nhảy vào chậu đồng không phải đầu đàn bà, mà lại là thủ cấp của đàn ông!
Tưởng huyễn mộng, ai nấy định thần trố mắt nhìn vào cọc trảm mới hay nàng nữ tặc Cờ Đen vẫn còn đó, đẹp tựa hồ ly, ngửa mặt lên, cười như điên.
Ngoài bãi chém, lúc đó, bỗng thiết xa rồ máy lao luôn lại chỗ nàng nữ tử tù.
Vừa kịp đỡ hắn hàng loạt đạn vãi ra.
Rất lẹ, viên tướng hộ pháp Cờ Đen Thiên Lôi Đả cắp luôn nàng nữ tặc vọt tới cạnh thiết xa.
Súng nổ chát chúa. Dân khóc như ri. Tiếng gai rợn lại nổi lên, lần này nghe đục ngầu tử khí.
– Bia thịt! Bia thịt!
Lập tức bọn Cờ Đen biến ẩn vào dân chúng vừa nã loạn vào lính tráng, vừa thét dữ:
– Giơ tay lên! Trái lệnh chết tươi! Tiến lên mau! Đi!
Họng súng, mũi dao kiếm thích vào người dồn thành hai cánh cung tràn về phía họng súng quan binh. Trong khán đài, bọn Đa Sát Thủ dồn ra. Dân chúng kêu khóc vang trời. Cả chục người chết gục.
Cánh binh hữu đã bị thiết xa cản, viên Thiếu tá hét:
– Xe sắt dạt ra! Đồ ngốc! “Mẹc”! Tả đội! “Phơ”! “Bia thịt” còn cách hơn chục thước, bọn lính tả có mấy hàng giục ngựa lại, nhắm bọn Đa Sát Thủ, A Thiên lảy cò.
A Thiên còn đang thất kinh đỡ Long Nữ, thiết xa đã khạc đạn như mưa. Cả loạt lính đổ nhào.
Tiếng âm Đông Quân truyền:
– Ẩn dưới họng súng! Giáp sắt đâu! Bọc soái cô, cho lên xe!
Từ đám khán giả, một bộ giáp lớn ném vào. Ngay lúc đó, bọn thủ hạ viên tuần phủ có mấy tên nương đạn yểm, lăn đến sát thiết xa. A Thiên hạ được hai tên, vừa cúi nhặt giáp, đã bị hai họng súng chĩa vào.
Trong lúc thập tử, thình lình từ đám đông, có một bóng người mặc y phục chàm nhảy vụt ra gần thiết xa, một tay vẫy súng hạ hai tên, tay kia gạt bắn A
Thiên, cắp phăng Long Nữ lăn vèo vào đám đông. Đoàng đoàng! Đạn cày sát người. Lập tức chiếc thiết xa lao theo, có tiếng quát:
– Bay đâu! Mau cứu soái cô!
Mãi lúc đó, lính tráng mới nhận rõ tiếng âm âm từ trong thiết xa phát ra.
Cuối đội quân hữu, bỗng có tiếng Cung Đình Giáo quát lớn:
– Coi chừng! Giặc đã chiếm xe sắt! Gọi hai cái tiền môn! Đạn vẫn xé bãi, nhốn nháo kinh hoàng. Thiên Lôi Đả bị một phát xước vai, vẫn đuổi theo người cắp Long Nữ. Đa Sát Thủ cũng liều dẫn thủ hạ vọt qua luồng đạn, lao nhập đám đông, bắn lên một trái hỏa pháo. Lập tức có tiếng reo vang dậy, rồi hai cánh quân Cờ Đen từ đâu xông vào đánh tập hậu quan binh.
Lúc đó, bọn tướng De Monstre đã theo đường hầm rút ra phía sau cánh hữu đội, đặt Ban chỉ huy dưới một khu cây rậm có nhiều gò đống. Lão tướng Tây chiếu kính quan sát. Quan binh đông gấp bội, nhưng bị “bia thịt” cản rất bất lợi. Bắn bừa bãi sẽ chết dân.
Cung Đình Giáo khẽ bảo:
– Tình thế này, chiến trường đây không đắc sách. Xin nới vòng binh ra xa, rồi kẹp lại! Để bọn tôi vào đám đông, tỉa chúng!
Tướng Tây liền hạ lệnh đánh cầm chừng, nới dần, vắt đầu đuôi ra ngoài.
Bọn Cung, Hàn, Bạch cùng ít thủ hạ thạo võ lập tức rời hàng quân, nhập vào bãi, gặp Cờ Đen, bắn liền.
Giáo đang xung đột, chợt thấy bóng kẻ lạ cắp Long Nữ chạy xế trước vội rượt theo. Lúc đó, chiếc thiết xa cũng đang xả máy hướng theo bóng lạ, đi tới đâu, dân chúng chạy tứ tán, đè lên nhau kêu khóc inh ỏi.
Thiết xa ra gần cổng, bọn Cờ Đen cũng đã dồn “bia thịt” kín họng súng quan binh, cứ chuyển theo như đàn kiến.
Ngay khi đó, hai chiếc thiết xa ngoài cổng đang chạy vào tiếp viện quan binh. Một chiếc ăn luôn một phát đạn lớn. Lúc đó mới hay xe giặc chiếm, cứ thế vừa đào vừa bắn nhau dữ dội.
Bỗng nghe một hồi kèn đồng rền rĩ. Các cơ đội xế cổng đều tránh dạt xa.
Hai cái xe sắt nhà nước đang bắn cũng vùng chạy ra ngoài cổng. Lúc đó, chiếc xe
Cờ Đen ám đoạt đang xoay trở gần đấy, kèn vừa dứt, thình lình từ trong xe có một hình thù kỳ dị vọt lên như chiếc pháo thăng thiên, lại theo một bóng nữa.
Cả hai vút lên và vừa sà xuống nóc cổng, chợt nghe một tiếng nổ kinh hồn, chiếc xe bắn tung lên, ngã lăn kềnh cháy ngụt.
Hình thù đáp xuống cổng, vươn vai một cái, hiện ra một pho tượng sắt cao lớn, mắt sáng đèn pha, trỏ về phía quan binh, giọng vờn sát khí:
– Tây Quỷ giỏi lắm! Giật địa lôi hại ta sao nổi! Biết điều đình binh không ta cho nổ biên thùy thành bình địa!
Vừa quát, vừa đảo nhìn tứ phía, hét: – Nó chạy phía Bắc! Đuổi theo mau!