Lát sau, bỗng lại thấy bóng mặt cô hồn xuất hiện trong kẹt đá đặt Viên Nhi. Y vỗ tỉnh, giải huyệt cho đứa bé vượn, đoạn nắm vai, quắc mắt long sòng sọc coi dữ tợn hết sức:
– Viên Nhi? Sao lại nói dối ta? Muốn ta xử như tên đeo sọ người? Hãy nhìn mắt ta đây! Tiềm thức mi trỗi dậy! Nghe đây! Các cơ quan bí mật vùng núi Quạ? À! Nơi nhốt ông già đó? Ông già đó cách đây hơn năm bị Thần Sầu Bà bắt về. Đứa nhỏ có vẻ hoảng hốt, lắc đầu lia lịa, mắt láo liêng như sợ có người dòm:
– Không không! Không có ai đâu! Mà ông hỏi làm gì?
– Viên Nhi! Hãy ngó ta! Cứ nói! Ta bảo toàn cho không sợ. Phải một người bị bắt nhốt… một ông già râu bạc hay một người nào đó? Cách đây hơn năm… Đứa bé rừng đứng im, cố moi trí nhớ, lẩm bẩm:
– Hơn năm… Không có! À, mà có có… chị Đèo Nguyệt Tú con ông tù trưởng Thái Lai Châu. Phải rồi, ngày ấy Viên Nhi có theo lên “vụng chết” Hắc Giang, sư mẫu cứu chị Tú…
– Không phải! Ta muốn hỏi: người đàn ông. Một ông già hay một xác chẳng hạn! Cố nhớ coi! Đứa bé mơ màng, chợt “à à” liền mấy tiếng:
– Có có… đúng rồi, có một người nhưng không phải một hình như một cái xác hấp hối. À, mà không có một tiếng nói mà! Đêm đó về mùa xuân, nửa đêm có mưa bụi. Viên Nhi đang ngủ, chợt sư mẫu về, vác theo một bọc trở vào trong. Liền mấy ngày, sư mẫu không đi đâu, Viên Nhi đem trà nước vào, nghe trong rèm có tiếng ai than, rồi sư mẫu quát:
– À… tận tình… chẳng nghĩ đến mụ, rồi sẽ biết… Hà hà…
Liền đó, lại có tiếng rú ghê gớm. Viên Nhi sợ quá, chạy vội đi. Từ đấy không thấy gì nữa.
Người bịt mặt trầm ngâm giây lát, dịu hỏi giọng rung hẳn vì xúc động:
– Không thấy gì? Nhưng sau đó Viên Nhi có thấy sư mẫu làm áo quan… hay sai nấu thêm cơm? Đứa bé lắc đầu.
Người lạ đứng im, lại hỏi nhỏ, lát sau dịu bảo:
– Thôi! Ta tạm đặt Viên Nhi nằm kẹt đá, ta vào có chút việc.
Phút sau, đã thấy người bịt mặt xuất hiện trong tòa cổ miếu, đảo khắp đường ngang ngõ tắt, dáng bực bội thất vọng, bỗng nhiên vùng đưa tay rút soạt gươm đeo sau lưng, bật kêu:
– Trời! Tập di thư… đâu rồi? Lẽ nào bị lấy trộm? Thôi rồi! Chắc rớt lúc đánh nhau.
Thân hình vọt đi như tên bắn, thoắt đã ra triền núi Đông cúi tìm từng kẹt đá, thất vọng, bèn lần đến khu cửa khẩu nhảy luôn xuống.
Trong lúc đó, trên nắp nhốt Đại Sơn Vương, quái bà Thần Sầu Bà vẫn ngồi nhập định, thình lình mở choàng mắt ra long sọc, vùng đánh tay lẩm bẩm, bỗng kêu lên:
– À! Có kẻ đột nhập mật thất! Quẻ động nội cung! Hay bọn lão Sói lộn lại.
Quái bà rúc lên một tràng tiếng Mèo. Từ triền dưới, bảy cô gái mặc y phục Mèo quấn xà cạp đeo súng vọt lên cung kính cúi đầu.
– Bẩm… Mẫu chúa truyền!
– Trấn cửa vực này. Nghe thấy bóng người lên, cứ nổ súng. Bán ẩn bán hiện, nếu gặp người ngoài, chớ ra mặt, phải báo ngay. Bọn chúng bay không địch nổi chớ khinh xuất!
– Dạ!
Ba cô gái Mèo vọt vào bóng tối, còn bốn cô chống súng trấn bốn góc cửa nấp.
Quái bà bắn mình đi thoắt đã tới cửa khẩu, vượt đường ngầm tới căn mật thất. Im lặng. Trong nhà thoi nến trắng vẫn cháy dật dờ, hao mòn gần hết. Điểu Nhi chừng mệt mỏi, đang ngồi ngủ gật trước bàn mộc.
Quái bà nhẹ tiến đến bên cửa. Bất ngờ vung tay búng “véo véo” vào bức rèm sau lưng Điểu Nhi.
Chỉ xé không khí, vút vút, tay khoa như máy, mười ngón bật bật, bức rèm hơi động đậy như có gió thoảng. Điểu Nhi giật nảy mình, dòm lại thất kinh, thấy bức rèm đã thủng lỗ chỗ như dùi. Véo véo gió động đâu, tiếp tục thủng đó, loáng đã hàng mấy chục lỗ.
Bên trong rèm, vẫn im lìm. Ngay lúc đó, quái bà nhảy vọt vào như con cắt, đưa tay vén soạt bức rèm.
Phòng trong trống không bóng sinh vật.
– À… Nó chưa kịp vào đây! Hay lắm! Điểu Nhi! Ra ngoài cửa, cẩn thận nhe!
Sư huynh mi bị bắt cóc đó!
Cô bé chim ngơ ngác, lắp bắp, chạy vội ra ngoài, ẩn vào một góc tối.
Mật thất không người. Quái bà kéo rèm xuống, tiến thẳng đến phía cuối gian phòng, đưa tay búng nhẹ mấy cái. Bỗng nghe như có tiếng đàn chai nổi lên. Tình tang tang… tang tình…
Liền ba nhịp, vách đá bỗng nứt đôi, đẩy ra cái ngăn kéo nhỏ bằng sắt. Quái bà thò tay nhón một cái hộp bằng bao diêm, mở coi, đoạn lại bỏ vào. Nhịp đàn chai lại nổi, vách đá khép lại vừa khít.
– Có thế chứ! Kể ta cũng quá lo xa. Dẫu đứa nào vào cũng đừng hòng tìm ra mà. Hé hé!
Quái bà vọt ra mất dạng. Điểu Nhi từ ngoài bước vào, ngồi chỗ cũ tiếp tục ngủ gật. Đêm vào khuya. Mật thất im vắng mênh mông, một cơn gió lùa ruột núi tun hút, ngọn bạch lạp vật vờ rạp xuống.
Thình lình từ dưới gầm bàn một bóng người ló ra vụt cái đứng sững sau lưng Điểu Nhi.
Tự nhiên cô bé rừng động vai, mở choàng mắt. Nhưng bóng người vừa đeo dính dưới gầm bàn đã phẩy nhẹ tay một cái, cô bé lại gục xuống ngủ vùi. Người lạ lách vào sau bức rèm tiến về phía cuối buồng. Không ai khác người bịt mặt đã bắt Viên Nhi. Rất lẹ, người này giơ tay diễn lại đúng động tác của Thần Sầu Bà.
Ba nhịp đàn chai từ trong đá phát ra. Quả nhiên mặt đá nứt đôi, nhả ra một ngăn đựng hộp. Người lạ thò tay nhón lấy.
Bỗng “veo” một cái, trong hộp bắn ra một vật loằng ngoằn. Trong lúc quá bất ngờ, người lạ bị vật kia mổ trúng mu tay, “nhói” cái tựa kim châm.
Nhưng người này cũng kịp đảo vụt tay, kẹp nghiến lấy vật kia. Nhìn lại mới hay con phi xà rất nhỏ, sắc khoang. Vừa lúc đó, một con thứ hai bắn ra. Nhưng người lạ đã biết, lập tức xuất thủ kẹp nốt. Soi dưới ánh nến mờ sắc vảy óng ánh như dát ngân nhũ, nhìn mu tay, vết mổ đỏ như son, người lạ quăng xác rắn, lẩm bẩm:
– Hừ! Gớm thật! Loại độc xà chính nòi phi xà cực độc chúa rắn trên Mang Bành Sơn đấy. Mổ một cái chết tươi, hà! Đoạn người lại thản nhiên mở tách hộp, vừa liếc vật đựng trong, bỗng sáng mắt bật giọng:
– À, mảnh họa đồ Bát Quái! Bảo vật Nam Bang. Đại Sơn Vương đã từ công phu tìm được bảy, còn một nghe đồn trong tay Lưỡng Diện Nhân, sao quái bà cũng có? Cái nào thực? Đang ngắm, bất thần người bịt mặt xẹt vút vào một góc.
“Véo véo” chỉ phong xiên rèm đỏ, rồi soạt một bức rèm vén tốc lên.
Sừng sững dưới ánh nến vật vờ, Thần Sầu Đoạt Mệnh Bà đứng thõng tay ve vẩy, mắt long sọc, cười sạo gợn:
– Giỏi lắm! Mụ chậm nghĩ mất mấy chục giây! Đeo dưới gầm bàn… hừ! Trộm bảo vật của Miếu Âm Hồn! Như bỡn! Biết điều đặt trả đó, cút đi!
Người bịt mặt cầm hộp giơ cao, thản nhiên cười:
– À! Thần Sầu! Hay lắm! Mỗ đang cần gặp! Muốn lấy lại hộp, hãy trả lời câu mỗ hỏi.
Quái bà quắc mắt, bỗng để ý thấy hai xác rắn dưới nền đá, vùng hỏi:
– Mi kẹp chết rắn? Lẹ tay đó!
– Dở chứ! Vì bất ngờ bị nó mổ một nhát vào tay! Đây bà già coi!
Miệng nói tay giơ dưới ánh nến. Thần Sầu vừa nhác thấy vết đỏ, phá lên cười ác quái:
– Khé khé! Hỏng rồi con ơi! Phi xà chúa đã mổ, Biển Thước tái sinh cũng không cứu nổi! Nếu vậy mụ đứng đợi đây xem mi tím thịt ngã lăn ra chết bây giờ?
Người lạ nhìn vết mổ hỏi:
– Thật không thuốc nào chữa nổi ư?
– Đúng! Phi xà chúa còn độc hơn hồng xà, thanh xà. Đôi này mụ đã lấy giống trên Mang Bành Sơn đó! Trừ phi… mi mang nọc rắn độc trong mình!
Người lạ chợt cười bảo:
– À, nếu vậy, rắn lão bà mổ không sao. Vì… mỗ đây chính là người nọc rắn đó! Trách nào chỉ hơi ngứa như muỗi đốt thôi!
Quái bà nheo mắt, có ý không tin, chợt người lạ cao giọng:
– Sao? Bà lão có chịu điều kiện không?
– Chó đú! Cứ nói!
– Cách đây hơn năm, vào mùa xuân, lão bà mang về một ông lão, giờ ông lão đó đâu? Còn nhốt hay đã nằm yên dưới mộ?
Vừa nghe dứt, tự nhiên quái bà nổi lôi đình thịnh nộ, trợn mắt hét:
– Chó đú! Bà nội mi vác ông lão về đây làm gì? Phải ngoại tổ mi đó không?
Lời vừa buông, tay đã hoa lên, đánh ra nhát phản phong cực độc dữ nóng ran buồng đá.
– A! Hỏa phong lôi!
Không nao núng, người lạ vung tay phá gió kình đánh lại. Nghe “bùng”
“bùng” mấy tiếng, mật thất bị chấn động, bắn tung đồ vật. Thần Sầu bật lùi lại ba bộ, còn người lạ chỉ lùi một bước, quái bà thét lớn, rút soạt lưỡi mã tấu Lý Tú Thành, chảm “véo”. Người lạ cũng rút phắt gươm ra, vẫy mạnh. Vừa nhác ánh xanh lè, quái bà bỗng giật mình bật kêu:
– Thanh kiếm! Thanh kiếm!
Chát! Tóe hào quang, mã tấu bắn lộn lại. Quái bà lẹ tay chụp nghiến lăn vèo vào góc nhà.
Người lạ đảo tay bắt kiếm, thình lình nghe “xịch” trên trần một lưỡi đao khổng lồ sáng quắc chém vụt xuống, đồng thời từ phía dưới vách đá liền mấy mũi giáo phóng ra. Vẫn điềm tĩnh, người lạ lắc mình tránh lưỡi dao, đồng thời khoa tay gươm chặt lìa một đường bán nguyệt.
Chát! Chát! Giáo đứt đôi, nhưng ngay lúc cây đao khổng lồ hạ xuống trần nhà cũng chụp theo dưới chân, đá tụt sụp cái thành vực. Người lạ bị mấy phía giáo phóng, nhanh mắt lắc mình toan nhảy ra phía quái bà. Nhưng một luồng kình phong độc đã lùa vào, mất đà bất ngờ người lạ rớt luôn xuống vực thẳm. Mảnh trần nhà ập kín, im lìm nặng nề, hiện rõ một phiến thép dày hàng gang tay xám xịt.
Thần Sầu Bà tiến lại, vặn chốt kỹ lưỡng, cau mày lẩm bẩm:
– Chó đú! Phen này toi mạng! Nhưng biết đâu nó sẽ gặp… Giờ phải lên tính chuyện tướng giặc Vân Nam. Còn thằng này có thoát đằng trời không ra nổi âm ty!
Dứt lời, quái bà giải huyệt cho Điểu Nhi, truyền đi ngủ, đoạn thổi tắt ngọn nến, đóng cửa mật thất, bỏ đi liền.
Trong khi đó, tại cửa vực xế Bắc triền, bảy cô gái Mèo đệ tử quái bà vẫn chong súng trấn chủ cẩn thẩn. Ba nàng ẩn trong bóng tối canh phòng quanh triền, bốn nàng tựa ghềnh coi cửa vực. Đêm khuya, khí đá lạnh lùng, đìu hiu muốn ru người vào giấc ngủ canh dài… Bỗng từ đâu âm thanh kỳ dị nổi lên, nổi chìm khắc khoải mơ hồ, một thứ âm thanh chưa bao giờ gái Mèo được nghe, chờn vờn như từ một thế giới xa xôi nào “ám” về, nửa giống địch lộng, nửa như tiếng tù và rúc đêm đông.
Cả bảy nàng cùng nghiêng tai, dòm tứ phía.
– A, tiếng kèn chi… ai thổi?
Không phải đợi lâu. Âm thanh thoạt đầu mơ hồ nhẹ như mơn trớn vụt chuyển như gió táp mưa sa, ầm ầm tựa trời long đất lở, dùi vào tai bảy cô gái Mèo như sấm, sét nổ, ào ào thiết kỵ, cuồng phong, càng lúc càng gia tăng áp lực. Cả bảy nàng đang đứng bỗng buông thõng tay súng, lờ đờ, tâm thần chấn động, âm thanh ập gần, náo loạn như muôn ngàn sấm sét đao binh chuyển tới, cực kỳ thôi thúc, cả bốn nàng trấn cửa bỗng thích chí cất tiếng cười sằng sặc, múa tít súng nhảy như điên, miệng hát líu lo:
– Ý a, tiếng kèn từ địa ngục! Thổi đi! Cho em cỡi tiếng kèn lên chơi Hoàng Su Phì!
Từ xó tối, một nàng dáng đội trưởng nhảy vọt ra, mặt thất sắc hét:
– Nguy! Nguy! Xuống báo ngay sư mẫu. Tiếng ma quái từ dưới vực. Bịt tai mau! Bịt tai mau!
Mấy nàng vội đưa tay bịt tai, nhưng âm thanh lúc này đã ập tới, như dùi vào tai khiến cả nàng đội trưởng cũng bứt rứt chạy lăng xăng nhảy tít lên tấm thạch bàn vực.
– Coi chừng! Coi chừng!
Tất cả cùng nhảy lên theo rồi lại nhảy xuống chạy quanh như đèn cù, tay vẫn múa súng cuống cuồng.
Từ dưới vực âm dị đang ầm ầm sấm sét, chợt lại chuyển sang êm đềm, nỉ non như khóc như than, làm cả bảy cô gái Mèo lại đờ ra, mê cuồng cứ múa súng hệt chạy đàn quanh cửa vực. Âm dị càng huyền diệu, tấm thạch bàn bỗng chuyển nhẹ thoảng như có khói mờ xông lên.
Rồi phiến đá hơi nghiêng. Kịch. Từ dưới, một luồng ánh sáng nháng lên như chớp tóc, liền hai cô gái bị đứt đầu, ngã vật thây xuống, thủ cấp lăn lốc tựa gáo dừa, đảo dật kẽ đá.
Năm nàng còn lại thất đởm trợn tròn mắt, nàng hét:
– Bắn! Bắn! Nổ lên! Nổ lên!
Cả mấy họng súng chia, nổ loạn.
Thình lình từ xó tối triền bên, một bóng đen ngòm quái gở nhảy vọt ra, đứng sát thạch bàn chống gậy xương dòm bọn gái Mèo, cười the thé:
– Âm thanh công kích! Lũ chó cái này phát điên đến nơi rồi! Đứa nào bị nhốt dưới đó?
Bọn gái trấn vực đang cơn mê loạn, xịch thấy bóng áo thụng đen, cùng trố mắt dòm thấy mặt trùm, cổ đeo xâu chuỗi sọ, cả năm nàng cùng mất vía, giật lùi hết:
– Áo thụng đeo sọ, người là ai?
– Chó sói thành tinh đây! Chớ sợ! Tao không ăn thịt đâu! Đứa nào dưới đó?
– Không biết! Bị sư mẫu hất xuống…
Bóng đen không ai khác hơn là Sài Kíu Tinh Phản Tây Phàn, dòm phiến đá bốc khói, mép vực vừa tắt ánh trăng, lẩm bẩm:
– Thả kiếm giết người! Ô hay, thằng bịt mặt vừa nãy?
Bỗng nghe binh một tiếng, tấm thạch bàn dày bị bắn tung lên một khoảng bằng cái thúng đá vụn bay rào, trắng xóa như vôi. Dòm tới, đã có một lỗ thủng.
Nhanh như con cắt, Sài Kíu Tinh vung cả hai tay áo thụng đánh thốc xuống lỗ hổng.
Bùng! Âm hưởng ngân truyền, có tiếng thét lớn từ dưới vực đưa vọng lên, hút chìm.
Rồi âm thanh phụt tắt, bốn bề im lìm như chết.
Phía Đông, trăng hạ tuần vừa nhô hình lưỡi liềm mỏng cài ngọn núi Ô Đầu, vàng bệch như da người chết trôi.
Ngay khi đó, một bóng người vừa thét vừa từ phía trong khe núi vọt tới: Thần Sầu!
– Âm thanh giết người! Tránh xa cả ra! Tránh ra!
Vèo cái, quái bà Miếu Âm Hồn đã đứng kế thạch bàn, Sài Kíu Tinh dộng chát đầu gậy xương, cười đắc chí.
– Chớ lo! Lão già đã đẩy nó xuống đáy vực rồi! Giờ này chắc đã tan xương!
Quái bà lia nhỡn tuyến dòm lão Tinh, cười nhạt:
– À! Sói già Tây Phàn! Mò đến đây làm gì?
– À! Có chút việc riêng! Mấy đứa nào đó?
Quái bà liếc hai cái xác đệ tử cụt đầu, nghiến răng:
– Sói già giết học trò ta?
Sài Kíu Tinh ngửa mặt cười khà:
– Bạc ngôn! Lão già làm ơn nên oán, không có lão già, nó đội đá chui lên rồi!
– À! Sói già đâu có thích giúp ai? Muốn gì?
Sài Kíu Tinh cười ré:
– Muốn coi mảnh họa đồ Bát Quái! Động chủ Tây Phàn mới định một quẻ, được tin Lưỡng Diện Nhân mới gửi lão bà Thần Sầu nhờ giữ giúp!
Thần Sầu cười thét:
– A giỏi! Ta mới cướp được của tên hai mặt nhưng số sói già đen, tướng giặc Vân Nam mới phỗng trốc tay rồi! Ta lừa đẩy hắn xuống dưới đó!
– Ôi cha! Nói vậy “kho tàng Tôn Thất Thuyết” nằm dưới đó rồi! Lão gia muốn chia đôi đồng đều, chịu chớ?
– Sói ngốc! Mi không loạn óc sao dám mở miệng nói câu ngu xuẩn đó! Hé hé! Một cái vảy vàng, đừng hòng sờ tới! Vàng ròng chồng chất. Mi định ăn trộm vàng của mụ là mi tới số!
Dứt lời, Thần Sầu hú lên một tràng lảnh thé, nhất hô hạ ứng, thủ hạ rùng rùng đổ tới. Sài Kíu Tinh hét, “À! Mụ già này độc bụng ăn tham! Tây Phàn đâu?” lại có tít dưới dạ ran. Quái bà tính lăn xả vào nhau đánh nhau hét như sấm, chung quanh súng bỗng nổ ran, nháy mắt một khu núi Quạ đã thành bãi chiến, tiếng người kêu rú lê thê.
Trong khi đó dưới đáy hang, Đại Sơn Vương đang ngồi tính kế, bỗng nghe phía trên súng nổ ran, tướng Thần Xạ nhún vai, chợt nhớ cuộn giấy bắt được, bèn lấy ra, chiếu đèn coi.
– À ra thế! Bí mật về gia phả họ Lê! Tập gia phả ẩn tàng nơi chôn dấu kho vàng triều Nguyễn, thiên hạ hiện đổ xô đi tìm, như đường họa đồ Bát Quái. Cả nhà tuần phủ Lê Hoàn tan nát, cuốn gia phả không cánh mà bay mất, không ngờ lại vào tay ông già mặt đỏ! Hừ! Đây là di thư gửi Dũng sao lọt tay người bịt mặt? Hay hắn chính là người họ Lê?
Trăm mối ngổn ngang đầu óc tướng lạc thảo Vân Nam đảo lộn quay cuồng, huyết quản sục sôi, hình ảnh kho tàng vô giá hiện lên sáng chói, vàng thoi lớp lớp chồng chất trong tập gia phả yểm tàng trên Mang Bành Sơn.
– Ta mang lời nguyền thiêng liêng về nước, tìm bản đồ Bát Quái thu lấy kho tàng Nam Bang. Trăm ngàn gian hiểm, lấy gan nát óc bao năm, giết bao nhiêu mạng người… nay mới tìm được bảy mảnh, còn một mảnh cuối trong tay Lưỡng Diện Nhân, đường họa đồ Bát Quái trăm bước còn có một. Con đường gia phả họ Lê trăm bước đã xong, bí mật kho vàng để trên núi Mang Bành! Đọc đường ẩn tự là có cơ duyên đi lấy… đêm nay đáy vực lại tình cờ khám phá, rõ ràng đã có cơ duyên, chỉ còn việc đến Mang Bành Sơn là kho tàng đã nắm trong tay! Bao nhiêu huyết hãn… một khắc đền bồi… không cần đi tìm mảnh họa đồ Bát Quái nữa! Ý nghĩ dồn dập, máu càng sôi, cảm khái bốc cao vòi vọi, tướng lạc thảo cầm tập sách giơ cao, cất tiếng cười vang:
– Bí mật kho vàng! Đội ơn Thượng Đế đã run rủi cho kho tàng nước Nam lại về tay người Nam! Cám ơn Thần Quân mặt đỏ không đem bí mật xuống tuyền đài!
Dưới vực sâu, tiếng cười của viên tướng lạc thảo dọc ngang bốc cao sảng khoái như hồi chuông chiến thắng kỳ diệu… Nhưng thình lình tướng núi im bặt, ngồi bất động, thừ hẳn một mặt thở phào một hơi dài, chân mày díu lại nhìn ngọn lửa nến, lẩm bẩm:
– Nhưng còn Thái Dũng! Ta đã nhận nó là em, truyền nghệ bắn, cả nhà nó tan nát vì gia phả, máu họ Lê rỏ khắp nẻo đường, cuốn di thư này, Thần Quân gửi nó, và máu nó đã rỏ nhiều trên thư này! Nó, Dũng họ Lê, ta đã xót tình hiếu tử, nhận nó là em, gọi nó bằng hiền đệ!
Tướng núi càng lúc càng trở nên bâng khuâng rất lâu, mới cầm ly cà phê khuấy tan đường, nhắp từng ngụm nhỏ, vớ lấy di thư coi, rồi lại đặt xuống, lời Voòng, Thoòng văng vẳng bên tai.
Trong rặng núi Bằng giang dạo nọ, sau vụ Cờ Đen cướp pháp trường, Đại Sơn Vương gặp Thái Dũng, cứu khỏi tay kiếm dữ Đông Quân, nhận Dũng là em, Voòng Lầu, Thoòng Mềnh đã ngỏ lời can gián, nói rõ những cái khó xử về sau, khi biết Dũng cũng mang lời nguyền tìm lại gia phả họ Lê.
Hai người cùng một đích, dầu theo hai ngả đường, biết đâu không có phút đối đầu? Và khi đó Đại Sơn Vương quyết lòng nhận Dũng, bảo với hai viên cận tướng là sẽ chỉ theo họa đồ Bát Quái mà thôi!
Nay trớ trêu, bí mật gia phả họ Lê lại lọt vào tay chàng.
– Không! Một lời như dao chém đá. Ta đã nói theo đường Bát Quái, di thư này của Thái Dũng, phải tìm trao trả nó! Dũng nó người họ Lê, ta đã nhận là nghĩa đệ.
Tướng lạc thảo dằn từng tiếng đứng phắt lên… thở phào một hơi như trút hết ngàn vàng ra ngoài. Đoạn cúi nhặt tập di thư cuộn lại, bỏ vào túi áo trong, bỗng cất tiếng cười lớn:
– Tìm trả Dũng! Ý được lắm! Nhưng còn vực sâu đây! Vực sâu không lối thoát! Thân chim lồng, hừ! Cạm bẫy quái bà! Còn vực thẳm đây!
Tướng núi đưa mắt nhìn quanh, ánh nến vật vờ đổ cái bóng chàng lên vách, đen ngòm như hình bóng âm u của tử thần.
Vừa toan rút chiếc đồng hồ quả quýt trong túi ra xem giờ, thình lình có một luồng gió lùa xoáy tròn đáy vực, ngọn nến kéo dài, lửa đèn cồn xanh lè dẫy dụa kêu phè phè. Đưa tay vặn tắt đèn cồn, còn đang ngạc nhiên chưa biết gió lùa lối nào bỗng nghe văng vẳng có tiếng Thần Sầu Bà gọi lảnh thé:
– Tướng giặc Vân Nam! Tướng giặc Bắc Thần! Đại Sơn Vương cau mày, liếc nhìn quanh lẩm bẩm:
– Mụ gọi! Chắc đã sang canh!
Bèn tiến ra sát ngoài, dòm lên, nhưng vẫn thấy tối om, liền lên tiếng:
– Có mỗ đây! Phải mụ Miếu Âm Hồn đó không?
Tiếng Thần Sầu hắt xuống theo chuỗi cười ngạo:
– À, tướng giặc vẫn mạnh giỏi chứ? Gần tàn canh rồi đó! Đã nghĩ kỹ chưa?
Mụ cho hay: còn không đầy hai mươi phút đó! Đại Sơn Vương cười ngất:
– Khỏi nghĩ! Mỗ đã định rồi!
– Sao?
– Lên xẻo mép nhà mụ và quăng xuống cho cẩu!
– Khé khé! Nghe được tiếng khảm khắc kêu không? Gần gặp nhau rồi đó!
Các đồ hơi độc đã để sẵn cạnh mụ rồi đó! Lại có cả trái địa lôi nữa! Này! Liệu dưới đó có chỗ tránh lôi phục không?
Vòm trời vàng bệch hé mở thoáng lại khép kín… im lìm… Đại Sơn Vương quay vào, đảo quanh vách đá, đưa tay đẩy thử. Vô ích.
Lòng vực không có chỗ tránh địa lôi. Hay chỉ vài trái tạc đạn quăng xuống cũng đủ nguy rồi. Đại Sơn Vương bâng khuâng quơ các thứ bỏ vào “sắc”, bỗng thoảng có một hơi gió phả vào mũi, rõ ràng có mang theo một thứ hương hăng hắc tựa mùi hoắc hương pha da hợp. Liếc chiều nến rạp, tướng núi bước đến bên vách, nơi có nước rỉ ướt sũng.
Hít liền mấy hơi dài vẫn thoảng có mùi hăng hắc lẩn quất giữa mùi rêu đá, tướng lạc thảo Vân Nam càng lấy làm lạ, gật gù nói một mình.
– Không sai được, rõ mùi hoa ngàn cỏ nội. Suối rừng thượng du đất Bắc thường bờ bước hay có hải đường, dạ hợp, dạ lan hương mọc, phải chăng bên kia vách đá là triền núi có khe thác chi đây? Còn nhớ khi ta đứng trên triền với quái bà, chỗ có ghềnh nhấp nhô chỉ rộng mười lăm, hai chục thước, vực này ăn thẳng xuống, vách chắc không dày?
Bèn hú thử mấy tiếng, dò vọng thanh nhưng tiếng hú đã vào vách, hất lại, không vọng ngân, tướng núi bắt đầu hơi thất vọng, biết vách không có hốc, nhiều lắm chỉ có chút kẽ hở đá để thấm nước ngoài vào.
Thử mấy phía trong lòng vực, càng thấy vách kín như bưng, tướng núi lộn lại chỗ cũ, xòe bàn tay phải, vận hỏa kình đánh “bùng” vào chỗ rỉ nước.
Sức gió quật như vũ bão, vách đá bị ép bung ra từng mảng, đá vụn bay rào rào. Nhưng, dưới ánh nến vật vờ, vách đá vẫn lỳ lỳ dày đặc như bưng. Bực bội, tướng núi vận cả hai tay, đánh luôn phát cặp. Sức kình lần này dữ hơn lần trước mấy lần, điện công quật đá nóng như nung, khét lẹt, bụi trắng bắn đầy ngực áo.
Nhìn lại, vách đá thủng một lỗ bằng cái thúng sâu hoắm, nhưng vách núi vẫn trơ trơ, tuy xem chừng nước rỉ đã nhiều và mùi hăng hắc càng tỏa ngát.
– Lạ thật! Hay triền núi chỗ này thoải đầy ngoài điều dự ước? Nếu hàng vài mươi thước trở lên, sức kình có đánh thâu canh, tên điện cũng chưa thủng suốt…
Mà trên kia chắc đã sang canh… Còn gì? Đang lẩm bẩm, đảo óc tính kế, bất thần lại nghe tiếng quái bà Miếu Âm Hồn quát vọng xuống tựa dùi xiên:
– Tướng giặc Vân Nam! Hết hạn rồi! Chịu nộp bảy mảnh họa đồ không? Hay để mụ phải ném khói độc? Đại Sơn Vương cau mày không đáp, tiếng quát lại hắt xuống, lần này như rót vào tai:
– Sao im tiếng thế? Mạnh giỏi chứ? Hay đang nghĩ mẹo thoát vực? Này, mụ nói thật: chớ hy vọng hão huyền! Vực của mụ họa may Tề Thiên Đại Thánh mới “cân đẩu vân” ra nổi! Tướng giặc biết “cân đẩu vân” không? Đại Sơn Vương ngoảnh ra, hét:
– Mụ già thối! Chớ lắm lời đắc chí! Ta sắp lên rồi đó! Liệu hồn! Chủ soái Thập Vạn Đại Sơn Vương mà nổi giận, cả núi Quạ của mụ cũng tan!
Quái bà cười the thé:
– À! Vẫn mạnh giỏi! Chịu nộp chứ? Mụ hứa nhận món đó, sẽ đi ngay! Chớ ngại!
– Thối bà! Đại Sơn Vương Thần Xạ dọc ngang thiên hạ, rất ghét kẻ nào ra điều kiện!
– Vậy ư? Nếu thế… cho mụ này xin vậy! Ôi! Suốt đời đuổi theo bóng dáng kho vàng, bạc đầu rồi, vẫn chưa được ngó vàng thoi chất đống!
– Không xong! Vì ta đã có lời nguyền cả kho tàng Nam Bang không thể để người quái ác như mụ làm chủ được! Cả thiên hạ sẽ điêu đứng khổ sở nếu gươm báu vào tay ác nhân!
– À! Được rồi! Coi đây!
Lời vừa hết, véo véo, từ trốc vực đã có vật quăng xuống.
Tướng lạc thảo giật mình xẹt sát vào mép vách, đánh thốc tay rút súng, bắn ngược lên trúng luôn vật kia.
Chính là một trái “na” đặc biệt. “Đoành” một trái na bị bắn tung trở lên nổ tít trên cao.
Mảnh vụn rơi rào rào xuống đáy vực, sức tạc đạn phát nổ muốn điếc tai.
– À! Giỏi! Giỏi!
Liền ba trái nữa quăng xuống tựa chùm sung. Nhưng Thần Xạ tướng quả không hổ danh vô địch bắn, hai tay nảy ngược lên như mây, ánh nến lúc đó chập chờn tranh tối tranh sáng, tạc đạn rớt loang loáng chỉ còn cách mấy thước đã bị đạn Thần Xạ soi trúng lên hết.
– Úi chao! Bắc Thần có khác! Bắn như ma! Được lắm!
Lời dứt, lại hai, ba trái nữa rớt, cũng như lần trước. Đại Sơn Vương lại bắn tung lên nhưng một trái lại là tạc đạn khói nổ chỉ cao mấy thước, hỏa mù xông tỏa ngụt, đến nỗi không thấy cả thành vực, chỉ nghe mảnh vụn rào rào.
Tướng lạc thảo đảo dòm lại, đã nghe có vật xé gió bay xuống, bèn liền nổ súng mò. Nào ngờ lại phải một trái khói lửa, đang cau mày nghe ngóng, chợt “chát” một tiếng, đã thấy một trái na văng trên nền đá ngay gần chân đứng. Không lưỡng lự, Đại Sơn Vương vẫy súng liền, trái na bắn đi, khói xông mù mịt vực sâu và mùi kỳ dị đánh thốc vào mũi.
– Khói độc! Hương mê!
Vốn cao bản lãnh, Đại Sơn Vương lập tức bế huyệt, ngưng thở, phất tay quạt tan làn khói độc.
– Nguy rồi! Khói độc mê, ta có thể chống trả như thường, nhưng vực không chỗ ẩn, nếu mụ lại quăng tạc đạn hay địa lôi phá thì sao? Khói um như hun chuột, đẩy sao kịp từng đàn “lợn con.”
Vừa nghĩ, đầu óc lóe cơ mưu quyền biến, tướng núi lập tức ngửa mặt lên dõng dạc quát:
– Thối bà! Xuống mà nhặt tro tàn! Trước khi tạc đạn mụ xuống đây, ta đã đốt luôn cả bảy mảnh họa đồ! Còn kịp! Quẳng mau! Quẳng cả chùm xuống! Họa đồ đang ăn lửa nến đây!
Quả nhiên trốc vực, Thần Sầu vừa toan ném đồ công phá, vội ngừng kêu tru tréo:
– Ý khoan! Ý khoan! Tướng giặc chớ uổng của quý! Mụ thích vàng thoi, đâu thích mớ tro vụn và cái xác Bắc Thần đem về ướp muối sao? Khoan khoan! Tính chuyện, chớ nóng! Đại Sơn Vương biết thó, cười lớn:
– Biết điều đó! Vậy ta chưa cho nó ăn lửa vội!
– Ờ ờ! Phải đó! Chớ phí của trời! Tướng giặc Vân Nam muốn gì? Cứ nói!
– Ta muốn nghĩ kỹ cho đến khi có mặt trời rồi sẽ liệu! Còn mụ?
– À! Mụ chỉ muốn kho vàng, đâu muốn cái xác chết bành của tướng giặc! Vô oán vô thù mà! Hay… ta chia đôi, mụ chỉ xin một nửa kho vàng thôi. Chao ôi!
Cũng đã sướng thân già rồi! Đại Sơn Vương cười khô, nói một mình.
– Hừ! Mụ này quả mê vàng nhất thiên hạ! Chắc lúc ngó thấy, phát điên mất!
Bèn vờ nghiêm gọi nói vọng lên:
– Muốn chi cũng để ta nghĩ đã! Dầu sao ta còn mắc lời nguyền!
– Phỉ thui! Phỉ thui là xong mà! Thế cá trê chui ống! Nghĩ chi cho mệt xác!
Canh năm rồi! Lần khân mãi, e…
Quái bà chợt im, Đại Sơn Vương hỏi lớn:
– E sao?
– E… e lũ chó thối đến phá, hỏng to. Tướng giặc không thấy chúng kéo tới như bọ, chỗ đánh nhau lộn bậy ư?
– À à! Tưởng chi! Vậy càng tốt! Ta đang ao ước gặp thằng hai mặt đây!
Tiếng cười Thần Sầu bỗng bốc cao the thé như xé lụa:
– Hảo! Hảo! Mảnh thứ tám phải không? Chớ lo! Việc đó đã có mụ đây! Khỏi đợi nó mò đến! Đại Sơn Vương nghĩ thầm:
– Phải chăng mụ này đã biết rõ nơi ẩn của tên hai mặt? Xem chừng mụ nắm chắc kho vàng trong tay rồi!
Bèn nảy ra một ý, vùng nói lớn:
– Thối bà! Còn thiếu một mảnh, sao không đi kiếm thằng hai mặt, rồi sẽ nói chuyện với ta sau?
– Chớ nhiều lời! Đi để tướng giặc trốn mất ư? Mụ sốt ruột lắm rồi đó! Tướng giặc không biết cõi đời này còn có cuốn gia phả chó chết của họ Lê, bọn dữ đang xục kiếm. Một phút mất đi là một thúng vàng của mụ đó! Chỉ được mười lăm phút nữa thôi!
– Thối bà! Chớ quên họa đồ ta vẫn để trên ngọn lửa! Thối bà!
Không thấy tiếng thưa, tướng lạc thảo nhún vai, quay vào, nói một mình:
– Xem chừng mụ muốn gấp lắm rồi!
Không thể hoãn binh được nữa, một mạch phất tay đuổi khí độc ra ngoài, đoạn đảo mắt quan sát tứ phía, tính kế.
Vực đá đẩy mạnh vụn tạc đạn. Vẫn vô kế khả thi. Tướng núi đi đi lại lại, vốn từng trải gian hiểm như cơm bữa, lúc nào cũng bình tĩnh cơ mưu. Mười lăm phút nữa lại trôi qua, khắc khoải mưu vẫn chưa ra, tướng núi chớm điên đầu nhìn thành vách thủng hét lớn:
– Bên kia vách là gì? Sao vẫn ngửi thấy mùi hoa rừng?
Lồng lộn như con cọp xám sa bẫy, tướng núi vừa toan vận lực đánh vào vách bỗng sực nhớ trong “săc” lúc nào cũng mang theo các đồ dùng cần thiết, có cả mìn.
– Mìn phá? À! Sao không liều phá vách núi bằng mình? Không thử liều, còn cách nào hơn?
Vừa lôi “sắc” bỗng lại nghe tiếng Thần Sầu Bà quát vọng xuống, lần này đầy vẻ quả quyết:
– Hết hạn rồi tướng giặc!
Mụ đếm đến mười, dẫu họa đồ cùng xác tướng giặc thành tro, cũng bất chấp!
Một… hai… ba… Đại Sơn Vương thò tay lần đáy sắc tìm mình, chợt kêu khẽ:
– Ôi thôi! Mìn phá đeo bên yên ngựa mất rồi!
Bực bội, xục mãi bỗng bàn tay rờ được vật dưới đáy, lôi lên, cả mừng, thì ra đó là hai trái mìn cũ bỏ quên đó từ lâu, tít dưới đáy, lẫn với các ống băng đạn. Đây là loại mìn các sở mỏ, hỏa xa vẫn dùng phá núi, nhưng đã được chế biến thêm loại thuốc nổ đặc biệt, sức công phá rất mạnh.
Rất nhanh, tướng lạc thảo Vân Nam cắm một trái vào lỗ hổng, châm ngòi, miệng hô lớn:
– Quái bà! Đợi ta… có ý hay!
Dây mìn rất ngắn, cháy lan nhanh, tình trạng mười phần nguy hiểm, tướng núi lẹ trí, nhảy vọt lên thành vực bíu dính như con thạch sùng. Ầm! Cả ruột núi muốn sụp, áp lực đè nặng vực thẳm, đá bắn như mưa, tưởng chừng địa chấn, đến nỗi Đại Sơn Vương đã bíu trên cao, vạt áo còn rách soạt, nến tắt phụt.
Hết trận mưa đá, bỗng nghe tiếng Thần Sầu hét bên trên:
– Tướng giặc! Gì thế?
Không đáp, Đại Sơn Vương nhảy vèo xuống, chiếu lia đèn bấm.
Lòng vực hiện ra một cảnh hoang tàn ghê gớm, vách nước rỉ vỡ tung mảng lớn, đá ngổn ngang, cả mấy phía nứt rạn, tưởng chừng núi sắp sụp đến nơi.
Nước chảy thêm nhiều mùi xông hắc càng thơm ngát, nhưng mặc dầu vách đá vỡ bung mảng lớn, vẫn chưa thấy chi khác.
Không nản lòng, tướng núi lạc thảo lại cho nổ trái mìn còn rớt vào lỗ hổng, châm ngòi, nhảy ra bíu chỗ cũ.
Chẳng ngờ, giữa lúc đó, trốc vực, Thần Sầu Bà ngạc nhiên không tiếng đáp, vừa gọi the thé, vừa thả xuống một trái tạc đạn phá thăm dò. Đại Sơn Vương vừa bíu thành vực, nghe gió lạ trốc đầu, vội nép sát, khoa tay gạt mạnh một cái, theo một thế tuyệt kỹ trong võ học.
Véo! Kình phong quật trúng trái “na” cuốn bắn xuống đáy vực, quay tít dưới chân. Nếu phát nổ, tất tạc đạn phá sẽ tung mảnh vụn lên nát xác, Đại Sơn Vương vốn tay điêu luyện, lập tức chuyển điện kình quét dưới chân trái na bị cuốn bắn vào trong nhưng trong lúc vội vàng, điện kình phá ra loe rộng vòng cả lỗ hổng trên vách, hút phăng trái mình xuống đúng lúc dây dẫn hỏa cháy hết, mình rớt tung vào kẽ đá nổ liền. Ầm! Vực đá chuyển rung, từng tảng đá lớn nhỏ bắn tung lên quật vào bốn phía vách, gây nên hàng trăm ngàn tiếng ầm ầm như trời long đất lở, nát nhừ. Đại Sơn Vương bíu chặt vào vách vực trên còn bị áp lực đẩy bắn lên đến hai thước, đá vụn bắn theo rào rào, veo véo như trăm nghìn viên đạn xé bên mình.
Tướng lạc thảo không khỏi thất kinh, vội vận sức kìm miết thân hình vào vách, nghe “đá đạn” xuyên “chiu chiu” bên tai đến lạnh người.
Chừng mấy chục khắc sau, vực sâu mới trở về cảnh im lìm, Đại Sơn Vương buông tay hạ mình xuống. Đá tảng ngổn ngang, nền vực bỗng hóa gập ghềnh, vội lia đèn bấm. Tướng lạc thảo không khỏi bật tiếng “chà” kinh ngạc. Vì vách vực đã đổ từng mảng lớn, che mất cả lối đi, chính giữa chỗ trái mình vừa rớt xuống, bị khoét một lỗ sâu hoắm đen ngòm.
Ngay lúc đó, có tiếng Thần Sầu Bà lại vọng xuống giật giọng:
– Gì thế nữa? Phá núi sao, tướng giặc?
Không đáp, tướng lạc thảo nhảy vèo đến bên lỗ hổng, giương to mắt sững sờ.
Vì dưới vệt đèn bấm xanh biếc vừa hiện rõ một cái vực sâu hoắm, lỗ ăn chếch vào vách đá.
– Lại một cái vực! Chà! Không ngờ núi Quạ này lại lắm hang vực kỳ dị đến thế! Sinh lộ hay tử lộ đây? Đại Sơn Vương bật kêu khẽ, vừa mừng vừa ngại, đứng chiếu đèn quan sát, thấy miệng vực nhỏ chỉ vừa người lọt, không ăn thẳng mà càng sâu càng chếch theo bốn mươi lăm độ, loe rộng dần, ngồi xuống, thò cổ ngó chỉ thấy được chừng vài mươi thước rồi đường vực bị cắt ngang.
Như kẻ đắm tàu vớ được ván trôi, chàng tướng núi leo luôn xuống.
Lại phòng hờ quái bà thả chất nổ xuống, chàng bèn lôi phiến đá lớn gần đấy, đậy kín miệng vực. Đoạn chiếu đèn, xốc hành trang, tướng núi tiếp tục bíu đá mà lấn xuống.
Im lìm trùm lên mình, mùi rêu đá ẩm phả vào mũi, càng xuống càng thấy hang vực ăn tun hút, có chỗ ăn quẹo như thước thợ tưởng đến chỗ tận cùng.
Nhưng càng xuống, hang càng sâu, quanh co khúc khuỷu, chỗ dựng đứng, chỗ bằng phẳng, nền đá tai mèo lồi lõm, thường nhân không sao vượt nổi!
Cứ thế chừng hơn một trăm bộ, bỗng ruột hang nở dần, không ăn chếch nữa, bắt đầu đến khúc bằng, dễ đi, trần cao vút. Đang bước thấp bước cao, sực từ đâu có gió luồn thốc tới, quạt vào mũi một mùi tanh khẳm đến lộn mửa.
Kinh nghiệm đi rừng khiến tướng núi đảo lia cặp mắt điện về phía trước, bất ngờ đá phải vật chi lục cục.
Soi đèn dòm, giật mình mới hay đó là một bộ xương người trắng hếu, cái sọ văng một nơi.
– Xương người! Nếu vậy phải có thú dữ vào hang! Có lẽ hang ngầm này có lối thông ra rừng! Nghe đồn vùng Ô Đầu Sơn biên giới phân mao này là miền ma thiêng nước độc, nhiều thú dữ không thua Quỷ Cốc trên Tây Bắc! Hay hang kễnh?
Thấy hang rộng, nhiều thạch nhũ, đá mỏm, tướng lạc thảo lập tức buộc đèn lên trán đi từng bước. Thói thường cầm đèn trong tay, dẫu đèn bấm cũng khó thấy thú dữ, nhưng đội trên đầu, có pha là kiểm soát được từng tấc đất, phàm bất cứ con vật nào nhìn đèn là “bắt mắt” ngay, nêu dẫu nhỏ như con chuột, ẩn sau cỏ lá, đều không qua mắt của kẻ đội đèn. Chỉ thoáng thấy mắt thú tít xa đã biết giống gì rồi, mắt đỏ là loài ăn thịt, xanh là giống ăn ngũ cốc rau cỏ, đỏ đỏ xanh xanh là loài ăn thịt lẫn cỏ.
Lia đèn trán theo hình bán nguyệt, phàm con vật vào ngó đèn ló đều “bắt mắt”, kẻ đi săn thấy liền, tùy mắt đỏ, xanh, để phân biệt là giống ăn thịt hay ăn cỏ, tùy to nhỏ cách nhau xa hay gần, để biết giống lớn bé. Tóm lại với đèn có pha gắn trán là kiểm soát được hết rừng già, hang hóc. Trừ một hai giống như giống lợn hoặc người! Người, lợn, mắt không “ăn đèn” chỉ thấy hình thù trong luồng ánh sáng. Đại Sơn Vương là tướng lạc thảo Thập Vạn Đại Sơn, ngang dọc suốt bao dãy rừng xanh, giỏi cả nghề săn thú, nên chợt ngửi mùi tanh khẳm thấy xương người, biết ngay đường hang phải có thú dữ đáo lai. Lòng mừng hết sức, vì tin chắc phía trước tất thông liền với rừng già. Nên tướng núi cứ lần từng bước, lia đèn trán, vượt chừng quãng nữa, thấy đường hang ngầm này bắt đầu ăn ngang bằng không gập ghềnh ăn lên đổ xuống nữa.
Bỗng gặp một bộ xương người nữa, rồi luôn mấy chục thước, lại gặp luôn bảy, tám bộ xương người, thú, có cái còn dính cả thịt, xông mùi nồng nặc, ngổn ngang đầu lâu, xương ống… đầy nền đá. Đại Sơn Vương đang lần bước, thình lình nghe có tiếng phì phì rất lạ tai, tiếp theo lại có tiếng gừ gừ.
Tướng núi nhảy vèo đứng sát vách, quét lia đèn bấm về phía trước. Mới hay phía đó ăn quẹo hình thước thợ, trần rất cao. Đang lia đèn chợt có một luồng gió thổi thốc tới, phả vào mũi, một mùi tanh khẳm đến lộn mửa, kèm theo những tiếng rạo rạo rắc, gừ gừ nghe sao không phân biệt nổi giống gì.
– Quái lạ thật! Rõ phía trước hiện có con thú dữ, khẳm hơn cả hùm beo!
Vừa nghĩ vừa xăm xăm sấn tới chỗ góc thước thợ, còn cách chừng hai mươi bước, bất thần có tiếng gầm rú nổi lên, một tràng dài vang động, nghe vừa quái đản vừa dữ tợn khác thường, tưởng như một con thú đang bị thương, nhưng tiếng rú lại hệt tiếng người bị chó dại tru vậy.
Rất nhanh, Đại Sơn Vương xẹt lên, quét đèn loáng cái.
Vốn tay quen vào sanh ra tử, trải hàng trăm trận, tướng núi giật nảy mình vì vật lạ hiện giữa ánh đèn: hai con mắt đỏ khé, cách nhau khá xa, nhưng rất to và kỳ dị, nhất là rất cao, cao chạm trần hang, trong khi nền hang rất bằng phẳng!
Vừa chạm ánh đèn, hai con mắt vụt đảo lia, càng phát tia đỏ khé, và từ chỗ đó bỗng phát ra những tiếng gừ gừ quái gở.
– Lạ thật! Từ nền lên ít nhất phải hai thước sáu, hai thước bảy Tây, không có giống thú nào lại cao đến thế! Hay con beo bíu trên thạch nhũ?
Tướng núi tiến qua chỗ thước thợ. Cặp mắt vẫn “ăn đèn” đảo lia. Tò mò, chàng tiến luôn bảy, tám bước nữa. Mùi tanh khẳm càng nồng nặc và hình thù vật lạ bỗng hiện ra giữa vệt sáng, cao muốn đội trần, lớn như khổng lồ. Quái gở là hình thù khổng lồ này có hai chân hai tay, hệt hình người, mình to mấy vầng, đầu như thúng cái.
– Đười ươi? Dã nhân? Khỉ độc? Làm gì trên đời này có con vật to đến thế này? Hệt con “kinh-công”?
Tướng lạc thảo bật kêu khẽ, quét dọc đèn bấm từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên, và càng lấy làm lạ khi thấy rõ vật này giống hệt người, từ mặt mũi chân tay, là một hình thù người cao lớn dị thường, lông lá xồm xoàm, mắt trợn đèn pha, cái miệng ngoác có nanh chìa trắng nhỡn! Vật khổng lồ tay cầm một xác người như cầm một con ngóe, gặm nhai nhồm nhoàm rào rạc, máu me đầy mép, rỏ tong tong cả xuống nền hang coi mười phần gớm ghiếc.
– À! Hình thù phi nhân phi thú! Đúng quái vật Người rừng rồi! Quái vật mà bọn đi săn Phả tình cờ gặp tại miền thâm sơn Lao Kay đây mà! Chà! Nếu vậy giống này nguy hiểm chẳng thường.
Vừa nghĩ, tướng núi vừa xẹt vào sát vách đứng sau một mô thạch nhũ, nhìn quái vật.
Nguyên ngày nào, có một nhóm săn tài tử người Tây, toàn loại quan chức phú gia chủ đồn điền, mấy chục người vừa nam vừa nữ tổ chức một cuộc săn thú vật tại miền rừng sâu Lao Kay, Cha Pa đem theo cả tiểu liên và một bầy chó săn thiện nghệ.
Bọn này tiến vào rừng, gặp đâu săn đó, khi cần, cắm trại giữa rừng, làm thịt thú ăn với các món lương khô đồ nguội mang theo.
Ngày kia, bọn này hạ trại tại một vùng thâm sơn Tây Bắc, giáp Tàu, nghỉ ngơi, sửa soạn buổi ăn trưa. Kẻ xả thịt, người nướng, kẻ nằm ngồi, người tắm suối, nói cười vui vẻ. Lúc đó có một cô đầm trẻ cùng mấy thanh niên rủ nhau lần vào cánh rừng ngay chỗ cắm trại tìm chim hái hoa, dẫn theo cả chó săn.
Vừa đi khỏi căn trại độ bảy tám mươi thước, bỗng cô đầm tung tăng chạy trước giật mình nghe sột soạt phía trước, bèn đứng lại nhìn quanh. Cách chừng hai mươi bước, lùm cây cao động càng mạnh, rõ có con thú tiến lại. Cô đầm chưa kịp lên tiếng, thì ba, bốn con chó săn đã chồm tới bụi rậm, bỗng nghe “ăng ẳng” mấy tiếng, rồi mấy con chó bỗng bắn tung lại mấy chục thước, giẫy đành đạch chết tươi.
Cô đầm thất kinh, kêu lên, mấy thanh niên cũng vừa chạy lại, sột soạt càng động mạnh, rồi một cái cẳng dài bước ra, soạt cái nữa, bọn Tây đầm lùi lại, chó sủa inh, vụt từ trong cây lá tiến ra một người khổng lồ lông lá xồm xoàm cao lớn dị thường, nhe nanh, dòm trừng trừng.
Cả bọn càng kinh, giương súng bắn liền. Đạn ghim trúng ngực.
Nhưng người rừng vẫn đi lừ lừ từng bước, lè lưỡi liếm chỗ bị đạn, liên luôn không hề chi cả.
Rắc! Quái vật bẻ nghiến một cành cây lớn chắn ngang. Hai con mắt sáng tựa đèn pha, dòm chòng chọc, lưỡi thè lè đỏ lòm máu tươi, miệng phát ra những tiếng rú quái dị.
Bọn thanh niên nam nữ Pháp hết vía, kêu thét lên, vừa chạy vừa ngoái lại bắn bừa, trúng phát nào, quái vật lại lè lưỡi liếm, liền ngay lập tức. May nó đi lắc lư chậm từng bước, tuy mỗi bước dài đến hai thước Tây. Tiếng súng vang động khu trại, mấy tay thiện xạ đang ngồi nghỉ, vớ vội súng, phóng mình tới, thấy quái vật, bắn liền. Toàn cỡ đạn Chevroline 6, đạn bắn voi, nhưng cứ trúng ngực phát nào, quái vật lại liếm liền ngay và lắc lư tiến đến thò tay vớ mấy con chó săn chết nát xương.
Một tay súng giỏi hô tập trung bắn hàng loạt như mưa rào, quái vật vẫn không hề chi, lưỡi cứ liếm xoèn xoẹt. Sau bọn thiện xạ xả tiểu liên vào đầu mặt từng tràng, quái vật liếm không kịp, đạn phá vỡ đầu, máu tuôn lai láng, rú lên đau đớn, ngã vật xuống giẫy giụa, nửa phút sau mới tắt thở.
Bọn săn xúm lại coi, ai nấy đều kinh ngạc không hiểu lưỡi con vật có chất gì liếm liền được các vệt thương. Đo thử mới hay quái vật cao hai thước bảy nặng chừng ba tạ. Giữa rừng, không tiện mang về thành phố, bọn này phải chặt lấy bắp, cánh tay, cái đầu, nguyên một bắp chân đã to như cột đình.
Dạo đó báo chí Hà Nội như tờ Đ.P., đã đăng đầy đủ chi tiết, cả xứ bàn tán xôn xao. Các nhà nhân chủng học cho đó là giống người từ thời tiền sử còn sót lại.
Lại thấy con này là con đực, người ta cho chắc phải còn con cái, nhưng không ai giải thích nổi việc liếm liền vết thương.
Giờ thình lình gặp quái thú trong hang thẳm Ô Đầu Sơn, tướng lạc thảo Thần Xạ vừa nhác hình dạng, đoán ngay quái thú này là Người rừng cùng giống với con bị hạ tại miền thâm sơn Lao Kay.
Bình tĩnh, tướng lạc thảo tiến lên, rê đèn lung tung ngó kỹ mới hay con này thuộc giống cái, tuy hình dạng khổng lồ lông lá xồm xoàm nhưng y hệt người ta, từ tay chân mặt mũi tới bộ sinh dục. Khác là người rừng cái này xem chừng hung hăng khác thường, đầu bù tóc rối như tổ quạ, nhe nanh, giang tay, chỉ chực vồ.
Thấy đèn “nhảy múa”, nó đảo mắt nhìn theo, chừng đèn chiếu vào mắt, nó trợn ngược, có lẽ chói quá, nó rú lên, quơ tay che mặt, đưa luôn cả cái thây gặm dở lên như bêu con ngóe. Đại Sơn Vương cứ tiến dần. Người rừng cứ đứng gầm gừ, cách khoảng hai mươi thước tây. Đại Sơn Vương dừng lại, gật đèn. Nó gật theo, có vẻ lạ lùng, chán lại đưa cái thây vào mồm, cắn rào rạo nhai nhồm nhoàm, máu me bê bết coi gớm ghiếc. Đại Sơn Vương không muốn bắn, bèn tiến lại, vung tay đánh ra một nhát phản phong. Bình! Phản phong trúng ngực, sức tay cao thủ bị đòn này cũng bắn đi hàng trượng nát thây.
Lạ thay, con quái vật chỉ bật lùi lại, một thước loạng choạng, chút đã đứng vững, lập tức gầm lên một tiếng như sấm động, sấn luôn tới, ném mạnh cái thây vào ngọn đèn. Đại Sơn Vương lắc mình một cái, xẹt sang bên. Chưa kịp động thủ, đã thấy quái vật chồm tới gần, giơ tay vồ. Tưởng nó chậm chạp, nào ngờ nó xuất thủ lẹ như chớp, loáng cái, vuốt nhọn đã quơ sát vai. Đại Sơn Vương phải lắc tránh, phóng sang ngang, suýt bị cào trúng vai. Từ bàn tay Người rừng phát ra một luồng gió dị hệt kình phong.
– Quái! Sao thế vồ của nó giống hệt thế trảo của con nhà võ?
Ngạc nhiên, Đại Sơn Vương đánh luôn đòn nữa. Con vật bị bắn lộn vào vách đá vỡ vụn. Chừng đã trông rõ hình người, quái vật hú lên vang động, chồm ngay dậy, phóng cả thân xác khổng lồ vào Đại Sơn Vương. Hai tay chụp như gió. Đại Sơn Vương dạt sang bên. Bình! Con vật vồ hụt, lảo đảo. Đại Sơn Vương dòm lại, càng kinh ngạc thấy mấy dòng thạch nhũ bị gẫy vụn rơi xuống nền hang, tuy tay nó chưa chạm tói!
– Lạ thật! Sao tay Người rừng lại phát được phản phong như người giỏi võ?
Xưa nay loài vật dầu hung mãnh đến mấy, chưa khi nào phát gió kình vỡ đá! Chỉ có người biết bí pháp tập luyện mới tụ nổi điện lực phát kình! Động óc tò mò, tướng núi đánh vụt tay vào báng súng, nhả thử một phát đạn vào bả vai Người rừng.
Quái vật rú lên, máu chảy đẫm lông xồm, quái vật cúi nhìn, lè luôn lưỡi liếm vết thương liền ngay.
– À, con này có cái lưỡi dị kỳ hệt con trên Lào Kay. Nội cái yếu huyệt mắt là điểm chết của mọi sinh vật, bắn vào mắt là vỡ đầu óc ngay!
Tướng núi định nhả luôn hai phát vào mắt, nhưng nghĩ thế nào lại thôi, bèn cắm súng, vận hỏa kình đánh ngay một nhát thấu ngực Người rừng. Đúng lúc quái vật chồm tới “bình” một tiếng như sấm nổ, hang đá trùm áp lực nóng ran, quái vật bị phản phong đánh trúng ngực, bắn lộn lại ngã chổng kềnh, toàn thân nóng như lửa đốt, mớ lông ngực cháy nám đen.
Dẫu phản phong Đại Sơn Vương chỉ đánh với điện lực trung bình, sức người vật thường cũng bị chết tươi, nhưng lạ thay quái vật có sức chịu nóng khác thường, chỉ rúng động xác thân mấy khắc, vùng rú lên như con cọp bị thương, chồm phắt dậy lao cả thân xác vào ánh đèn xanh, tựa mũi tên bắn. Đại Sơn Vương đã vận sẵn lực chuyển thế, đánh ra một luồng lãnh phong cực mạnh. Lần thứ hai Người rừng lại ngã lộn bắn vào vách, vỡ mấy dòng thạch nhũ.
Lần này con quái kêu rống lên đau đớn khác thường, mãi mới lồm cồm bò dậy, toàn thân run bắn lên, thở hồng hộc lẩy bẩy đưa tay vuốt mặt mũi, lông lá đầu tóc lấm tấm như sương đọng do lãnh kình gây nên.
Nó giương cặp mắt thao láo dòm địch thủ, Đại Sơn Vương vẫn đứng yên chiếu đèn vào mắt nó. Thình lình quái vật cúi xuống vồ lấy một tảng đá lớn ném mạnh về phía chàng. Sức con vật bị thương ghê gớm lạ, tảng đá bay đến tựa trái núi đen chụp xuống đầu Đại Sơn Vương, chàng xẹt sang bên, tảng đá bay vù qua, quật vào vách đến rầm, vỡ tan.
Quái vật vẫn rét rung, lồng lộn tìm đá phiến. Soạt! Tướng núi rút phăng thanh gươm Mèo tộc, chém xả một nhát. Hào quang nháng giữa ánh đèn, quái vật đã ôm được một tảng đá lớn. Chừng không hiểu vật chi, đứng ngó lia, lưỡi thép liếm luôn một mảng tóc bù, chém phập vào bờ vai quái vật. Chừng đau đớn, nó rống lên ném đại tảng đá, le lưỡi liếm vai. Tướng núi thét lên một tiếng vang động, tảng đá đảo qua, vụt tay gươm, chém luôn hai, ba lần nữa. Quái vật nghe thét rung động xác thân tránh không kịp, bị luồng sáng kiếm luôn mấy nhát, vùng rống lên, ôm vết thương bỏ chạy ra phía ngoài. Đại Sơn Vương thu gươm, cười lớn:
– Có thế chứ! Đạn không sợ, sợ gươm!
Thân hình bắn theo như mũi tên. Người rừng chạy nhanh dị thường. Tướng núi đuổi theo, không có ý giết ngay. Thỉnh thoảng mới chém xả một nhát, quái vật có vẻ chạy qua chừng bốn, sáu mươi bộ hang quanh co nữa, ngổn ngang đầy xương người, thú. Tướng núi phóng mình vừa hạ xuống, bỗng nghe gió thổi rào rào, trước mặt có ánh sáng vàng nhợt, bèn hoành thân ngó kỹ, mới hay đã ra khỏi hang ngầm, đứng giữa một khu triền gập ghềnh bốn bề cây cối um tùm. Triền núi chạy xuống một cánh rừng sâu đầm đìa ánh trăng khuyết bệch xế cuối trời mấy đã úa hồng, có vẻ sắp rạng đông.
Nhưng Người rừng đã biến đâu mất. Bên tai có tiếng thác chảy ào ào. Quét lia đèn, bỗng thấy tít xa xa xó hai con mắt đỏ ké giữa triền tối bên trái. Đã định bỏ qua, nhưng vốn là tay say mê võ thuật, sực nhớ lại thế võ phát kình phong kỳ dị của Người rừng, Đại Sơn Vương lập tức phóng mình theo.
Triền núi gập ghềnh khúc khuỷu nhấp nhô toàn nhũ đá tai mèo, lắm chỗ dựng đứng như thành, trèo giỏi như loài sơn dương cũng khó vượt qua, nhưng Người rừng phía trước vẫn chạy băng băng, thân hình khổng lồ ẩn hiện thấp thoáng dưới trăng khuyết, nhanh lạ thường đến nỗi Đại Sơn Vương là tay có tài, chạy nhanh như ngựa, đuổi cả dậm triền vẫn chưa bắt kịp.
Lúc đó đêm đã sang canh, trong miền Ô Đầu Sơn cũng đỡ tối. Ngó xuống dưới có chỗ triền còn cách đốt rừng đến mấy trăm bộ loang lổ ánh trăng úa dòm lên núi Quạ vút cao chập chùng từng ngọn như vẽ vào nền trời đổ xuống đen cả triền sương trăng ảo huyền. Biên khu quạnh quẽ gió thổi lộng, thỉnh thoảng vọng từ dưới thung lên mấy tiếng “hoăng hoăng” ngơ ngác, “bép bép” ngay chân núi có tiếng cọp đói săn mồi. Tướng lạc thảo Thập Vạn Đại Sơn Vương cứ mải miết đuổi theo Người rừng. Tia đèn xanh chập chờn quét khắp triền sương, chốc chốc lại “bắt” được hai con mắt quái vật đỏ khé ngoái lại dòm cách khoảng hơn trăm bộ.
Mãi chưa đuổi kịp, tướng núi cả giận hét lớn:
– À, con quái này to con không ngờ lại chạy mau như ngựa. Không tóm được mi ta không về đất Vân Nam.
Tận dụng thuật khinh thân tướng lạc thảo bắn người đi vèo vèo, lướt trên các mỏm đá tai mèo chênh vênh. Thoắt chỉ còn cách quái vật chừng sáu mươi bộ.
Thình lình Người rừng biến đâu mất.