Cho ngựa vượt thêm vài dặm nữa, chàng tuổi trẻ họ Lê mới dừng cương trên một ngọn đồi cao, cây cối um tùm.
Núi đá từng gẫy chập chùng vắt tận biên cương, bốn bề hoa dại ngát hương, chim kêu vượn hú dưới chân đồi, suối chảy róc rách, có con đường mòn chạy vắt chếch xa, ẩn hiện sơn thôn vài mươi nóc nhà Tàu Thổ Quảng Tây… Phong cảnh như tranh vẽ, chàng tuổi trẻ thở phào, lòng nao nao, nhớ về dĩ vãng…
Huyết Phong Câu chạy vào rừng thâm sơn Tây Côn Lĩnh, chàng tuổi trẻ ngó lên thấy rừng núi trùng trùng ngọn cao nhất khắc sừng sững vào nền trời trăng vòng hình đầu con trăn khổng lồ ngóc đớp mây bay, lòng hoài cảm bất giác ngửa mặt than:
– Mang Bành Sơn ôi! Ngọn núi “đũng săn” này năm nào tôn sư đã cho ta lên uống nước Thánh Tuyền, dạy nên nghề võ, lại còn truyền hết công lực trong người cho ta. Mà nay núi vẫn đứng kia, tôn sư biệt tích, thù nhà chưa báo nổi, lời nguyền còn nguyên… Đang ngậm ngùi, bỗng nghe tiếng hú kéo lên triền như tiếng ma tru, chàng vội thả ngựa, một mình vùn vụt đằng sơn.
Lát sau đã lên tới triền đỉnh Mang Bành Sơn. Đỉnh cao, gió lộng, sương chăng, bốn phía im lặng, dòm lên đầu rắn hổ đớp trời quái gở, trông xuống, rừng Tây Côn Lĩnh chìm dưới vực mờ thẳm, vài tiếng hoẵng lạc bầy kêu sương nghe mơ hồ phảng phất như từ thế giới nào vọng lên.
Lúc đó, trăng hạ tuần sắp mọc, mây đêm đổ ánh xuống khu lãnh mờ mờ loang lổ. Dũng cứ nương bóng núi vượt lên, vừa đến ngang chỗ mang trái ván hở, thì trăng hạ tuần vừa nhô khỏi phía Đông hắt xuống một thứ ánh sáng huyền hoặc như trong mộng ảo. Bất thần nghe có tiếng đàn bà rú vô cùng thê thảm như con lợn bị chọc tiết, tiếp liền giọng van lơn não nuột líu cả lưỡi:
– Ôi! Trăm lạy ngài mãng xà tinh… xin tha cho con… con khiếp lắm!
Giọng gái Kinh run rẩy chưa dứt, lại nghe tiếng cười thé nhọn cất lên, chờn vờn:
– Hà hà! Con gái chó si! Nhìn vào mắt ta! Hiến thân cho tuyệt nghệ! Sắp đủ trăm đứa rồi!
Giọng đàn ông này nghe nhọn như dùi đâm, đầy công lực vờn tử khí, như có như không, hết sức quái gở. Dũng không khỏi dột lòng kinh ngạc, vội bìu núi đá, vượt lên thật nhanh, được vài bộ sắp leo hẳn lên mang bành sực nghe tiếng rú nữa của đàn bà, nhưng giọng khác, dứt tiếng kêu van, phảng phất lại có giọng đàn ông gai sắc:
– Khà khà! Gái ngoan! Gái ngoan! Đừng sợ! Tao hấp điện rất êm… mày lên cực lạc! Hà hà!
Giọng Tàu Quảng lơ lớ. Lần này khá xa, chìm rợn tựa tiếng ma nhái trong hốc đá. Thái Dũng vọt hẳn lên mang rắn, phục sau đá mỏm, dòm lên, thốt giật mình vì cảnh quái đản đập vào nhỡn quang.
Ngay trên đầu rắn, dưới ánh trăng lưỡi liềm, một bóng người đen thui như cột nhà, cháy hai con mắt đỏ khé như mắt thú, đứng sững, hai bàn tay đầy vuốt nhọn móc vào bả vai một người đàn bà đứng đối diện. Đó là một cô gái rất xinh, xiêm y đã bị xé rách nằm một mớ dưới vòng chân, khuôn ngực nở, bụng thon, thắt đáy tò vò, coi như pho tượng đá trắng. Kỳ lạ là cơ thể cô gái vẫn còn run bắn, nhưng khi đó, phảng phất nét say mê, mắt mở to nhìn quái nhân, miệng nàng ta nhoẻn cười, hai bàn tay từ từ đặt lên vai quái nhân, miệng lắp bắp, dưới trăng coi đúng dáng của một người bị hút mất linh hồn, say sưa hiến dâng cho ma quỷ.
Vuốt tay níu cứng bờ vai. Dũng vừa nhô lên ghé mắt nhìn, đã thấy hai bàn tay quái nhân trôi vụt xuống, tự nhiên dáng liễu cong veo như cầu vồng, giãy lên như đỉa phải vôi, rồi im hẳn. Ánh trăng soi loang xác thân, rõ mười vệt tím bầm chạy từ vai xuống, cái xác cong veo vẫn đứng như đóng xuống mặt đá, tóc rũ thành giòng chấm gót, coi giống hệt một cô gái xiếc đang uốn lộn biểu diễn.
Quái nhân cũng uốn mình bắn ngược về phía sau mấy thước, hét the thé:
– Huyết heo! Sắp thành công rồi! Còn năm mạng nữa đủ điện công bá chủ võ lâm!
– Chó thui! Ta chỉ còn bốn đứa, mi liệu coi đủ vào bắt sống rắn chúa chưa?
Có tiếng khác tít xa hắt tới, quái nhân đen thui phát cười the thé, vung tay búng về phía cái thây đàn bà “véo véo” “bục bục”. Dưới trăng, ngực bụng thây chết cứng loáng hiện ra từng lỗ sâu hoắm, dùi thủng suốt lưng, dọc mấy hàng đều, cái thây vẫn đứng im.
Thái Dũng bất giác nghĩ thầm:
– Chà! Ma Nhân đã luyện “âm điệu kỳ công” đến mức lợi hại ghê gớm, xuyên qua thây vẫn bất động! Mới hồi năm biệt tung tích, ngờ đâu nó vẫn ẩn thân núi thẳm luyện độc công. Chắc muốn bắt rắn chúa làm chi đây! Nếu để nó thành công, thiên hạ sẽ mang thảm họa, đợi gì không ra tay trừ hậu họa một phen! Óc nghĩ, tay vung, định xuất đầu lộ diện nhưng ngay khi đó chợt nghe “véo” xé gió, rồi một bóng cao đã từ đâu bắn vọt đến cạnh quái đen, dưới trăng hiện rõ một quái nhân cao lớn, mặt đỏ hơn, mắt long sọc, coi thập phần độc dữ.
– Huyết Ảnh Ma Nhân! À! Lưỡng quái!
Thì ra cặp người quái chính là Hắc Ảnh, Huyết Ảnh, hai quái nhân Quảng Tây thuộc hắc đạo chuyên bắt gái luyện “âm công”. Năm trước tưởng chiếm vụng Hắc Giang nuôi thủy quái luyện “giao long chưởng” để xổng bị “thần giữ của” chém chết.
Sau dạo thoát khỏi Lê Gia trang rồi Mang Bành này, không ngờ cặp quái này lại chiếm khu Thánh tuyền làm sào huyệt.
Huyết Ảnh đã bắn cái thây sang bên bảo Hắc Ảnh:
– Nếu được rắn chúa, mi cùng ta có thể xuống núi lúc hết trăng! Giờ nó đang ngủ. Nào thôi! Nghĩ sao? Ta ngứa ngáy lắm rồi. Cả năm nay học võ rắn, luyện nọc công, đến lúc bắt rắn chúa! Mi trắng hay đen?
– Đen để chó thui, ta con trắng!
Lưỡng quái đi về phía mang hữu mất dạng.
Thái Dũng chợt nghĩ ra một kế, liền lặng lẽ đi theo, mới hay dưới mang là một khu ghềnh khá rộng, có một cái hốc nhỏ hệt tai rắn.
Huyết Ảnh đứng dưới mang, nâng ra một phiến đá ném bên, để lộ ra một cửa hốc vừa người vào.
Hắc Ảnh đội đèn bấm, giắt một thanh đoản đao, xăm xăm nhảy vọt vào lỗ tai rắn. Được một phút, bất thần nghe bên trong có tiếng thét vang âm, rồi Hắc Ảnh Ma vương từ trong phóng mình ra, đứng bên miệng hốc, mặt còn khắc rõ nét kinh dị, nói nhanh:
– Hang rắn có người! Võ ghê gớm, đoạt mất đoản đao! Nhưng… không thể có người giỏi đến thế! Có lẽ… có lẽ…
Dũng dòm, mới hay quái đen tay không, cả chiếc đèn đội đầu cũng biến mất. Đang lấy làm lạ, chợt nghe Huyết Ảnh cười sằng sặc:
– Ma… Hắc hắc… Mi định nói trong đó có ma? Ma đoạt khí giới của quái!
Hắc hắc! Để ta vào coi nó có mấy đầu mấy tay!
Lời dứt, quái đỏ cầm mã tấu lao vọt vào hốc, nhưng không đầy một phút đã từ trong bắn ra, húc cả vào vách đá, kinh ngạc khác thường, kêu:
– Lạ dữ! Nó… nó… núp… giật mất của ta. Định kéo cả ta vào… Lạ thật! Người hay ma?
Cặp quái nhìn nhau ngơ ngác. Dũng nghe hai gã nói chuyện càng kinh nghi.
Thì ra bọn chúng lần vào hốc được mươi bộ, đang chiếu đèn, tự nhiên như có một cánh tay vô hình lôi thốc vào, vừa vận công tọa tấn, đã bị quăng phăng khí giới, rồi cả cái đèn trên trán cũng bị giật bay, choáng cả đầu. Trong kinh ngạc, chỉ nghe tiếng xé gió loáng ánh đèn vào tít trong, tiếp liền những tiếng sằng sặc như ma nhái khiến cả hai phải tháo ra như giông. Lạ nữa là lưỡng quái trấn nhật dạ trên ngọn Mang Bành, còn ai lọt vào được vì xế dưới mang chính là cái lều vải của chúng dựng đó.
Dũng còn đang thắc mắt, bỗng thấy lưỡng quái nhảy vào lều, loáng nhảy ra, tay đuốc, tay đao, cùng với nhau tiến vào hốc dị.
Cặp quái thì từ phía Đông Bắc, hai hình thù lạ nhảy vọt tới, dòm quanh, trỏ lều hốc nói nhỏ:
– Sào huyệt chúng đây rồi! Chúng vừa vào hốc! Ánh đuốc kìa!
Hai bóng lạ nhảy đến vén lều. Dưới trăng vàng, Dũng không khỏi ngạc nhiên khi nhận ra chính Song Ma Kỳ Hình, cặp vợ chồng Sam chuyên cõng nhau đi khắp thiên hạ tìm thù, đã được chàng chữa khỏi bệnh mù lòa tê bại. Chưa hiểu cặp này đến đây làm gì chợt nghe mụ Ma Trảo bảo chồng:
– Này phu quân! Núp đánh hay vào gặp?
– Tìm mãi mới thấy dấu kẻ thù, phải gặp giết trước mắt mới hả vong linh Cha Mẹ! Chúng mới luyện độc công, ta cùng hiền thê kém gì.
– Phu quân nói phải! Nhưng phải cùng đánh đòn phép mới hay!
Dũng cứ ẩn mặt theo dõi, nghe cặp Sam vẫn nói chữ như trước không khỏi buồn cười, đã thấy “bạch” một tiếng. Mụ Ma Trảo trùm chăn nhảy tót lên cổ lão Hành chễm chệ như cỡi ngựa.
Ma Hành phóng vụt vào.
Thái Dũng nằm ép, nghe bỗng trong hốc nổi lên nhiều tiếng thất thanh, rồi hình thù Sam cõng nhau bắn thốc ra như con diều táp, liền phía sau lại lưỡng quái bắn theo. Thì ra lưỡng quái nhảy ra, lao phải Song Ma vừa lần vào, bốn người lao bốn phía. Huyết Ảnh hét:
– Con ma! Con ma trùm vải liệm!
Mụ Ma Trảo lúc đó khí giới cũng đã biến mất, hét chửi, tay kéo chăn xuống cổ:
– Hai con quái! Bà nội ông nội mày đây! Ma nào! Khôn hồn quỳ xuống nghe tội!
Lưỡng quái đảo mắt dòm, phát cười khan:
– À, ra Ma Hành, Ma Trảo! Mò đến nộp mạng à?
Lão Ma Hành quát:
– Vợ chồng tao tìm mãi mới nhận ra vết kẻ thù! Ngờ đâu là chúng mày! Còn nhớ tàn sát cả nhà Đốc Bàn Wang, trại chủ Woòng tại miền Lưỡng Quảng không?
Chúng tao là giọt máu sống sót đây!
Lưỡng quái ngó Song Ma, vùng cười thé:
– À à! Thế ra lão Wang, lão Woòng còn hai đứa mày ư? Phải phải rồi! Đêm đó không thấy chúng mày, bản vương lóc thằng Wang thành từng miếng thịt ném chó, chó ăn.
Vừa nghe đến đây, Song Ma rống lên thống thiết, xuất thủ đánh liền.
Dũng không khỏi ngạc nhiên, thấy Song Ma tài nghệ đã vượt hẳn lên gấp đôi.
Lưỡng quái cũng khác hẳn hồi ở Lê Gia Trang, nháy mắt một khu mang rắn đá vụn bay vèo, phản phong quật ép bừng bừng, lên vai rách bụng chừng vài hiệp, chợt nghe có tiếng thét bừng bừng, rồi cả bốn bắn tung bốn phía. Ma Trảo bắn phía xế Đông, Ma Hành bắn lộn lên trên mang tình cờ rớt ngay trước chỗ Dũng ẩn. Còn lưỡng quái cũng bắn lộn ra xa. Lão Ma Hành ngã xuống, hộc ra búng máu ôm ngực rống lên:
– Quái độc! Đêm nay không giết được mày, tao thà là…
Hiếu tử thương hiếu tử. Thái Dũng vươn ngón tay chụp lấy đai lưng lão Ma Hành, thì thào:
– Cứ ngồi im! Mỗ Dũng họ Lê đây! Vợ chồng Sam giỏi lắm, nhưng không thắng nổi độc công của chúng đâu! Chống âm công độc không gì bằng độc công dương, để mỗ giúp cho mười thành! Nào! Điều hòa!
Lão Ma Hành giật nảy mình, “à à, tôn sư, trời”. Vốn nhanh trí, lập tức ngồi xếp chân, bên kia lạ thay Ma Trảo cũng xếp chân hét:
– Có gan đánh một đòn nữa!
Lưỡng quái có vẻ coi thường, phát cười thé nhọn, long mắt, dùng tận lực tung ra một chiêu kết liễu, kèm tiếng “chết” gai gai. Cả hai tay cùng đánh, nghe bùng bùng hai tiếng tựa sấm nguồn, quái đen quái đỏ bắn tung lại như hai bóng ma dật dờ lộn mấy vòng, máu miệng hộc ra, lăn như trái cầu bay khỏi đấu trường, ngã vật xuống mép Mang Bành. Không chậm một khắc, Song Ma hét lên, phóng mình xuống như cặp thú chụp mồi. Rồi khu ngọn Mang Bành im lìm, quạnh quẽ như cũ.
Dòm theo chẳng thấy quái, ma đâu. Dũng vừa toan nhảy xuống vào hốc, sực nghe có tiếng cười âm u kỳ dị rồi từ phía Ma Trảo ngã trước, một bóng trắng vọt lên, lao thốc vào hang đá nhanh như con cắt.
Thái Dũng nấp ghềnh trên, thấy bóng lạ vọt vào “tai rắn”, thân pháp ảo diệu khác thường. Bất giác dột lòng nghĩ thầm:
– À, một kẻ cao bản lãnh! Vừa nhảy lên lập tức bay vào hang rắn không chút do dự. Rõ ràng hắn tới núi Mang Bành có đích chi đâu! Gia phả cất trên núi, chắc trong hang này, nguồn Thánh Tuyền có ổ độc xà vương còn nơi nào để bảo vật tốt hơn? Hay hắn đến tìm bảo vật?
Lòng đầy nghi hoặc, chàng trai họ Lê buông mình nhảy xuống ghềnh, dưới mang chạy ra mép, đảo mắt tìm lưỡng quái, Song Ma, nhưng một khu triền ngọn đẫm trăng khuya không một bóng người. Chập chùng mấy dải ghềnh đá hiểm suốt từ trên ngọn sương chạy xuống vụng chân núi mịt mờ, thăm thẳm chỉ thấy bóng cây loang lổ, vực sâu muôn trượng, vọng đưa tiếng gió hú gai người.
– Im vắng lạ lùng! Hay tất cả dắt đưa nhau xuống vực?
Chàng trai khẽ thở dài, quay lại hang rắn. Cửa cốc tối om đầy bí ẩn bất trắc.
– Có gì nguy hiểm nấp trong? Rắn chúa? Cánh tay vô hình có sức vạn năng tước khí giới? Người? Ma quỷ? Hay thứ chi đây? Lại còn cái bóng trắng vừa nhảy vào?
Thái Dũng nhìn cửa hốc đen, suy nghĩ sực nhớ đến hai tiếng “kỵ thép” trong huyết thư, chàng trai bèn tháo sắc, gươm, súng đạn tất cả mọi thứ bằng kim khí, dấu kín vào một hốc đá gần đấy, trừ chiếc đèn bấm và diêm nến.
Một cơn gió khuya lùa hang rắn, chàng trai theo gió lách vụt vào tay không khí giới.
Hang tối thui, ăn vòng như lỗ tai người. Tiến chừng năm bước, trông lại cửa hốc đá bị che khuất, trước mặt hiện ra một khu hang rộng gió từ ngoài cửa khẩu lùa vào tạo nên một thứ âm hết sức quái gở, nghe phì phì như loài quỷ vật rống từng cơn. Và lạnh đến sởn gai ốc, kèm theo một mùi tanh tao gớm ghiếc.
Thái Dũng đứng tựa vách, hít một hơi, phân chất nhận ra ngay mùi rãi rắn cực độc, chỉ ngửi phải, người thường cũng nhiễm chết ngay. Lắng tai nghe có tiếng nước chảy róc rách rất nhỏ, âm hưởng mơ hồ lạ.
Vận nhỡn quang nhìn, thấy lờ mờ rất nhiều hình thạch nhũ, quan sát khá lâu mới nhận rõ hang loe còn sâu thẳm, ngay phía trước mặt có một dải đá dài chạy từ ngoài cửa khẩu vào tít trong hệt một cái lưỡi nằm trong họng. Chỗ chàng đứng, rẽ sang trái là vào họng.
Không một tiếng động của sinh vật. Đứng mươi khắc, Dũng bước ngoặt về phía trái, được vài thước, gặp một mõm đá mọc ngược, chàng rút phắt cây đèn, bấm tách chiếu lia theo hình cung, lấy mỏm đá làm điểm tựa phòng bị tấn công bất thần. Chẳng ngờ vừa rút đèn bấm ra, vụt cảm rõ toàn thân rúng động, rồi trong gió lùa như có một bàn tay vô hình từ đâu thò ra giật bay cây đèn, mạnh đến độ suýt lôi cả Dũng ra khỏi mỏm đó. Trong cơn kinh dị, còn thoáng thấy vệt đèn xanh nhảy múa bay vù vào trong họng như một ánh chớp mất tăm!
Lạ nữa là không một hơi nhân điện quanh mình.
Dũng vận sức sẵn, tiếp thêm mấy bước nữa. Lại vù cơn gió lùa bỗng vụt cái nhanh như một chớp chân trái, chân phải như bị tay vô hình dạt mạnh, phát ra hai tiếng “phựt phựt” lạng người đi.
Dũng giật mình, ngồi phục xuống, nhưng bốn bề lại im lìm, hệt ma trêu quỷ chọc. Sờ vội xuống chân giày, dây giày đã đứt tung và hai miếng sắt nhỏ bọc đầu dây đã biến mất rồi!
Vốn thông minh, đầu óc chàng trai Tây học vụt nổi ngờ, nhớ ngay lại chương trình địa và vật lý học.
Kiểm lại các thứ có sắt đều để ngoài cửa, trong người còn dây giày, cùng một cái bật lửa gói kỹ trong giấy dày để túi trong.
Lập tức chàng thử moi ra, thử mở giấy gói, quả nhiên chưa mở hết, cái bật lửa đã bay vút đi như ma giật.
– À ra thế! “Kỵ sắt” là vậy! Lưỡng quái tuy cao bản lãnh, nhưng ít học không hiểu về vật lý, địa dư, biết sao nổi “bàn tay vô hình” ghê gớm trong kia?
Nguyên miền Nam Băng Dương đuôi trái đất có rặng núi Nam Châm, phàm tàu thủy không may lạc gần lập tức bị núi Nam Châm hút bay vào, tàu tan người chết nhanh như ảo mộng. Các nhà hàng hải thám hiểm có việc xuống Nam Cực đến gần vùng núi Nam Châm đều phải dùng thuyền gỗ, đồ gỗ. Phàm các vật dụng nào có sắt đều phải loại bỏ, kể cả một cái khuy áo, đồng hồ. Có thủy thủ quên khuy áo sắt, đến vùng có chỗ hút, bị giật bắn khuy, rách áo, ngã bay xuống biển.
Người ta chế ra được cái địa bàn định phương hướng cũng nhờ rặng núi Nam Châm miền Nam Băng Dương, tuy khi cổ nhân chế được địa bàn cũng biết rõ nơi trái đất có núi Nam Châm.
Như về năm Tân Mão (1109 trước Tây lịch kỷ nguyên) đời Chu Thành Vương có nước Việt Thường, phía Nam Giao Chỉ sai sứ đem bạch trĩ sang cống. Viên quan nhà Chu là Chu Công Đán, chế ra được cái xe chỉ nam giúp sứ Việt Thường về nước, cái xe này có một bộ phận có kim chỉ nam giống địa bàn, cũng đều nhờ sức hút của núi Nam Châm. Sau các nhà khoa học chế ra các món võ khí giới có gắn nam châm rất lợi hại như thủy lôi từ thạch v.v… cứ đủ lượng chất là sắt thép nam châm tự động hút dính.
– Cách khá xa, hút phăng cả súng gươm chắc chắn trong kia phải có khối đá nam châm lớn lắm!
Thái Dũng lại tiếp tục tiến vào, ngóng trừng mắt nhìn khắp xó tối cố tìm cái bóng vừa đột nhập. Nhưng vào khá sâu vẫn chỉ thấy tĩnh như đá nhấp nhô hiện lờ mờ trong hang, nhưng tiếng gió thổi lại vọng âm dị cùng tiếng nước rỏ nghe càng rõ. Đang men quanh, thình lình nghe luồng gió lại thốc ra, Dũng hụp xuống tránh.
Chỉ thoảng “chát” một tiếng hình thạch nhũ trốc đầu đã gẫy vụn, đá rụng rào rào rất nhẹ.
Giật mình sực nghe có tiếng cười quái gở chờn vờn:
– Đây rồi! Hà hà! Ổ rắn chúa đây rồi!
Xòe! Có tiếng diêm bật, rồi một làn ánh sáng vật vờ giữa lòng hang vắng.
Cảnh tượng kỳ ảo vụt hiện, trăm hình nhũ đá sừng sững giống quái thú đứng, ngồi rình nấp trong ruột hang, dưới vùng ánh sáng vàng úa, ruột hang coi càng giống cổ họng người khổng lồ, có cái lưỡi gia sắc nhấp nhô chạy cuốn dọc ra tận cửa khẩu, gần như chia đôi lòng hang.
Và ánh sáng từ bên kia lưỡi đá hắt ra, cách chỗ chàng đứng chừng ba mươi thước độ bốn mươi lăm.
Thái Dũng tiến luôn vào, càng vào sâu, trần hang càng cuốn sát cao, loe rộng, nhưng nền đá lồi lõm gập ghềnh, mỗi cơn gió từ cửa khẩu thổi thốc vào, chạy vi vu trong cổ họng, xông ra mùi tanh nồng nặc rất khó ngửi.
Vách trong cùng dựng đứng, thu hẹp dần, nhờ ánh sáng vật vờ Dũng thấy cổ họng giãn ra, đường bán kính chừng một thước Tây, tối om chẳng rõ còn sâu bao nhiêu. Có tiếng rỏ tí tách bên trong, cuối lưỡi đá có một đường rãnh trũng sâu chạy dọc ra tận đầu lưỡi ngoài coi giống một con suối cạn. Từ mặt lưỡi chạy lên trần cao đến con sào, Thái Dũng men sát gò lưỡi, đảo mắt tìm kiếm bóng lạ, bỗng thấy bên kia lưỡi, ánh lửa nhảy múa bập bùng, nghe “véo véo” liền mấy tiếng, tiếp theo có tiếng cười the thé âm âm rõ giọng đàn bà:
– Ra đây! Ra đây! Phóng nữa mau! Coi họ nhà Xà chúng mày có mấy ngón võ gia truyền!
Tiếng quát rất chìm nhưng vang âm khắp ruột hang như lưỡi cưa kéo màng tang chợt lại “véo véo” mấy tiếng “bạch bạch” liền hai con rắn xanh nhỏ bằng cái đũa bay sang rớt nằm vắt chết trên gò lưỡi ngay bên Dũng.
– Ra nữa! Tao đang muốn tìm ổ chúa! À! Giỏi! Giỏi!
Tiếng quát chợt cất cao kéo dài như nhái cợt, “véo véo” như xé lụa vút vút chỉ phong, rồi một cặp rắn hổ từ đâu phóng vụt lên trần tiếp liền có cái bóng nhảy vụt theo, ánh sáng kéo dài ngoằng xanh mét, rồi im lửa cháy bừng “xèo xèo” hiện ra một bóng người trắng toát đứng trên mặt lưỡi gần cuống họng, tay trái cầm một thoi bạch lạp lớn, tay phải bóp gọn hai con rắn hổ lớn ngay cổ, mang rắn bành ra phun phì phì to bằng cái đầu.
Dũng vừa thấy bỗng lạ thì lại có một con rắn hổ nữa từ đâu phóng lên mổ vụt vào gáy. Cái bóng nhanh đến độ Dũng chỉ thoáng thấy bóng rắn đen đã thấy mõm rắn độc dính chặt vào bóng người rồi. Nhưng chàng không khỏi giật mình, khi sực nhận ra chẳng phải con độc xà mổ trúng gáy người mà người này đã đảo ngoắt đầu lại đớp nghiến vào cổ con rắn lúc nào không biết. Cả ba con rắn hổ giẫy đành đạch, thò đuôi ngoáy nách. Cái bóng phát cười âm u, đưa tay búng lia lịa, phựt liền ba cái đuôi đứt nghiến, máu rỏ ròng ròng, bóng lạ ngậm luôn ba cái đuôi chùn chụt. Mãi lúc đó Thái Dũng mới kịp nhận thấy bóng lạ trùm kín, chính là cái bóng mặc quần áo đại tang đã cứu Thần Quân mang đi đêm trước! Đang phân vân không hiểu bóng này đến đây làm chi, bỗng thấy bóng lạ quăng bẹt ba xác rắn hổ, mắng:
– Rắn chúa thối! Làm gì trong ổ không ra để ta phải uống máu chó mãi!
Lời dứt, bóng lạ nhảy vèo sang bên kia. Dũng ghé mắt dòm thấy bóng lạ cầm nến soi khắp hang hốc, moi túi ra một cây hương lớn thắp quạt khói vào các hốc.
Mùi khét cực khó ngửi xông khắp ruột hang, liền mấy con rắn nhảy ra mổ nhưng đều bị bóng lạ tóm nghiến, thủ pháp lẹ dị thường. Cứ bắt được con nào lại uống máu, uống luôn cả nọc độc như không. Đang dòm, chợt thấy bóng lạ nhảy vọt đâu mất, chừng góc phút sau lại thấy phóng qua lưỡi đá, đứng sững cách Dũng độ ba bước. Dũng vừa ngoảnh sang, bóng lạ đã chợt trông thấy chàng, hét dữ:
– À! Chó thối! Phải tối qua ngươi cũng mò vào hang Địa Ngục núi Quạ?
Thái Dũng nhìn bóng lạ, qua làn vải trùm, hai con mắt người đàn bà long sòng sọc phát tia đỏ khé quắc như mắt điên của tay giỏi thôi miên ngó vào đâu muốn xém da thịt. Chàng trai trờ tới:
– Còn bà? Chính mỗ cũng đang lấy làm lạ không hiểu bà đến đây làm gì?
Bóng đàn bà hờ hờ dò xét, vùng phát tiếng cười gai:
– Nhỏ con! Ta hỏi ngươi, ngươi lại hỏi ta. Khùng! Đến làm gì?
– Còn bà?
Hai người hỏi vặn nhau luẩn quẩn, chợt người đàn bà hét:
– Cút đi! Đừng phá ta nữa! Để ta tìm rắn chúa!
– Tìm rắn chúa! À! Vậy bà cứ tìm! Mỗ tìm cái khác! Người nào việc nấy, không sao!
Người đàn bà nhìn Dũng, mắt trợn ngược:
– À! Nhỏ con! Tìm chi?
Dũng chưa kịp đáp, bỗng đâu phì vo vo, “véo” một tiếng, từ xó tối một vật loằng ngoằng nhỏ như cái đũa bắn vụt ra mổ vào người đàn bà áo trắng. Lúc đó người đàn bà đang đối diện Dũng nhưng tai thính lạ thường, lập tức hụp đầu tránh, múa tay chộp. Vật đen sì là một con rắn cực độc, luồn dưới ống tay áo bắn véo theo đường cánh cung mất dạng.
– À, phi xà vương! Rắn chúa độc nhất thế gian, bổ nhất hoàn cầu đây rồi!
Giỏi giỏi! Rắn chúa này giỏi võ lắm, tránh được quỷ thủ của…
“Véo” lại một con rắn khác màu trắng bắn ra, nhanh như một lưỡi móc câu phóng đâm vụt tới mổ người đàn bà, người này vừa lắc tránh, con rắn kia bắn xẹt qua mổ Dũng. Dũng vừa né kịp, con rắn đã mất dạng, chỉ để lại một mùi tanh tao nồng nặc, nhưng tinh mắt, Dũng đã nhận được chỗ nó vừa bắn vào, chính cái hốc sâu hun hút ngay cuốn họng rắn đá.
Người đàn bà tay vẫn cầm nến, có vẻ thích chí, hét đinh:
– Vợ chồng rắn chúa! Một giọt máu tăng thêm một tuổi thọ! Của báu thế gian! Đâu, đâu rồi? Nhỏ con! Người có thấy chỗ nó vừa bay hay không?
Dũng nghe người đàn bà cứ gọi mình là “nhỏ” không khỏi bực mình, nhưng đoán người này đã có tuổi, chàng vẫn giữ lễ, trỏ vào lỗ hổng cuống họng, chậm rãi nói:
– Chúng vừa bay vào đó!
Người đàn bà búng luôn mấy nhát vào lỗ, chỉ phong vo vo xói lỗ hút chìm.
Nóng nảy, bà ta nhảy phắt lên thành lưới, đốt hương khét lẹt mùi hồng hoàng ném miệng lỗ, đoạn lấy tay áo hất quạt thốc vào.
Không đầy phút, quả nhiên rắn chúa kỵ hồng hoàng, từ trong bắn xéo ra nhất tề mổ liền. Tay vẫn cầm thoi nến, tay kia người đàn bà đảo nhẹ một cái đã kẹp được cả hai con rắn.
Dũng đứng phía dưới đang ngẩng coi, bất ngờ vút có hai vật đen trắng bắn ra, thình lình mổ ống chân bà ta. Nhanh như điện giật, Dũng phất tay đánh bạt cặp rắn ra xa, dập vách tường nát thây, nhưng cặp rắn này lại bắn vèo vào hốc mất.
Lúc đó mới hay cặp trong tay người đàn bà là hai con rắn khác.
– À! Vợ chồng con rắn chúa này tinh quái như ma, biết đánh lừa, cắn trộm!
Nhỏ con lẹ tay lắm! Bắt sống chia đôi, nghe!
Bà ta lại lấy ra nén hương nữa thắp, quả khói um. Quả nhiên trong ổ chỉ còn cặp rắn chúa, bị hồng hoàng bắn ra, mỗi con táp mổ một người. Lần này cặp xà vương chúng đã nổi hung, vừa phun độc khí phì phì vừa phóng tới. Người đàn bà thủ pháp rất lẹ, nhưng chỉ kịp né tránh, không sao bắt nổi, lại đứng trống trơn trên lưỡi đá, cứ bị nó chao qua thao lại, mổ nhát xoay trở luôn, ngọn nến cầm tay có lúc rạp xanh chực tắt. Dũng đứng dưới từng được nghe xem rắn chúa phi nhanh như chớp đảo, lại biết xà vương cực độc, dẫu trong mình có tích chất độc, bị nó mổ trúng cũng nguy, nên chàng nhảy vèo lại tựa lưng vào vách, lựa kẹp ngay được cổ con rắn đực đen. Bỗng nến tắt phụt, có tiếng hét:
– Bắt giùm! Bắt giùm! Nó bị ta búng đứt đuôi rồi!
Liền có tiếng xé gió loằng ngoằng trốc đầu, rồi trong hang tối, có bóng luồn vút ra lối cửa khẩu.
Dũng vẫn đứng im, chờ mấy khắc thấy bốn bề quạnh quẽ, liền nhảy lên chỗ họng rắn đá, định vào ổ xà chúa tìm vật yểm tàng.
Nhưng vừa lên đã thấy người đàn bà kia từ ngoài nhảy vào, tay cầm một thoi nến mới thắp, kêu lớn:
– Nó trốn mất rồi! Kìa, nhỏ con sao không bắt giùm ta? Lên đây làm gì? Chao ôi! Mất của báu! Tiếc chết người!
Thái Dũng giơ con rắn chúa đực, điềm đạm bảo:
– Bắt được một đây! Nhưng hiện giờ Thần Quân đâu?
Người đàn bà mừng rỡ chìa tay định nhón lấy, giọng nói ngạc nhiên:
– Hỏi ông già mặt đỏ? À! Thế ra mi là học trò ông già? Nếu vậy mi đến đây kiếm gia phả họ Lê? Ông già mạnh giỏi lắm, mi yên tâm!
– Nhưng bà là ai? Sao lại đem “người” đi? Mỗ yên lòng sao được?
Chẳng ngờ vừa nghe đến đây, người đàn bà vụt nổi giận bừng bừng, trỏ mặt Thái Dũng mắng như tát nước.
– Chó thối! Biết tao là ai dám bảo không yên? Trên thế gian này, còn gì tốt bằng ông già mặt đỏ ở với tao?
Dũng lạnh lùng:
– Vâng, trên đời này tưởng còn gì bằng vợ con, nhưng mỗ đây đã chứng kiến cảnh vợ khảo chồng.
– Cút đi! Đưa rắn đây rồi cút đi cho rảnh!
Vừa nói vừa vọt lại, xuất thủ định giằng rắn chúa, năm ngón tay vươn như móc câu, nhưng Dũng đã cười bảo:
– Xem bà quen rắn độc, sao còn định đùa với rắn chúa? Giết một con chỉ giây lát cả vùng này sẽ đầy nhóc các giống độc xà Si Công Linh đến báo oán! Bà không biết phi xà vương có ám hiệu truyền điện sao? Uống máu một con… giảm thọ đó!
Miệng nói, tay quăng luôn con rắn đen ra ngoài mất biến.
Người đàn bà cắm luôn cây nến xuống kẽ đá, lừ lừ tiến đến lại sát Thái Dũng, trầm tiếng hét:
– Thả mất rắn phải thế mạng! Đừng hòng lấy gia phả! Món đó ông già đã để cho ta! Cút đi!
Dũng vẫn đứng yên, cau mày:
– Vô lý! Thần Quân bao giờ lại hai lời? Mỗ tuân di ngôn, không để ai gạt đâu!
– Chó thối! Ông già vợ khảo cả năm, không khai, nếu chẳng chịu cho ta sao biết nơi chôn giấu ở ngọn Mang Bành này?
Thái Dũng vụt lùi một bước, nghiêm giọng:
– Thầy mỗ không khi nào để ý! Hay… hay bà đã dùng độc mưu hãm hại Thầy mỗ?
Lời chưa dứt, người đàn bà đã xẹt tới, xòe ngón móc mắt nhanh như cắt. Thái Dũng lắc đầu tránh, đưa tay gạt mạnh một cái, thoáng nghĩ:
– Trong các môn, mình kém nhất quyền cận chiến bất lợi! Người này coi tài nghệ còn sắc hơn cả Thần Sầu!
Nào ngờ người đàn bà móc dữ, đảo luôn tay xỉa xuống bụng chàng, cấp thời vô phương tránh né, chàng trai ấn vụt hai tay xuống. Chát! Bốn bàn tay dính vào nhau như nam châm hút sắt. Người đàn bà vùng phát giọng chìm âm đắc chí:
– Nhỏ con! Mi mắc mẹo ta rồi! Sức mi chịu được mấy phát điện giật của Từ Thạch Công?
Dũng hơi chột dạ, hỏi nhanh:
– À! Thế ra bà là Quỷ Khấp Nương!
– Còn ai nữa? Mi tới số mới gặp ta! Hà hà!
Trong thoáng giây, Thái Dũng sực nhớ lời đồn đại về một người đàn bà kỳ dị tánh nết bất định, bản lãnh siêu việt đến độ quái gở, khắp giới giang hồ lạc thảo, quan binh mấy cõi Tàu Mán Mông đều phải kiêng nể, chưa kẻ nào đánh trúng bà ta một đòn mà thoát chết. Đó là một thiếu phụ không ai rõ quốc tịch, nói tiếng Kinh như người Kinh, nói tiếng Tàu như dân bản địa, thường mặc áo đại tang, có lúc rất hiền hậu chuyên cứu người, có lúc rất rợn giết người như ngóe, nhưng đặc biệt không bao giờ xuất thủ hạ sát. Bao giờ cũng để kẻ địch đánh trước và địch sẽ chết vì đòn đó. Vì người đàn bà rất giỏi về quyền cước chỉ trảo, có môn điện công hết sức lợi hại, được mệnh danh là “Từ Thạch Thần Công” hút dính tay chân địch thủ như nam châm và truyền điện công độc khí sang đánh chết trong nháy mắt. Kẻ bị đánh cháy thui xám xịt chẳng khác bị điện giật nướng hay bị sét đánh coi dễ sợ.
Người ngoài cuộc vẫn thấy bà ta bất động, chừng kẻ kia chết đen thui mới rõ.
Ngoài ra, người đàn bà này thỉnh thoảng lại khóc rống lên lúc đêm canh vắng, kẻ bạo gan cũng phải dựng tóc gáy, nên thiên hạ gọi là Quỷ Khấp Nương, có kẻ còn gọi là “Từ Thạch Quỷ Nương”. Không ai thấy mặt, biết tên tuổi hành tung. Trong kỳ truyền thuật tác xạ, chính Đại Sơn Vương có nhắc qua đến người đàn bà quái dị này và dặn thận trọng tránh đấu quyền chỉ trảo khi đối đầu.
Giờ nghe nói, Dũng sực nhớ ra thì tay đã dính chặt rồi.
Tuy hơi chột dạ, chưa lượng nổi điện công bà ta đến mức nào nhưng Thái Dũng vốn người điềm đạm, lập tức vận dụng nhân điện độc khí trong mình, dõng dạc:
– Quỷ Khấp! Vô thù oán, sao lại dùng đến đòn sinh tử?
Người đàn bà cười thé:
– Nhỏ con! Đã thấy điện giật chó thui? Số mi đã mạt, gặp ta lúc thích giết người. Nghe đồn mi được ông già mặt đỏ truyền nhân điện phải không?
– Quả đúng!
– À! Vậy đốt mi cũng như đốt ông già, coi tài nghệ được bao nhiêu! Hay lắm!
Theo tiếng cười sằng sặc, Dũng cảm rõ hai tay nóng ran, biết tình thế đã gay, chàng trai chưa kịp phản ứng đã nghe người đàn bà quát trầm tiếng “chết”. Từ tay bà ta một luồng điện khí vụt chạy sang, thoáng thấy mu tay bà ta đỏ gay như thép nung, chàng cảm rõ đến nghe một tiếng “ối” thất thanh, người đàn bà bắn lộn đi một vòng, giáng “huỵch” vào vách đá, loạng choạng lấy lại thăng bằng, dòm chàng kêu sững:
– Chó quái! Chó quái! Mi là ma hay người, làm bắn cả Từ Thạch điện công bà vào vách? Bà nhận điện, độc khí tích hàng thế kỷ công phu… luyện cả đời người…
Dũng chợt hiểu.. Thì ra trong thân thể chàng nhân điện chất độc tích chứa quá nhiều khi quát “khoan”, tự nhiên đã đầy điện công xung thoát, dội bắn bà ta đi, phải tay khác đã bị điện giật chết tươi.
Yên tâm, chàng mỉm cười chậm rãi:
– Quên khuấy chưa nói kỹ, mỗ đây tuy mới tập võ hơn năm, nhưng cũng là một cây thuốc độc sống, một cái lò phát điện đó!
– Chó quái! Lò chó thui! Cậy chó đú!
Quỷ Khấp Nương hét như điên, nhảy vọt lại vươn trảo chụp.
Không muốn tử chiến, Dũng lắc mình nhảy vọt ra lối ngoài.
Người đàn bà vọt đuổi theo. Nhờ được uống nước Thánh Tuyền Mang Bành Sơn, Dũng chạy rất lẹ, nào ngờ Quỷ Khấp Nương lẹ không kém, chặn ngay lối ra, hét:
– Chó đú chạy đâu! Ba đòn không chết, tao chịu chết!
Lời bay, kình lực theo liền. Dũng đành vung tay, quật lại.
Bùng! Toàn thân rung động, chàng trai bật lộn lại đến mấy bộ, chừng định thần trông ra, người đàn bà cũng đã bắn ra khỏi hang từ khắc nào rồi, thoảng trong gió lùa, còn nghe từ dư âm tiếng kêu ngân chuyển hốc đá. Rồi im.
– Điện lực Quỷ Khấp Nương dữ thật! Không vận toàn lực, chắc mình cũng nguy rồi! Chẳng hiểu bà ta sống thác ra sao? Đã định lần ra, sực nhớ đến gia phả, chàng trai tặc lưỡi, lao vội vào trong.
Thoi nến vẫn còn cháy chập chờn. Vọt lên lưỡi đá, chàng quơ nến, lách vụt vào hang rắn. Ổ rắn tanh lộn mửa, ẩm ướt nhơ nhớp đầy rãi rắn, nước rỉ, khí độc khí đá bốc ngụt, rải rác nhiều xác rắn lột đủ loại lớn nhỏ, xanh đỏ. Càng vào càng tanh, hang loe rộng, cuống lưỡi gồ ghề sắc nhọn, dòm hai bên có chỗ sâu đến thước rưỡi, vách đá rất nhiều hốc ổ đầy xác rắn lột, có chỗ còn cả con vừa lột nằm như chết. Soi tìm khắp nơi chẳng thấy chi lạ. Dũng sực nhớ Thần Quân đêm nào đem chàng lên cho uống nước quý, có nói: “Nước Thánh Tuyền uống phải lọc sạch chất độc vì khởi nguồn ngay chỗ xà chúa nằm. Nhờ hớp nước đó, chúng nhẹ thân thành phi xà.”
Thái Dũng theo đường rãnh trên lưỡi bước vào, chừng hai mươi thước thì đụng vách trong.
Quả nhiên chỗ đó có một hốc đá rất hẹp, ngay cuống lưỡi coi hệt một cái đài hoa hàm tiếu, có một cái lỗ đường kính chỉ vài phân, sâu độ bốn gang, lờ mờ dưới đáy có một miếng đá nhẵn bóng lấp lánh như ngọc.
Thái Dũng đảo mắt quan sát, ánh nến không soi thấu, chàng trai đoán gia phả giấu trong, vừa định thọc tay xuống để tìm bất thần nghe tiếng người đàn bà hét thé lảnh:
– Thằng chó đú đâu rồi? Còn hai đòn nữa, ra đây!
Dũng tắt phụt nến. Chừng mấy khắc lại nghe tiếng quát từ ngoài bay ngập hầm:
– Chó đú… ú… ú! Còn một đòn tay to, một đòn khí giới bên ngoài! Lẩn đâu rồi? À, hay nó mò vào ổ rắn!
Dũng khom mình dòm ra, thoáng thấy ánh lửa vật vờ ngoài hốc, chỉ độ năm bộ. Ánh lửa lại gần, thình lình lại nghe tiếng mắng lớn:
– À, lại bầy nhãi vật này nữa! Vào cả đây! Tao cho hít thuốc một thể!
Tiếp liền, ánh sáng nhảy nhót như ma chơi, gió rít ào ào, ngoài hốc veo véo như xé không khí, bùng bùng, hang động vang đá vụt bắn rào cả vào lô trong.
Không nghe tiếng người khác.
– À, rắn chúa trở về báo oán! Ổ nay nhỏ, nếu mụ ném khói mê, tình thế gấp lắm!
Thái Dũng thò luôn cả cánh tay xuống lỗ, quơ tìm lia lịa. Lổn nhổn khá nhiều thứ mềm nhớp, bỗng sờ phải vật chi tròn tròn như hạt đậu. Tưởng trứng rắn, nhặt lôi lên, mới hay đó là hai viên chì nhẵn thín, sáng chói phát tia trong bóng tối, giống hột cườm dưới ánh mặt trời, coi rất lạ.
– Vật chi? Hay… Ngọc rắn? Xưa nay từng nghe người đời nói đến ngọc rắn ngọc rết, mình chưa hề thấy. Biết đâu?
Bỏ luôn vào túi, chàng lại quơ ngược lên, sờ từng tấc đá, đã hơi thất vọng, bỗng sờ ngay phải một vật cứng gọn, giật nhẹ, lôi ra được một ống nứa khô. Thì ra chỗ đó có một lỗ sâu. Cả mừng, thử xoay, mới hay ống nứa có nắp đậy. Thái Dũng cho luôn vào ngực áo. Đúng lúc đó, từ ngoài liền mấy đường chỉ phong bắn xiên vào, chàng vừa vọt tránh đã thấy bay vào một khối lửa rực, xông mùi thơm hắc rất lạ khứu giác.
Vừa hít phải, Dũng sực thấy choáng váng thất kinh vội nín thở, bế huyệt, đánh ra một nhát phản phong, và cửa tử lao vút mình ra ngoài như tên bắn. Thân thể mới ra chừng chín phần mười, đã nghe tiếng động ầm ầm, giữa vùng sáng lửa vật vờ, thoáng thấy hàng đàn rắn lớn nhỏ vừa bắn dạt tứ phía. Một bóng mặc đại tang từ bên hữu phóng lại, xòe tay xỉa luôn vào ngực!
Lấy được vật báu rồi, Dũng không muốn ở lại làm chi, thân đang lơ lửng túng thế, đưa luôn tay gạt nhanh. Chát! Hai tay chạm nhau, nương điểm tựa, Dũng quăng mình như trái cầu, ngay khi chân chưa chạm đất, chàng uốn mình đứng ngay đã cách ổ rắn trong hơn một bộ. Ra khỏi vòng vây rắn, dòm lại, thấy hàng trăm con đang ùa vào mổ Quỷ Khấp Nương. Người đàn bà vừa đánh đuổi rắn vừa hét:
– Thằng con quan ôn! Lại tao hỏi đã! Mi đã tìm thấy của…
– Chán rồi! Mỗ đi đây! Chúc bà mạnh giỏi, ở uống máu rắn quý, tìm bảo vật!
Thân thể vọt như mũi tên rời dây cung, chàng tuổi trẻ lao một mạch ra khỏi khi hang rắn chúa.
Ra tới ngoài, còn nghe phía trong ầm tiếng động. Trông lên trăng hạ tuần đã lên cao vàng bệch, cả vùng Mang Bành Sơn vẫn chìm trong im lặng thâm sâu.
Không chậm nửa khắc, chàng trai họ Lê lấy luôn hành lý khí giới, lập tức rời khỏi ngọn chạy xuống núi như giông.
Mãi đến lúc ngồi trên lưng Huyết Phong Câu phóng sâu vào khu rừng Si Công Linh, chàng mới yên trí, rạp mình theo nhịp ngựa lòng lâng lâng nghĩ đến nhiệm vụ vừa xong.
Trăng khuya nhạt bệch, núi rừng quạnh quẽ, đi khỏi Mang Bành Sơn đến mấy dặm, vẫn không thấy tăm tích Quái Ma đâu, cả người đàn bà quái dị Từ Thạch Nương cũng chẳng thấy bóng.
– Đòn công nặng lắm. Hai con quái độc không chết cũng bị thương. Vợ chồng Sam sức báo thù chẳng hiểu có bắt được chúng không? Còn Quỷ Khấp Nương, người đàn bà kỳ dị kia là ai? Biết đâu lại chẳng là con gái Thần Quân?
Nghĩ đến ông thầy bất hạnh, chàng trai dột lòng, gò phắt dây cương định lộn lại tìm người đàn bà lạ. Nhưng nhớ đến cuốn gia phả trong mình muốn coi trước rồi sẽ liệu, nhất lại thấy người đàn bà kia không có ác ý với thầy mình, chàng trai bèn giật cương, tế ngựa như gió, thỉnh thoảng lại thình lình quẹo trái, ngoắt hữu, đổi hướng luôn, phòng bị theo dõi.
Lát sau trông lại ngọn núi Mang Bành đã chìm khuất trong sương, bốn phía rừng già hoang vắng, ngẩng nhìn về phương Bắc từng dãy quần sơn như vẽ vào nền trời trăng nhạt, le lói vài ánh lửa Mèo chơi vơi trên ngọn mây. Chàng trai mới yên dạ, hạ nước phóng, đi kiệu băm đảo về mạn Tây Bắc vỗ nhẹ vào cổ ngựa.
– Huyết Phong Câu! Giỏi lắm! Đường xa dặm thẳm, một đêm vượt mấy giải biên thùy, xứng danh thiên lý mã không thua Xích Thố, Ô Truy! Giờ cứ chậm xuyên sơn dưỡng sức, còn nhờ mi nhiều đó.
Linh mã vểnh bờm, hý khẽ, từ đó thả vó êm ru. Thái Dũng quấn dây cương vào chỏm yên, lim dim mắt theo nhịp ngựa đều, chợp đi lúc nào không biết. Sau hai ngày hai đêm xông pha thức trắng, gió đêm rừng hiu lạnh xoa dịu thần kinh, chàng tuổi trẻ ngồi ngủ trên lưng ngựa như một võ tướng miền thảo nguyên Mông Cổ, mãi đến lúc mảnh trăng hạ tuần xế non Tây.
Chừng chợt thức, mở choàng mắt ra, mới hay trời đã sáng. Trông ra núi rừng đã nhuộm bình minh, ngựa đang đi giữa một miền sơn kỳ thủy tú, chim kêu vượn hú véo von, dưới vó câu đầy kỳ hoa dị thảo ngát hương, tùng bách um tùm, suối khe róc rách.
Mấy con gà rừng đang gáy, nghe tiếng chân ngựa vùng bay tán loạn kêu quang quác.
Thái Dũng cho ngựa bước một tiến đến con suối bên trái uốn khúc giữa một vùng cỏ xanh mởn, gần rặng núi đá.
Nhảy xuống đất vươn vai, thấy dễ chịu hẳn, bèn nới dây đai ngựa, thả cho con vật ăn cỏ, uống nước, và xách “sắc” hành trang, kiếm chỗ hờ có thạch bàn, ngồi nghỉ.
Thấy nước suối trong veo, chàng bèn tháo giầy vải, rửa chân, lội ra ngoài dòng rửa mặt. Nước mát lạ, tuy sang mùa thu, không lạnh như các con suối khác.
Nhận thấy quần áo mình mẩy đầy cát bụi đường trường, nhớp mồ hôi, lại dây mấy giọt máu, chàng liền cởi quần áo, nhảy luôn xuống tắm. Ống nứa để gia phả rút ra nhét vào “sắc”, quần áo ném bên, định tắm xong sẽ giặt luôn thể. Chừng nhảy xuống thấy nước mát dịu tỉnh hẳn người, chàng khoan khoái khoa tay bơi một quãng. Xế bên kia có một tấm thạch bàn lớn, cách chỗ để quần áo độ mươi thước, chàng trèo lên ngồi kỳ cọ.
Vùng rừng núi này rất nhiều khỉ, vượn. Nhân bình minh kéo nhau ra ríu rít từng bầy, con hót con đánh đu rào rào, mấy con chuyền cành ra sát bờ suối. Thấy bóng người, cả lũ bỏ chạy xa xa, vừa đu vừa dòm. Ngước trông lên, thấy chúng Thái Dũng vốc nước té đùa. Cả lũ lại chạy xa thêm.
Chợt có một cặp vượn khoang từ đâu đu vèo lại, vừa đu vừa hót véo von, chốc chốc vươn mắt dòm. Dũng cười, khen:
– Chà, hay lắm! Trò tiếu hay lắm! Làm nữa coi!
Hai con vượn lại đu, hát, có một con nắm lấy một cành cây xòa bên dòng xế chỗ Dũng chỉ độ mười thước, buông thòng mình dòm chàng và… đái tồ tồ… một tay bốc nước đái ngửi!
Dũng hắt nước mắng. Con vượn cứ đu đưa, đoạn lại thò tay gãi dái sồn sột.
– À, con quái này gớm thật!
Dũng vốc nước, ném mạnh. Rắc! Cành cây gẫy, con vượn rớt xuống đất, kêu chóe chóe. Dũng cả cười. Con vượn đu tới liền. Dũng đang nhìn, thình lình nghe con Huyết Phong Câu hý mạnh mấy tiếng. Chàng ngoảnh phắt lại, thấy con ngựa đang phóng tới chỗ để quần áo, và có một bầy ba, bốn con vượn khác đang đu vèo vèo xuống. Chàng vừa phắt thấy thì lũ vượn này đã nhảy ùa cả lại chỗ thạch bàn, bụi rậm, vồ hành lý, quần áo chàng.
– Chà, lũ quái gớm thật! Dám ăn trộm đồ vật!
Thái Dũng biết giống khỉ vượn rất tinh nghịch, thường khi ăn cắp cả lương thực thổ dân nên vội lớn tiếng quát đuổi. Thấy động chúng phá chạy tứ tán, nhưng vẫn không chịu buông đồ, gớm nhất là có hai con lớn lôi cả “sắc” nặng nhảy lên cành, có con vớ phăng cả dây súng.
Cấp thời Thái Dũng vội cúi xuống, bốc được mấy hòn sỏi, vừa vọt về đuổi, vừa ném veo véo như vãi đậu.
Hai con cắp “sắc” trúng đạn sỏi, ngã lộn nhào, liền với con trộm dây súng, gậy song. Nhưng khi Dũng vọt được lên bờ, có con bị thương cố phá chạy cùng hai con trước ôm quần áo. Hai con này vồ nhảy lên cành, thoát khỏi, cứ thế đu nhử trêu Thái Dũng. Thấy chúng đã chuyền khá xa, bèn cúi nhặt hai hòn sỏi nhỏ búng vút theo. Chóe! Trúng tay con ôm quần áo ra ngoài ngay lúc vừa lìa cành, rớt lộn nhào xuống quần áo vãi tung.
Nhưng nó lại bíu được cành đu đi cùng con kia chuyền lên ngọn, chạy biến mất. Dũng trông ngang vướng cành lá, không thấy, bèn nhặt lấy y phục. Kiểm lại, chỉ mất một cái áo “may ô” lót mình, chàng trai ngó xác một con bị chết nằm gần đấy, lắc đầu tặc lưỡi, lẩm bẩm:
– Hừ! Không ngờ khỉ vượn vùng này gớm thế! Phá chọc người như giặc! Đó rồi, chàng bèn tay y phục, đem bộ quần áo bẩn ra giặt, phơi, đoạn ngồi ngay thạch bàn, nhớ đến cuốn gia phả, bèn lấy ra coi.
Trong ống nứa còn một ống sắt nữa đựng hai cuốn sách. Một khổ lớn như loại sách chữ nho, bằng giấy bản, bìa giấy bồi phết cây già dùng nước không mủn rách.
Ngoài bìa có hàng chữ son viết dọc, nhiều nét đã phai mờ.
Lê gia chi phả hệ tộc thứ chi tằng tổ Long Đĩnh Còn cuốn kia chỉ bằng bàn tay, bìa sơn cũng giấy bản, chữ thảo, ngoài đề mấy chữ Nôm rất lạ:
Cả hai cuốn sách này xem xong sẽ hóa thành chó sói…
Kẻ nào mà thoát khỏi sẽ tìm thấy bí mật giữa âm thanh.
Nhận được nét chữ Thần Quân, Thái Dũng không khỏi ngạc nhiên về lời ghi chú bên ngoài, bèn nghĩ thầm:
– Trong này có gì nguy hiểm? Lời nguyền Lộng ngữ? Tà thuật? Đe dọa? Hay thử thách về vật lý? Đắn đo mấy khắc, chàng bèn để cuốn gia phả xuống lòng, duỗi chân, tựa vào thân cây, giở cuốn phụ ngôn của Thần Quân ra xem thử.
Nhưng giấy bản chừng để chỗ ẩm thấp đã lâu, nên gần như dính vào nhau rất khó giở. Rất tự nhiên, theo thói quen thông thường của nhiều người khi đếm bạc giấy, giở sách khô, chàng bèn đưa ngón tay lên miệng thấm nước bọt, lần từng tờ. Đây gần như tập ký ức sự của Hồng Diện Thần Quân, chữ rất nhỏ, suốt mấy chục tờ đầu ghi lại cuộc đời phong trần bất hạnh của ông già, từ ngày luyện võ tầm thù cho đến đêm tuyệt vọng được rõ kẻ thù đã chết rồi, âm thầm đến miền sông Gầm gặp đêm thảm sát Lê Gia trang.
– À, đây rồi! Biết đâu “người” chẳng tiết lộ cho ta thấy vài tia sáng về vụ án Lê gia!
Thái Dũng cả mừng, giở vội trang sau chú ý coi, bỗng nhiên thấy mắt hoa hẳn lên, đầu choáng váng lạ thường như kẻ bị gió độc. Nét chữ nhảy múa trước mắt, cảm rõ trong mình vụt chuyển sang một trạng thái hết sức kỳ dị. Người tê hẳn đi, ngứa ngáy rồi trong khoảnh khắc, người hâm hấp, rõ sắp lên cơn sốt rét, khát nước lạ lùng.
– Sốt rét rừng chăng? Trời! Nguy rồi! Khéo mình bị nhiễm độc!
Chàng trai thất kinh, bật tiếng khẽ sực nhớ lại hồi bị kiếm Đông Quân chém, trạng thái trong người lúc đầu cũng giống bây giờ. Và chàng nhớ luôn đến câu chuyện hẹn giờ chết từng được nghe hồi còn đi học. Có kẻ chết đi, để lại một tập sách với lời nguyền ghi ngoài hẹn “kẻ nào đọc xong năm phút sẽ chết liền.” Sách vào tay kẻ thù, người này đọc xong quả nhiên ngã lăn ra chết ghê gớm như bị một lời nguyền linh thiêng. Mãi sau người ta mới hay người đó đã thác vì chất độc. Tập sách kia tờ nào cũng tẩm các chất độc, nạn nhân chết vì vô tình dùng tay thấm bọt miệng giở cho dễ, và tự nhiên đã nhấp chất độc mà không biết.
– À! Đúng rồi! Sách có tẩm nọc rãi chó sói điên lẫn các chất độc khác! Vô tình ta bị trúng rồi!
Kinh dị, Dũng vội ngồi cấp tốc bế huyệt, tay phải cầm sách, tay trái thò vào túi áo trong tìm thuốc giải.
Nào ngờ vừa may kiếm được một viên linh đơn của Lãn Ông tái thế Mai Hoa Thung cho ngày nào, chàng trai chưa kịp bỏ miệng thình lình “soạt” cái tập sách bay vụt lên không.