Thành bại hơn thua cũng bởi trời,
Cuộc đời nghĩ lại tưởng như chơi.
Trăm sự chẳng qua do mạng số,
Phúc phận cho mình được đấy thôi.
*
* *
Xe đi lộc cộc ngày đêm không nghỉ. Huyền Nạn, Đặng Bách Xuyên,
Khang Quảng Lăng cả bọn đều là những nhân vật có bản lãnh trong võ
lâm, lúc này võ công đều mất hết, trở thành những người tù tùy thuộc vào
tay người khác bảo sao chịu vậy. Mọi người chỉ đoán chừng đoàn xe đang
đi về hướng đông nam.
Cứ như thế đi tám ngày liền, đến ngày thứ chín, mới sáng sớm đã đi
lên một sơn đạo. Đến trưa hôm đó, địa thế càng lúc càng cao, đến sau xe
lớn không thể lên nổi. Bọn đệ tử phái Tinh Tú gọi bọn Huyền Nạn ra
khỏi xe, đi bộ chừng hơn nửa giờ đến một nơi thấy trúc mọc dầy đặc,
cảnh sắc thanh nhã, bên giòng suối là một tòa lương đình dựng toàn bằng
tre lớn, cấu trúc tinh nhã thật là khéo léo, trúc là đình, đình là trúc khiến
thoạt vừa trông không biết đó là rừng trúc hay đình viện. Phùng A Tam
tấm tắc khen ngợi, nhìn ngang nhìn ngửa trong lòng bán tín bán nghi.
Mọi người liền vào trong đình ngồi nghỉ, từ sơn đạo có bốn người rảo
bước đi xuống. Hai người đi trước là đệ tử của Đinh Xuân Thu, chắc là
khi xe vừa dừng bánh đã lên núi thám thính hoặc báo tin. Đi sau là hai
thanh niên ăn mặc theo lối nhà nông, đến trước mặt Đinh Xuân Thu khom
lưng hành lễ, trình lên một phong thư.
Đinh Xuân Thu mở ra xem qua, cười khẩy nói:
– Hay lắm! Hay lắm! Ngươi vẫn chưa thoái chí đòi quyết một trận
sinh tử, ta sẽ bồi tiếp.
Người thanh niên lấy trong túi ra một cái pháo hiệu, đốt lửa châm,
nghe bùng một tiếng, chiếc pháo đã bay vọt lên không. Những pháo bình
thường nổ một tiếng bay lên rồi sẽ nổ bạch một tiếng vỡ tung ra, còn
chiếc pháo hiệu này lên trên trời nổ bạch bạch bạch liên tiếp ba tiếng.
Phùng A Tam ghé tai Khang Quảng Lăng nói:
– Đại ca, pháo này do bản môn chế tạo.
Không bao lâu từ sơn đạo một đoàn người đi xuống, tổng cộng phải
đến hơn ba chục người, đều mặc theo lối nhà quê, tay cầm binh khí dài.
Đến gần hơn mới thấy đây không phải là binh khí mà là đòn gánh, cứ hai
chiếc đòn gánh lại có mắc một chiếc võng để cho người ngồi. Đinh Xuân
Thu cười nhạt:
– Chủ nhân chiều khách, các ngươi không phải khách sáo, lên võng
đi thôi.
Bọn Huyền Nạn các người liền lên cáng, những thanh niên đó hai
người khiêng một người, bước đi nhanh nhẹn chạy thẳng lên núi. Đinh
Xuân Thu tay áo rộng phất phới, đi trước. Y đi không có vẻ gì gấp gáp
nhưng cứ theo sơn đạo khúc khuỷu mà vùn vụt như cưỡi gió lướt đi, chân
không chạm đất, chỉ một thoáng đã biến mất trong khu rừng trúc.
Bọn Đặng Bách Xuyên bị trúng Hóa Công Đại Pháp của Đinh Xuân
Thu đều phẫn nộ cho rằng mình bị yêu pháp làm hại, chưa đánh đã thua
bây giờ thấy khinh công của y cao siêu như thế, bản lãnh đó không thể
đánh lừa được, ai nấy thán phục nghĩ thầm: “Nếu y không sử dụng công
phu yêu quái chăng nữa thì mình cũng chẳng phải là đối thủ”. Phong Ba
Ác khen ngợi:
– Lão yêu này khinh công cao siêu quá, quả thật bội phục hết sức.
Y vừa mở miệng tán thưởng, bọn đệ tử phái Tinh Tú lập tức ùa theo
xưng tụng, nói là võ công Đinh Xuân Thu đương thế không ai sánh kịp đã
đành mà các võ học đại sư từ xưa đến nay, dù cho Đại Ma lão tổ… cũng
chẳng bằng, toàn những lời nịnh hót chưa ai từng nghe bao giờ. Bao Bất
Đồng nói:
– Này các vị lão huynh, công phu của phái Tinh Tú quả thực hơn hẳn
các môn phái khác, quả đúng là “tiền vô cổ nhân, hậu vô lai giả”.
Bọn đệ tử ai nấy mừng rơn, một người liền hỏi lại:
– Theo ý của huynh đài, công phu ghê gớm nhất của môn phái chúng
tôi là công phu gì thế?
Bao Bất Đồng đáp:
– Nào phải chỉ một môn, ít ra cũng phải ba môn.
Bọn đệ tử càng thêm phấn khởi, nhao nhao hỏi:
– Ba môn nào?
Bao Bất Đồng nói:
– Môn thứ nhất là Mã Thí Công1. Công phu này luyện không tinh, e
rằng không sống nổi trong quí phái được một ngày một buổi. Môn thứ hai
là Pháp Loa Công2, nếu không thổi phồng tài ba đức hạnh của quí môn
lên rõ to thì chẳng những bị sư phụ ghét bỏ mà ngay cả đồng môn cũng
chèn ép, không còn đường nào mà ngóc đầu lên. Còn môn công phu thứ
ba là Hậu Nhan Công3. Nếu không biết táng tận lương tâm, mặt dày mày
dạn thì làm sao luyện cho thành được Mã Thí và Pháp Loa hai đại kỳ
công?
Y nói ra rồi, tưởng rằng quần đệ tử phái Tinh Tú sẽ nổi giận đùng
đùng, xông lại tẩn cho một trận, nhưng mấy câu đó đã lên đến cổ, không
1 2 3
nói không chịu được, ngờ đâu bọn kia nghe xong, ai nấy lặng lẽ gật gù.
Một người nói:
– Lão huynh quả thực thông minh, biết rất rõ những kỳ công của bản
phái. Có điều ba môn kỳ công Mã Thí, Pháp Loa, Hậu Nhan tu tập cực kỳ
khó khăn. Những người tầm thường bị nhiễm thói của thế tục, luôn luôn
nghĩ đến tốt, xấu giữ trong lòng cái thói hủ lậu phân biệt thiện ác, chia ra
thị phi thì khi tu tập môn Hậu Nhan Công, cố gắng nhiều, thành tựu chẳng
bao nhiêu, lúc nào cũng thắc thỏm, công phu sẽ kém đi một mức.
Bao Bất Đồng ra lời châm chích, nào có ngờ được bọn này lại thản
nhiên như không, chẳng nghi ngờ gì cả, không khỏi kinh ngạc, cười nói:
– Thần công của quí phái thâm áo không đâu sánh kịp, tiểu tử vốn
thầm ngưỡng mộ, mong được đại tiên mở đường khai lối.
Gã kia nghe Bao Bất Đồng gọi mình là “đại tiên”, mặt liền câng câng
đắc ý nói:
– Ngươi không phải là người trong bản môn, cái bí áo của thần công
ta không thể nào truyền thụ cho ngươi được. Thế nhưng cái đạo lý thô
thiển mặt ngoài có nói cho ngươi biết cũng không sao. Bí quyết trọng yếu
hơn cả là phải coi sư phụ không khác gì thần minh, dù cho lão nhân gia có
đánh rắm…
Bao Bất Đồng liền cướp lời:
– Đương nhiên phải khen thơm rồi. Lại phải hít lấy hít để, ca ngợi hết
lời…
Gã kia chặn lại:
– Lời của ngươi nói chung thì đúng nhưng vào chi tiết cũng có khuyết
điểm, không phải là “hít lấy hít để” mà phải là “hít rõ mạnh, thở thật
êm”.
Bao Bất Đồng khen rối rít:
– Đúng quá! Đúng quá! Đại tiên chỉ điểm thật phải, nếu như thở
phào ra thì có phải đã coi rắm của sư phụ… không… không thơm lắm
hay sao.
Người kia gật đầu nói:
– Đúng đó, thiên tư của ngươi cực tốt, nếu như đầu nhập bản phái thì
cũng có triển vọng, tiếc rằng lầm đường lạc lối tả đạo bàng môn. Công
phu bản môn biến hóa vô cùng nhưng công quyết cơ bản thì cũng không
phức tạp lắm đâu chỉ cần nhớ kỹ bốn chữ “rũ sạch lương tâm” là làm gì
cũng không sai sẩy nhiều.
Bao Bất Đồng gật gù liên tiếp nói:
– Quả đúng là:
Nghe ngài nói chuyện một đêm,
Còn hơn đọc sách mười năm dùi mài.4
Tại hạ trong lòng từng ngưỡng mộ quí phái từ lâu, tiếc thay không
được đầu nhập làm môn hạ, không biết đại tiên có vui lòng tiến dẫn
chăng?
Gã kia mặt nhơn nhơn, mỉm cười đáp:
– Gia nhập bản môn nào phải chuyện đùa, phải qua bao nhiêu khảo
nghiệm cực kỳ khó khăn năm này tháng nọ, chỉ sợ ngươi không chịu nổi
mà thôi.
Một tên khác liền chặn lại:
– Nơi đây tai mắt lắm người, không nên nói chuyện nhiều. Họ Bao
kia, nếu ngươi quả có lòng muốn xin vào bản môn, đợi khi nào sư phụ ta
trong lòng khoan khoái, ta sẽ nhân đó nói tốt cho ngươi vài câu. Bản phái
thu nhận đồ đệ rất đông, ta xem ngươi căn cốt cũng không đến nỗi tệ, nếu
được sư phụ mở lòng từ bi, nhận ngươi làm học trò, may ra mai sau cũng
nở mày nở mặt.
Bao Bất Đồng mặt nghiêm lại đáp:
– Đa tạ! Đa tạ! Ân đức của đại tiên, Bao mỗ quyết không bao giờ
quên được.
4
Bọn Đặng Bách Xuyên, Công Dã Can nghe Bao Bất Đồng phỉnh nịnh
bọn đệ tử phái Tinh Tú, trong bụng không khỏi vừa tức cười, vừa lộn ruột
nghĩ thầm: “Trên đời này sao lại có những kẻ hèn mạt vô sỉ đến thế, lấy
trò bốc thơm, bợ đít làm vinh, quả thực chưa từng nghe đến”.
Trong khi nói chuyện, đoàn người đã đi vào một sơn cốc, bên trong
thung lũng toàn là cây tùng, gió núi thổi đến tiếng reo dạt dào như sóng
vỗ. Đi thêm chừng một dặm nữa thì đến ba gian nhà gỗ. Trước nhà là một
cây cổ thụ bên dưới hai người ngồi đối diện nhau. Người phía bên trái có
ba người đứng sau lưng. Đinh Xuân Thu đứng xa xa, ngẩng đầu nhìn trời,
thần tình cực kỳ ngạo mạn.
Đoàn người đến gần, Bao Bất Đồng nghe thấy Lý Khổi Lỗi ở cáng
phía sau ồ lên một tiếng, dường như định nói gì nhưng lại cố nén lại. Bao
Bất Đồng quay đầu lại nhìn, thấy mặt y tái nhợt, thần tình cực kỳ hoảng
hốt. Bao Bất Đồng hỏi:
– Ngươi làm sao thế? Trông thấy ma à? Làm gì mà sợ vậy?
Lý Khổi Lỗi không trả lời, làm như không nghe thấy y nói gì. Đến gần
hơn nữa, thấy giữa hai người ngồi là một phiến đá lớn, bên trên có một
bàn cờ, hai người đang đánh. Người ngồi bên phải là một ông già nhỏ bé
gầy gò, còn phía bên trái là một thanh niên công tử. Bao Bất Đồng nhận
ra thanh niên đó chính là Đoàn Dự, trong lòng chán ngắt, nghĩ thầm: “Ta
đối với tiểu tử này cực kỳ vô lễ, hôm nay y thấy mình thân tàn ma dại thế
này, gã thể nào chẳng buông lời nhạo báng”.
Chỉ thấy bàn cờ được khắc vào một phiến đá xanh lớn, quân trắng
quân đen đều bóng lộn, hai bên đã để được đến trên trăm quân. Đinh
Xuân Thu chậm rãi đến gần xem hai người, ông già thấp bé cầm một
quân đen để xuống, đột nhiên đôi lông mày nhướng lên, dường như trông
thấy cuộc cờ đi vào chỗ biến hóa kỳ diệu. Đoàn Dự cầm một quân cờ
trắng, trầm ngâm chưa đặt xuống. Bao Bất Đồng kêu lên:
– Này, tiểu tử họ Đoàn kia, ngươi hỏng rồi, cờ vào thế tiến cũng dở ở
không xong chịu thua quách đi thôi.
Ba người đứng sau lưng Đoàn Dự liền quay lại hầm hầm nhìn y, chính
là bọn Chu Đan Thần ba người hộ vệ. Bất thình lình, Khang Quảng Lăng,
Phạm Bách Linh cả bọn Hàm Cốc bát hữu người nào cũng từ trên cáng
gắng gượng nhảy xuống, đi đến cách bàn cờ bằng đá xanh chừng một
trượng, cùng quì cả xuống. Bao Bất Đồng kinh ngạc nói:
– Làm trò quỉ gì đây?
Vừa mới nói ra khỏi miệng lập tức hiểu ngay, ông già mình hạc xác ve
kia chính là Lung Á lão nhân Thông Biện tiên sinh, sư phụ của Hàm Cốc
bát hữu. Thế nhưng ông ta cũng là kẻ tử đối đầu của Tinh Tú Lão Quái
Đinh Xuân Thu, kẻ đại thù trước mặt sao vẫn còn nhàn hạ ngồi đánh cờ?
Đối thủ của ông ta lại chẳng phải là một nhân vật trọng yếu mà chỉ là
một anh đồ gàn không biết võ công?
Khang Quảng Lăng nói:
– Lão nhân gia xem chừng còn khang kiện hơn xưa, bọn hậu bối tám
người chúng tôi mừng không sao kể xiết.
Hàm Cốc bát hữu đã bị Thông Biện tiên sinh Tô Tinh Hà đuổi khỏi sư
môn nên không dám gọi ông bằng thầy. Phạm Bách Linh nói:
– Huyền Nạn đại sư của phái Thiếu Lâm đến thăm lão nhân gia đó.
Tô Tinh Hà đứng bật dậy, quay về mọi người vái một cái thập sâu nói:
– Huyền Nạn đại sư giá lâm, lão hủ Tô Tinh Hà không kịp nghinh
tiếp, thật đáng trách lắm.
Ông ta chỉ liếc ngang mọi người một cái rồi lại quay ngay trở lại bàn
cờ. Mọi người đã nghe Tiết Mộ Hoa kể rõ nguyên nhân tại sao sư phụ
ông ta bị ép phải giả như câm như điếc, lúc này ông ngang nhiên mở
miệng nói năng, xem ra đã quyết cùng Đinh Xuân Thu một mất một còn.
Khang Quảng Lăng, Tiết Mộ Hoa cả bọn không thể không liếc qua nhìn
Đinh Xuân Thu một cái, trong lòng vừa phấn khởi, vừa âu lo.
Huyền Nạn nói:
– Không dám! Không dám!
Ông thấy Tô Tinh Hà coi bàn cờ trọng như thế nghĩ thầm: “Người này
tạp vụ quá nhiều, thư họa cầm kỳ, không môn gì không tinh thông, thảo
nào võ công không bằng sư đệ”.
Trong khi không ai nói một tiếng nào, bỗng dưng Đoàn Dự cất tiếng:
– Được rồi, đi vào đây.
Chàng vừa nói vừa đặt một quân cờ trắng xuống bàn cờ. Tô Tinh Hà
mặt lộ vẻ vui mừng, gật đầu, dường như đã hiểu tay đặt một quân cờ đen
khác. Đoàn Dự đã nghĩ xong được mươi nước trước, liền hạ thêm một
quân trắng khác, Tô Tinh Hà lại để một quân cờ đen.
Hai người đặt được hơn mươi quân rồi, Đoàn Dự thở dài một tiếng, lắc
đầu nói:
– Lão tiên sinh bày bàn cờ Trân Lung này quả là thâm áo xảo diệu,
vãn sinh không phá giải nổi.
Xem ra Tô Tinh Hà đã thắng, tuy nhiên mặt ông ta lại lộ vẻ thất vọng
nói:
– Kỳ tứ của công tử quả là tinh mật, mười nước vừa đi thật cao,
nhưng chưa nghĩ được sâu thêm một chút, thật là đáng tiếc! Đáng tiếc
thay! Ôi, thật đáng tiếc thay, đáng tiếc lắm thay!
Ông ta liên tiếp chép miệng, miệng nói bốn lần “đáng tiếc” quả thực
biết bao ngậm ngùi. Đoàn Dự nhặt mười quân cờ trắng mình vừa đi lên,
bỏ trở lại vào hộp, Tô Tinh Hà cũng lấy mười viên cờ đen của mình mới
bỏ xuống, bàn cờ trở lại trận thế như lúc đầu.
Đoàn Dự lùi lại đứng qua một bên, nhìn bàn cờ ngẩn ngơ suy nghĩ:
“Thế cờ Trân Lung này chính là bàn cờ hôm trước ta đã thấy trong thạch
động núi Vô Lượng. Vị Thông Biện tiên sinh này và thần tiên tỉ tỉ trong
động ắt có uyên nguyên, đợi khi nào thuận tiện ta sẽ len lén hỏi ông ta
nhưng không thể để cho người ngoài hay biết. Nếu không mọi người sẽ
tìm đến để nhìn thần tiên tỉ tỉ, chẳng phải khinh mạn nàng lắm hay sao?”.
Người thứ hai trong Hàm Cốc bát hữu là Phạm Bách Linh cũng là một
người mê đánh cờ, từ xa đứng nhìn kỳ cục, biết rằng không phải sư phụ
cùng thanh niên kia đánh cờ mà là sư phụ bố trí bàn cờ Trân Lung, còn
thanh niên kia thử vào phá giải nhưng giải không được. Y quì dưới đất
nên nhìn không rõ, đầu gối lập tức nhấc lên, vươn dài cổ định nhìn cho rõ.
Tô Tinh Hà nói:
– Tất cả các ngươi mau đứng dậy! Bách Linh, thế cờ Trân Lung này
có ảnh hưởng rất lớn, ngươi lại đây xem thử, nếu như phá giải được thì
thật hay không đâu cho hết.
Phạm Bách Linh mừng rỡ vội đáp:
– Vâng!
Y liền đứng lên, đi đến bên cạnh bàn cờ, ngưng thần xem xét. Đặng
Bách Xuyên hỏi nhỏ:
– Nhị đệ, sao lại gọi là Trân Lung?
Công Dã Can cũng thì thầm trả lời:
– Trân Lung tức là nạn đề của môn cờ vây. Đó là cờ thế do người ta
cố ý bày chứ không phải do hai người đánh cờ mà thành, do đó hoặc sinh,
hoặc kiếp nước nào cũng thật khó mà đoán được.
Những thế Trân Lung tầm thường, ít thì mươi quân, nhiều có khi lên
đến bốn năm chục quân, thế nhưng bàn cờ này có đến hơn hai trăm, gần
như kín cả bàn cờ rồi. Công Dã Can cũng không hiểu biết bao nhiêu, xem
một hồi chẳng hiểu gì cả nên không coi nữa.
Phạm Bách Linh chuyên tâm nghiên cứu cờ vây mấy chục năm qua,
quả đã là một cao thủ về môn này, thấy trên bàn cờ trong kiếp có kiếp,
lại có cộng hoạt, lại thêm trường sinh, hoặc phản phác, hoặc thu khí, tụm
năm tụm ba mỗi chỗ một nhóm thật là phức tạp. Y cảm thấy tinh thần
phấn khởi, xem thêm một lúc, tự nhiên cảm thấy đầu óc quay cuồng, chỉ
mới suy nghĩ về quân trắng một góc bên phải thắng bại ra sao, đã thấy
khí huyết trong ngực nhộn nhạo.
Y cố gắng định thần, tính lại lần thứ hai mới thấy rằng lúc trước vẫn
tưởng bên trắng ở nơi đó đã hỏng, bây giờ mới hay cũng vẫn còn đường
sống, thế nhưng muốn giết nhóm quân đen ở bên cạnh thì thể nào cũng
dứt dây động rừng, bèn tính toán thêm nữa, đột nhiên mắt tối sầm, cổ
họng mằn mặn, ọc ra một ngụm máu tươi.
Tô Tinh Hà lãnh đạm nhìn y nói:
– Thế cờ này rất ư là khó, ngươi thiên tư có hạn, tuy kỳ lực chẳng dở
nhưng xem chừng giải không nổi đâu, huống chi có thêm tên ác tặc Đinh
Xuân Thu đứng bên cạnh thi triển tà thuật, làm điên đảo hồn vía, quả
thực hung hiểm, ngươi có còn muốn giải nữa hay thôi?
Phạm Bách Linh đáp:
– Sinh tử hữu mệnh, đệ… tại hạ… tại hạ… quyết ý tận tâm tận lực.
Tô Tinh Hà gật đầu nói:
– Vậy ngươi cứ thư thả mà suy nghĩ.
Phạm Bách Linh chăm chú vào cuộc cờ, thân hình lảo đảo, lại phun ra
thêm một ngụm máu nữa. Đinh Xuân Thu cười gằn nói:
– Chỉ bỏ mạng toi, sao việc gì phải khổ sở thế? Lão tặc đó bố trí cơ
quan, cốt là để hành hạ, giết người, Phạm Bách Linh, ngươi đúng là chui
đầu vào rọ.
Tô Tinh Hà đưa mắt hầm hầm nhìn y, hỏi:
– Ngươi gọi sư phụ là gì thế?
Đinh Xuân Thu đáp:
– Y là lão tặc nên ta gọi là lão tặc.
Tô Tinh Hà nói:
– Lung Á lão nhân hôm nay không còn câm điếc, chắc ngươi đã biết
lý do tại sao rồi?
Đinh Xuân Thu đáp:
– Hay lắm! Ngươi tự ý phá lời thề, ấy là tự mình đi tìm cái chết, đừng
trách ta nhé.
Tô Tinh Hà tiện tay nhắc một phiến đá ở bên cạnh, đặt xuống bên
cạnh Huyền Nạn nói:
– Mời đại sư ngồi.
Huyền Nạn thấy tảng đá đó không thể nào dưới hai trăm cân, một ông
lão gầy gò nhỏ thó như Tô Tinh Hà, cả người không đến tám chục cân,
vậy mà làm như trò trẻ, không phí một chút sức lực đã nhắc được cục đá
lên, công lực thực là ghê gớm. Ông nghĩ chính mình khi võ công chưa
mất, muốn nhắc một tảng đá như thế thật không khó khăn gì, nhưng làm
một cách nhẹ nhàng như thế cũng chưa chắc được, bèn chắp tay nói:
– Đa tạ!
Sau đó ngồi xuống. Tô Tinh Hà lại tiếp:
– Thế cờ Trân Lung này là do tiên sư tạo thành. Năm xưa tiên sư
phải mất ba năm tâm huyết mới sắp đặt xong, chỉ mong trên đời có người
hiểu lòng mình mà phá giải. Tại hạ trong ba mươi năm qua khổ công
nghiên cứu, vậy mà vẫn chưa giải được.
Ông ta nói đến đây, ông đưa mắt quét qua cả bọn Huyền Nạn, Đoàn
Dự, Phạm Bách Linh rồi tiếp:
– Huyền Nạn đại sư tinh thông thiền lý, hiểu được yếu chỉ Thiền tông
là ở chỗ đốn ngộ. Khổ công năm này tháng khác, chưa chắc đã bằng được
người đầy đủ căn cốt, huệ tâm vừa thấy đã thông hiểu ngay. Đánh cờ
cũng vậy thôi, đứa trẻ tám chín tuổi có tài trí đầy đủ, đánh cờ vẫn có thể
thắng được hạng nhất lưu cao thủ. Mặc dầu tại hạ nghiên cứu mãi không
ra, nhưng kẻ tài giỏi trong thiên hạ rất nhiều, không phải là không thể
giải được.
Tiên sư năm xưa để lại thế cờ này, nếu như có người hoàn thành được
tâm nguyện của lão nhân gia thì tiên sư tuy không còn tại nhân gian, dưới
cửu tuyền nếu biết được cũng thật là an ủi.
Huyền Nạn nghĩ thầm: “Sư phụ đồ đệ của vị Thông Biện tiên sinh này
cùng một nguồn gốc, những trò chơi cầm kỳ thi họa đều lôi kéo con người
đi vào ma chướng, đem hết cả cái thông minh tài trí một đời tiêu vào cái
việc đâu đâu khiến cho Đinh Xuân Thu ở trong môn phái hoành hành
không còn úy kỵ gì nữa, không ai chế ngự nổi y, cũng thật đáng buồn”.
Lại nghe Tô Tinh Hà tiếp tục:
– Gã sư đệ của ta…
Ông vừa nói vừa chỉ vào Đinh Xuân Thu:
-… năm xưa phản bội sư môn, khiến cho tiên sư ẩm hận tạ thế, lại
đánh ta không còn đường nào chống đỡ. Tại hạ vốn dĩ đã mong đem cái
chết để đền ơn thầy, nhưng nghĩ lại cái tâm nguyện của sư phụ chưa hoàn
tất, nếu chưa đi tìm người phá giải thì ở dưới suối vàng còn mặt mũi nào
mà nhìn sư phụ, nên đành cố chịu kiếp sống thừa cho đến ngày nay.
Trong bao nhiêu năm qua, tại hạ tuân thủ ước định với sư đệ, không
nói một lời, tự cho mình danh xưng Lung Á lão nhân, ngay cả môn hạ đệ
tử mới thu, cũng ép phải thành người câm điếc. Than ôi, ba mươi năm qua
chẳng thành tựu được chuyện gì, thế cờ này đến nay vẫn chưa ai phá giải
được. Vị Đoàn công tử đây tuy anh tuấn tiêu sái…
Bao Bất Đồng lại chen vào:
– Vị Đoàn công tử đây chắc gì đã anh tuấn, còn tiêu sái thì nhất định
chẳng có chút nào, huống chi bề ngoài anh tuấn tiêu sái với đánh cờ có gì
liên quan đâu, không thông ơi là không thông!
Tô Tinh Hà đáp:
– Có liên hệ lắm chứ! Thật nhiều là khác!
Bao Bất Đồng đáp:
– Vẻ người lão tiên sinh, ha ha, có thấy chút nào anh tuấn tiêu sái
đâu!
Tô Tinh Hà quay sang chăm chăm nhìn y một hồi, miệng hơi mỉm
cười. Bao Bất Đồng nói:
– Chắc tiền bối định nói Bao Bất Đồng so với lão tiên sinh hình dung
cổ quái xấu xí…
Tô Tinh Hà không nhìn nhõi gì đến y nữa, tiếp tục:
– Đoàn công tử đi mười bước đầu quả thực cực kỳ tinh diệu khiến cho
lão phu thật là kỳ vọng, có ngờ đâu lỡ mất một nước nên mấy nước sau
đành chịu thua.
Đoàn Dự vẻ mặt sượng sùng nói:
– Tại hạ tư chất ngu độn làm phụ lòng nhã ái của lão trượng, thật
đáng hổ thẹn…
Lời nói chưa dứt, bỗng nghe Phạm Bách Linh kêu to một tiếng, máu từ
miệng tuôn ra ồng ộc, ngã lật về sau. Tô Tinh Hà hơi nhắc tay trái lên,
soẹt soẹt soẹt, ba quân cờ ném ra đánh trúng ba huyệt đạo trên ngực y
lúc đó mới ngưng thổ huyết.
Mọi người còn đang kinh ngạc bỗng nghe cạch một tiếng, từ trên
không một vật gì trăng trắng bay xuống, trúng ngay bàn cờ. Tô Tinh Hà
nhìn lại, hóa ra một mẩu gỗ tùng còn tươi ai đó mới móc ra, khéo làm sao
trúng ngay khứ vị ở điểm thất cửu, chính là một nước phá giải thế cờ Trân
Lung. Ông ngửng đầu lên thấy trên cây tùng phía bên trái cách chừng
năm sáu trượng, thấp thoáng một tà trường bào màu vàng nhạt, hiển
nhiên có người ẩn nơi đó.
Tô Tinh Hà vừa kinh ngạc vừa vui mừng nói:
– Lại có thêm một vị cao nhân nào giá lâm, lão hủ thật vui mừng
khôn xiết.
Ông đang định đi một quân cờ đen, đột nhiên bên tai một tiếng gió
nhẹ vụt qua, một vật gì đen sì từ sau lưng bay đến, rơi ngay vào khứ vị ở
điểm bát bát, đúng ngay vào nơi Tô Tinh Hà vừa định hạ xuống.
Mọi người ồ lên một tiếng, quay đầu lại nhưng không thấy bóng dáng
ai. Những cây tùng ở phía bên phải không cây nào cao to, nếu trên cây có
người ngồi đó thì thấy ngay, không biết kẻ kia ẩn náu nơi nào. Tô Tinh
Hà nhìn vật đen sì kia chính là một miếng vỏ cây tùng nho nhỏ, điểm rơi
xuống thật chính xác, trong bụng cũng hơi kinh hãi. Quân đen kia vừa hạ
xuống, từ cây tùng bên trái lại đi một mẩu gỗ tùng thay quân trắng vào
khứ vị ngũ lục.
Vèo một tiếng, một vật đen đen bắn thẳng lên trời, rơi thẳng xuống,
không nghiêng không lệch đúng ngay khứ vị tứ ngũ. Quân cờ đen đó khi
lên thì quay vòng vòng như trôn ốc, phát xuất từ đâu thật khó mà nhìn ra
được, ngoằn ngoèo một hồi vậy mà rơi xuống chính xác như thế, công
phu ném ám khí đó đủ đã kinh người. Người đứng chung quanh ai nấy bội
phục, cùng suýt xoa reo hò.
Tiếng khen chưa dứt bỗng nghe một giọng vang vang từ trên cành cây
truyền xuống:
– Mộ Dung công tử đến phá giải thế Trân Lung, tiểu tăng thay người
đi giùm hai nước xin đừng trách tội mạo muội.
Cành lá hơi rung động, nghe tiếng gió thoảng qua, bên cạnh bàn cờ đã
xuất hiện thêm một nhà sư nữa. Hòa thượng đó mặc tăng bào màu xám
tro, thần thái sáng láng, bảo tướng trang nghiêm, trên mặt ẩn một nụ
cười.
Đoàn Dự giật mình kinh hãi nghĩ thầm: “Tên ma đầu Cưu Ma Trí lại
đến rồi”. Chàng lại bụng bảo dạ: “Không lẽ quân cờ trắng kia là do Mộ
Dung công tử đi hay sao? Vị Mộ Dung công tử này rồi đến hôm nay ta
cũng sẽ gặp”.
Chỉ thấy Cưu Ma Trí chắp hai tay, quay sang Tô Tinh Hà, Đinh Xuân
Thu và Huyền Nạn hành lễ nói:
– Tiểu tăng trên đường nhận được Kỳ Hội Thiếp của Thông Biện
tiên sinh, không tự lượng sức mình nên vội tới gặp mặt thiên hạ cao nhân.
Y lại tiếp:
– Mộ Dung công tử xin cũng hiện thân đi thôi.
Chỉ nghe một tiếng cười trong trẻo, từ sau một cây tùng hai người bước
ra. Đoàn Dự chỉ thấy mắt tối sầm, tai ù đi, miệng đắng ngắt, người nóng
bừng. Người đó uyển chuyển chậm rãi bước tới, chính là giai nhân mà
chàng đêm mong ngày nhớ, không lúc nào quên Vương Ngữ Yên.
Nàng mặt đầy vẻ say mê lưu luyến, ngẩn ngơ nhìn thanh niên công tử
đi bên cạnh. Đoàn Dự theo ánh mắt nàng nhìn theo, thấy người đó chừng
hăm bảy, hăm tám, mặc áo lụa mỏng màu vàng nhạt, trường kiếm đeo
ngang hông, diện mục tuấn tú, đi đứng nhẹ nhàng đầy vẻ tiêu sái nhàn
nhã.
Đoàn Dự vừa trông thấy y lập tức nửa người chết cứng, rưng rưng
dường như muốn rơi nước mắt, nghĩ thầm: “Người ta vẫn thường bảo Mộ
Dung công tử là rồng phượng trong loài người, quả nhiên không phải nói
ngoa. Vương Ngữ Yên đối với y ái mộ như thế cũng chẳng trách nàng
được”.
Chàng chỉ biết tự oán mình, than thân trách phận, chẳng muốn ngẩng
lên nhìn Vương Ngữ Yên nhưng rồi không cưỡng nổi cũng len lén liếc
nàng một cái. Chỉ thấy người đẹp mặt mày rạng rỡ, tưởng như toàn thân
chỗ nào cũng đầy hỉ khí, từ khi biết nhau đến nay, chưa từng thấy nàng
vui vẻ đến thế bao giờ.
Hai người đến gần hơn nhưng Vương Ngữ Yên gặp Đoàn Dự mà
dường như thị nhi bất kiến5 cũng chẳng gọi lấy một câu. Đoàn Dự tự nhủ:
“Trong lòng nàng trước nay có bao giờ để ý đến ta đâu, khi ở bên cạnh
mình cũng chĩ nghĩ tới biểu ca mà thôi”.
Đặng Bách Xuyên, Công Dã Can, Bao Bất Đồng, Phong Ba Ác tiến ra
nghinh tiếp. Công Dã Can hướng về Mộ Dung Phục hạ giọng bẩm báo lai
lịch Tô Tinh Hà, Đinh Xuân Thu, Huyền Nạn mọi người. Bao Bất Đồng
nói:
– Gã họ Đoàn kia là một tên đồ gàn, không biết võ công, mới rồi đã
đánh cờ thua một trận rồi.
Mộ Dung Phục liền cùng mọi người hành lễ tương kiến, ngôn ngữ
khiêm hòa ra vẻ muốn làm quen. Cô Tô Mộ Dung danh chấn thiên hạ, có
ai ngờ đâu lại là một thanh niên công tử hình dáng tuấn nhã, điệu bộ
thanh quí, nên người nào cũng nói vài lời ngưỡng mộ, ngay cả Đinh Xuân
Thu cũng khách sáo đôi câu.
Người sau cùng Mộ Dung Phục chào là Đoàn Dự:
– Đoàn huynh khỏe chứ?
Đoàn Dự thần tình ủ rũ, lắc đầu:
– Các hạ khỏe chứ ta… ta… chẳng khỏe chút nào.
Vương Ngữ Yên ồ một tiếng nói:
– Đoàn công tử hóa ra cũng ở nơi đây.
Đoàn Dự ấp úng:
– Chính… chính… tôi đây.
Mộ Dung Phục trừng mắt nhìn chàng mấy bận, không thèm nói đến
nữa, đi đến bên cạnh bàn cờ cầm một quân cờ trắng đặt xuống. Cưu Ma
Trí mỉm cười nói:
5
– Mộ Dung công tử võ công cao cường, nhưng môn cờ vây e rằng
cũng chỉ bình thường.
Nói xong cũng đặt một quân cờ đen. Mộ Dung Phục nói:
– Chưa chắc thua đại sư đâu.
Nói xong cũng hạ một quân cờ đen, Cưu Ma Trí cũng theo đó mà đi
thêm một nước. Mộ Dung Phục đã xem bàn cờ này rất lâu, tự tin rằng
mình đã tìm được giải pháp, ngờ đâu nước cờ của Cưu Ma Trí lại hoàn
toàn ngoài dự tính của y, bao nhiêu những tính toán trong đầu trôi theo
giòng nước, lại phải tính lại từ đầu, một lúc lâu sau mới đi thêm được một
nước.
Cưu Ma Trí suy nghĩ cực nhanh, đặt liền một quân nữa. Hai người một
chậm một nhanh, đi đến hơn hai chục quân, Cưu Ma Trí đột nhiên cười ha
hả nói:
– Mộ Dung công tử, chúng mình kẻ nọ bó chân bó cẳng người kia.
Mộ Dung Phục giận dữ đáp:
– Ngươi đặt cờ loạn xạ, bây giờ có giỏi thì phá giải đi.
Cưu Ma Trí cười đáp:
– Thế cờ này vốn dĩ trên đời không ai giải được, chẳng qua chỉ bày ra
để trêu ngươi. Tiểu tăng biết thân biết phận nên chẳng muốn hao tâm
huyết suy nghĩ những chuyện không đâu. Mộ Dung công tử, đến ta ở một
góc trời kia ngươi còn chưa đụng đến được, vậy mà dám mơ chuyện đuổi
hươu ở Trung Nguyên sao?
Mộ Dung Phục giật mình, trong một thoáng trăm ngàn mối vấn vương,
trăn qua trở lại chĩ nghĩ đến câu Cưu Ma Trí vừa nói: “Đến ta ở một góc
trời kia ngươi còn chưa đụng đến được, vậy mà dám mơ chuyện đuổi
hươu ở Trung Nguyên sao? “.
Trước mắt y chỉ thấy mờ dần, quân trắng quân đen trên bàn cờ nay
biến thành quan quân sĩ tốt, tây một thế trận, ta vây ngươi, ngươi vây ta,
hai bên lẫn lộn chém giết nhau. Mộ Dung Phục trừng trừng nhìn vào, bên
mình cờ trắng giáp trắng bị quân cờ đen, giáp đen vây chặt, tả xông hữu
đột vẫn không sao ra khỏi trùng vi, trong bụng càng lúc càng thêm bồn
chồn: “Họ Mộ Dung ta thiên mệnh đã hết rồi, bao nhiêu tâm cơ nay đành
uổng phí. Ta một đời tận tâm tận lực, nhưng rồi cũng chỉ là một giấc
mộng ảo mà thôi! Thời là thế, mệnh là thế, còn nói năng gì nữa?”. Y đột
nhiên hét lên một tiếng, rút phắt trường kiếm đưa lên cổ cứa ngang.
Trong khi Mộ Dung Phục thần sắc bất định, đứng ngơ ngẩn không nói
năng, Vương Ngữ Yên, Đặng Bách Xuyên, Công Dã Can cả bọn chăm
chăm nhìn y. Đến khi Mộ Dung Phục đột nhiên rút kiếm tự vẫn, không ai
có thể ngờ tới, cả bọn liền xông lên giải cứu nhưng công lực hoàn toàn
mất hết rồi, thành ra vẫn chậm một bước. Đoàn Dự vung tay điểm ra kêu
lên:
– Không được làm thế!
Chỉ nghe soẹt một tiếng, trường kiếm trong tay Mộ Dung Phục giật
bắn lên, nghe keng một tiếng đã rơi xuống đất. Cưu Ma Trí cười nói:
– Đoàn công tử, chiêu Lục Mạch Thần Kiếm quả hay thật.
Mộ Dung Phục trường kiếm rời khỏi tay còn đang kinh hãi, từ trong
mơ mơ màng màng tỉnh lại. Vương Ngữ Yên cầm tay y, liên tiếp vừa lắc
vừa kêu:
– Biểu ca, không giải được thế cờ thì có đáng gì đâu? Sao lại nỡ nào
tự tận?
Nàng nói rồi nước mắt chảy dàn dụa trên má. Mộ Dung Phục bàng
hoàng kêu lên:
– Ta sao thế?
Vương Ngữ Yên đáp:
– Cũng may Đoàn công tử đánh rơi thanh trường kiếm trong tay biểu
ca, nếu không… nếu không…
Công Dã Can khuyên nhủ:
– Công tử, bàn cờ này làm mê hoặc lòng người, xem ra bên trong có
cả huyễn thuật, công tử đừng hao phí tâm tư thêm nữa làm gì.
Mộ Dung Phục quay lại nhìn Đoàn Dự nói:
– Kiếm chiêu mới rồi của các hạ có phải thực là Lục Mạch Thần
Kiếm chăng? Tiếc thay tại hạ không được xem, các hạ có thể thử thêm
lần nữa để cho bỉ nhân được dịp mở mắt.
Đoàn Dự quay sang nhìn Cưu Ma Trí, e ngại y thấy mình sử dụng Lục
Mạch Thần Kiếm rồi sẽ lại bắt mình lần nữa. Lộ kiếm pháp đó khi thì
linh, khi thì không, nếu như tên ác hòa thượng này ra tay, thực khó mà
chống trả, trong bụng sợ hãi, tránh ra ba bước cho cách xa Cưu Ma Trí, có
bọn Chu Đan Thần ba người xen vào giữa, lúc đó mới đáp:
– Ta… ta trong cơn gấp gáp, chó ngáp phải ruồi, muốn sử thêm một
chiêu nữa quả thật khó khăn. Có thực ngươi không nhìn thấy hay chăng?
Mộ Dung Phục vẻ mặt ngượng ngập nói:
– Tại hạ nhất thời tâm thần mê loạn chẳng khác gì ma nhập.
Bao Bất Đồng lớn tiếng kêu lên:
– Đúng đó, hẳn là Tinh Tú Lão Quái đứng bên cạnh thi triển tà pháp,
công tử phải hết sức cẩn thận.
Mộ Dung Phục lườm Đinh Xuân Thu, nói với Đoàn Dự:
– Tại hạ chẳng may trúng phải tà thuật, may được các hạ cứu viện,
trong lòng thật là cảm kích. Đoàn huynh biết được tuyệt kỹ Lục Mạch
Thần Kiếm, có phải là người trong Đoàn gia Đại Lý hay không?
Đột nhiên từ đằng xa một giọng nói văng vẳng truyền đến:
– Có một tên họ Đoàn Đại Lý ở đó hay sao? Có phải Đoàn Chính
Thuần không?
Chính là thanh âm của Ác Quán Mãn Doanh Đoàn Diên Khánh. Bọn
Chu Đan Thần lập tức biến sắc. Lại nghe một giọng oang oang sắc cạnh
như kim loại chạm nhau:
– Lão đại của anh em ta mới đích thực là họ Đoàn Đại Lý, còn ngoài
ra đều là đồ giả.
Đoàn Dự cười thầm nghĩ bụng: “Tên học trò của ta cũng đến nữa
đây”. Tiếng kêu của Nam Hải Ngạc Thần chưa dứt, từ dưới núi chạy lên
một người, thân pháp cực kỳ nhanh nhẹn, chính là Vân Trung Hạc, miệng
kêu:
– Thiên hạ Tứ Đại Ác Nhân đúng theo ước hẹn cuộc cờ đến bái
phỏng Thông Biện tiên sinh.
Tô Tinh Hà đáp:
– Hết sức hoan nghênh.
Bốn chữ đó vừa ra khỏi miệng, Vân Trung Hạc đã phiêu phiêu đi đến
trước mặt mọi người. Một lát sau, Đoàn Diên Khánh, Diệp Nhị Nương,
Nam Hải Ngạc Thần ba người cũng sánh vai tới nơi. Nam Hải Ngạc Thần
lớn tiếng nói:
– Lão đại chúng ta xem thiếp mời, cực kỳ hoan hỉ, mọi chuyện khác
gác sang một bên đến đây đánh cờ. Lão đại ta võ công thiên hạ vô địch,
so với Nhạc lão nhị này còn ghê gớm hơn. Kẻ nào không phục cứ lên
đánh thử với y ba ván. Các ngươi muốn một chọi một cũng tốt, mà tất cả
xông lên cũng được. Sao không thấy binh khí đâu cả là sao?
Diệp Nhị Nương vội chặn lại:
– Lão tam chớ có nói năng lếu láo. Đánh cờ nào phải là đánh nhau,
có cần gì binh khí?
Nam Hải Ngạc Thần đáp:
– Có mụ nói lếu láo thì có. Không đánh nhau thì lão đại lật đật đến
đây làm gì?
Đoàn Diên Khánh mắt đăm đăm nhìn bàn cờ, ngưng thần suy nghĩ,
qua một hồi thật lâu, thiết trượng bên trái điểm vào trong hộp quân, đầu
trượng dường như có sức hút, dính chặt một quân cờ trắng, đặt lên trên
bàn cờ. Huyền Nạn khen ngợi:
– Họ Đoàn Đại Lý võ công độc bộ trời nam, quả là không phải chỉ có
hư danh.
Đoàn Dự từng chứng kiến Đoàn Diên Khánh đánh cờ với Hoàng Mi
tăng, biết ông ta không những nội lực thâm hậu mà kỳ lực cũng thật cao,
có thể phá giải thế cờ Trân Lung không chừng. Chu Đan Thần ghé tai
chàng nói nhỏ:
– Công tử, mình đi thôi! Đừng để lỡ cơ hội.
Thế nhưng Đoàn Dự một mặt muốn xem Đoàn Diên Khánh làm thế
nào phá giải ván cờ này, lại thêm dễ dầu gì gặp được Vương Ngữ Yên,
nên dù trời sập chăng nữa cũng chưa chắc khiến cho chàng bỏ nàng mà đi
khỏi, thành thử chỉ ậm ừ mấy tiếng nhưng chân lại nhích dần về chỗ bàn
cờ.
Bàn cờ này thiên biến vạn hóa, bao nhiêu nước Tô Tinh Hà đều đã
thuộc nằm lòng, lập tức đặt ngay một quân đen xuống. Đoàn Diên Khánh
suy nghĩ thêm một lát, lại đặt một quân. Tô Tinh Hà nói:
– Các hạ đi nước này quả là cao minh, để xem có thể phá được cửa
quan tìm ra một lối thoát không nào.
Ông ta đặt một quân đen, chặn ngay đường lại, Đoàn Diên Khánh lại
đi một quân nữa. Hư Trúc bỗng nói:
– Nước cờ đó xem ra không ổn.
Y mới rồi thấy Mộ Dung Phục đã đi quân đó, đi tiếp thêm mấy nước
đột nhiên rút kiếm tự vẫn, sợ rằng Đoàn Diên Khánh cũng rơi vào vết xe
đổ, trong lòng bất nhẫn nên lên tiếng nhắc. Nam Hải Ngạc Thần cực kỳ
giận dữ, quát lớn:
– Cái thứ chú tiểu như ngươi mà dám nói lão đại ta ổn hay không ổn
hay sao?
Y vừa nói vừa chộp vào lưng Hư Trúc, nhắc lên. Đoàn Dự nói:
– Hảo đồ nhi, không được đả thương tiểu sư phụ.
Nam Hải Ngạc Thần khi vừa đến đã trông thấy Đoàn Dự, trong bụng
ngượng ngập, tốt nhất là chàng chẳng nói năng gì, ngờ đâu lại ra lệnh cho
y, bèn hầm hầm nói:
– Không đả thương thì thôi, đã làm sao nào.
Y bèn để Hư Trúc xuống. Mọi người thấy một gã ngang ngược hung
ác như Nam Hải Ngạc Thần lại nghe lời Đoàn Dự, gọi y là “đồ nhi” mà
không thấy cãi lại đều cảm thấy lạ lùng. Chỉ có bọn Chu Đan Thần hiểu
được nguyên do, trong bụng cười thầm.
Hư Trúc ngồi xuống trong lòng suy nghĩ: “Sư phụ ta vẫn thường dạy
rằng Phật tổ truyền xuống bao gồm giới, định, huệ ba tu chứng pháp môn.
Kinh Lăng Nghiêm có viết: “Nhiếp tâm vi giới, nhân giới sinh định, nhân
định sinh huệ 6”. Con người chúng ta căn cốt ngu độn, khó lòng nhiếp tâm
để giữ mình, thành thử Đạt Ma tổ sư mới truyền cho phương tiện pháp
môn, dạy chúng ta học võ để nhiếp tâm, mà đánh cờ cũng có thể nhiếp
tâm. Học võ tính chuyện hơn thua, đánh cờ cũng là chuyện thua được
cũng đều ngược lại với thiền lý thành ra dù học võ hay đánh cờ cũng phải
cố giữ cái tâm vô thắng bại. Khi tụng kinh, ăn cơm, đi đường thì vô thắng
bại tâm rất là dễ, còn như tỉ võ, đánh cờ mà đạt được vô thắng bại tâm thì
thật khó thay. Nếu như khi tỉ võ, đánh cờ mà không còn cái tâm thắng bại
thì đã là gần được đạo rồi. Kinh Pháp cú có viết: Thắng ắt bị người ta oán
hận, thua sẽ tự cho mình là thấp hèn. Bỏ được cái tâm thắng bại, không
tranh giành thì lòng mới yên.7 Ta võ công kém cỏi, kỳ thuật tầm thường,
cùng sư huynh đệ tỉ võ, đánh cờ bao giờ cũng thua nhiều thắng ít, vậy mà
sư phụ ngược lại khen ta giữ được không giận không oán, coi chuyện
thắng bại nhẹ như bông. Vậy mà sao hôm nay khi ta thấy vị Đoàn thí chủ
này đi sai nước cờ, lại lo cho y lạc bại nên ra lời chỉ điểm? Huống chi cứ
kỳ thuật như ta thì còn chỉ điểm cho ai được nữa? Y đi nước cờ tuy tương
đồng với Mộ Dung công tử nhưng về sau ắt sẽ khác đi, chính ta không
giải được, sao lại dám mở lời “xem ra không ổn”, chẳng hóa ra mang cái
tâm tự cao tự mãn hay sao?”.
Đoàn Diên Khánh cứ đi một nước lại suy nghĩ một hồi, từng quân từng
quân càng lúc càng lâu, đặt đến hơn hai chục quân thì mặt trời đã ngả về
tây. Huyền Nạn đột nhiên nói:
– Đoàn thí chủ, mười nước đầu thí chủ đi theo đường chính nhưng từ
thứ mười một trở đi lại vào bàng môn, càng lúc càng sâu, để đến lúc
không còn cứu được nữa rồi.
6 7
Các bắp thịt trên mặt Đoàn Diên Khánh đã cứng không tỏ ra có ý gì
nhưng từ cổ họng phát ra thanh âm nói:
– Phái Thiếu Lâm là danh môn chính tông, theo như chính đạo của
các ông thì giải pháp thế nào?
Huyền Nạn thở dài một tiếng nói:
– Bàn cờ này tưởng như chính mà không phải chính, giống như tà mà
không phải tà, dùng chính đạo mà giải cũng không xong nhưng đi vào con
đường vạy thì cũng không được.
Cây gậy trúc nơi tay trái của Đoàn Diên Khánh ngừng lại giữa lưng
chừng, hơi run run, thủy chung không điểm xuống, qua một hồi lâu mới
nói:
– Đằng trước đã nghẽn lối rồi, đằng sau lại có truy binh, chính cũng
không mà tà cũng không, thật là khó lòng.
Võ công gia truyền của y vốn là chính tông Đoàn gia Đại Lý, nhưng
về sau đi vào đường tà, mấy câu nói của Huyền Nạn khiến y phải chạnh
lòng, cũng chẳng khác gì Mộ Dung công tử dần dần đi vào ma đạo.
Bàn cờ Trân Lung đó biến chuyển hàng trăm lối, tùy theo người mà
thành, kẻ tham tài thì vì tiền bạc mà thất cơ, kẻ nóng tính thì vì sân hận
mà hỏng việc. Đoàn Dự thất bại vì ái tâm quá nặng, không dám bỏ quân;
Mộ Dung Phục thua, chỉ vì chấp trước quyền uy, tuy dám thí quân nhưng
không chịu thất thế. Còn Đoàn Diên Khánh thì mối hận to lớn nhất trên
đời là sau khi tàn phế, đã bỏ võ công chính tông của bản môn, chuyển
sang tập luyện bàng môn tà thuật, đến lúc toàn tâm toàn ý tập trung vào
đó thì ngoại ma xâm nhập, để đến tâm thần hoang mang không còn tự
chế được nữa.
Đinh Xuân Thu cười khì khì tiếp lời:
– Đúng đó! Con người từ chính chuyển sang tà thì dễ, cải tà qui
chánh mới thật gay go, một đời của ngươi thôi đành xôi hỏng bỏng không,
bỏ đi, bỏ đi thật rồi! Ôi, thật là đáng tiếc, một bước sa chân khiến cho
nghìn đời ôm hận, kịp lúc quay đầu mới hay muôn sự lỡ làng.
Lời của y đầy vẻ xót thương. Thế nhưng những đại cao thủ ai ai cũng
biết Tinh Tú Lão Quái nào có ý tốt, chỉ nhân cháy nhà hôi của, định dẫn
Đoàn Diên Khánh vào chỗ tẩu hỏa nhập ma để trừ khử một kẻ đối đầu
lợi hại.
Quả nhiên Đoàn Diên Khánh lặng người thảm thiết nói:
– Ta vốn ở ngôi vị tôn quí hoàng tử nước Đại Lý, hôm nay lưu lạc
giang hồ để tang thương thế này, quả đáng hổ thẹn cùng liệt tổ liệt tông.
Đinh Xuân Thu nói:
– Ngươi chết xuống dưới suối vàng, còn mặt mũi nào mà gặp lại tiên
nhân họ Đoàn, nếu biết xấu hổ, sao không tự tận, cũng còn coi là một
hành vi anh hùng hảo hán, thôi thôi, chi bằng tự tận cho xong, chi bằng tự
tận cho xong!
Giọng nói nhu hòa dễ nghe, những người công lực hơi yếu, nghe mơ
mơ màng màng tưởng như muốn gục xuống. Đoàn Diên Khánh lẩm bẩm
nói một mình:
– Thôi! Chi bằng tự tận cho xong!
Y nhắc thiết trượng lên, chầm chậm nhắm ngay ngực mình điểm vào.
Thế nhưng vốn dĩ y tu tập rất cao siêu, mang máng cảm thấy dường như
có gì không phải, từ nơi đáy lòng có tiếng gọi giật lại:
– Không nên! Không nên! Điểm xuống là hỏng đó.
Thế nhưng đầu trượng vẫn từng tấc từng tấc tiến vào ngực. Y năm xưa
mất nước lưu vong, thân bị trọng thương rồi đã từng có ý định tự tận, chỉ
vì một cơ duyên đặc biệt mà phấn chấn trở lại, đến giờ sức tự chế giảm
đi, cái ý niệm muốn tìm cái chết ẩn dấu trong tim lại hiện đến.
Trong các đại cao thủ đứng chung quanh, Huyền Nạn bụng dạ từ bi, có
ý muốn lên tiếng cảnh tỉnh nhưng muốn dùng “đương đầu bổng hát” 8 cần
phải có nội công tương đương với Đoàn Diên Khánh mới có thể làm cho y
ù tai, còn không thì chẳng đi đến đâu, ngược lại còn mang họa nên tuy
8
nôn nóng cũng đành bó tay. Còn Tô Tinh Hà thì phải tuân theo qui củ của
sư phụ đặt ra năm xưa, không thể cứu viện. Mộ Dung Phục biết Đoàn
Diên Khánh không phải là người tốt, nếu y bị tẩu hỏa nhập ma mà chết,
trong thiên hạ bớt đi một mối hại thì còn gì hơn. Cưu Ma Trí hạnh tai lạc
họa, cười hề hề tụ thủ bàng quan. Đoàn Dự và Du Thản Chi tuy công lực
thâm hậu nhưng không biết Đoàn Diên Khánh đang làm trò gì. Vương
Ngữ Yên tuy hiểu biết về võ học các môn phái rộng rãi thật nhưng thuật
dẫn dụ của Đinh Xuân Thu là tà thuật bàng môn, không phải võ học
thành thử nàng cũng chẳng biết gì cả. Còn Diệp Nhị Nương trước nay vốn
bị Đoàn Diên Khánh đè đầu cưỡi cổ, bình thời hống hách, cực kỳ ngang
ngược nên trong bụng vẫn oán giận ngầm nay thấy y sắp tự tận cũng
chẳng muốn cứu làm gì. Còn bọn Đặng Bách Xuyên, Khang Quảng Lăng
không những công lực mất hết, lại cũng chẳng muốn dính vào việc tranh
chấp giữa Tinh Tú Lão Quái và Đệ Nhất Ác Nhân.
Trong đám đó chỉ có mình Nam Hải Ngạc Thần là bồn chồn hơn cả,
thấy đầu trượng chỉ còn cách ngực Đoàn Diên Khánh chừng vài tấc, nếu
nhích thêm chút nữa sẽ điểm ngay vào tử huyệt, thuận tay chộp luôn Hư
Trúc, kêu lên:
– Lão đại, bắt lấy nhà sư này.
Vừa nói y vừa ném luôn vào người Đoàn Diên Khánh. Đinh Xuân Thu
đánh ra một chưởng quát:
– Cút ngay! Đừng có phá đám.
Cái ném đó của Nam Hải Ngạc Thần cực kỳ hồn hậu, Hư Trúc theo
kình phong bay tới bị Đinh Xuân Thu đánh nhẹ một cái lập tức bay ngược
trở ra lao thẳng vào Nam Hải Ngạc Thần.
Nam Hải Ngạc Thần hai tay đỡ lấy, đang toan vứt trở vào Đoàn Diên
Khánh lần nữa, ngờ đâu trong chưởng lực của Đinh Xuân Thu, còn có dấu
ba luồng hậu kình, Nam Hải Ngạc Thần mắt trợn tròn, lịch bịch lùi lại ba
bước, vừa toan gượng lại, luồng kình lực thứ hai đã đến nơi, hai đầu gối
khuỵu xuống, ngồi phịch ngay trên mặt đất, tưởng đã yên, ngờ đâu bấy
giờ luồng kình lực thứ ba mới ập đến. Y không tự chủ được lộn mèo một
vòng, hai tay vẫn còn nắm chặt Hư Trúc, lại đè nhà sư xuống lộn thêm
một vòng nữa. Y sợ chưởng lực của Đinh Xuân Thu còn một luồng kình
đạo thứ tư, vội xô Hư Trúc tới trước để đỡ đòn, nhưng may không còn,
Nam Hải Ngạc Thần liền trợn mắt chửi:
– Con bà ngươi gì mà mạnh thế.
Y liền cầm Hư Trúc vứt xuống đất. Đinh Xuân Thu phát ra chưởng đó
rồi tâm lực hơi nhãng ra, thành thử trượng của Đoàn Diên Khánh ngừng
lại lưng chừng, không di động nữa. Đinh Xuân Thu nói:
– Không kịp nữa rồi! Không kịp nữa rồi! Này Đoàn Diên Khánh, ta
khuyên ngươi nên tự tận cho xong, tự tận cho xong!
Đoàn Diên Khánh thở dài:
– Phải rồi! Sống ở trên đời, có còn ý nghĩa gì đâu? Chi bằng chết cho
xong.
Trong khi y nói thì đầu trượng đã tiến sâu thêm hai tấc nữa. Lòng từ bi
của Hư Trúc nổi lên mãnh liệt, biết rằng muốn giải trừ ma chướng cho
Đoàn Diên Khánh thì phải xen vào bàn cờ, có điều kỳ nghệ của y thấp
kém, muốn giải nạn đề vô cùng phức tạp khó khăn kia, thật không dám
nghĩ đến, thấy trước mắt Đoàn Diên Khánh đang chết sững nhìn bàn cờ,
nguy cơ trong khoảnh khắc, đột nhiên linh cơ nhất động: “Ta không giải
được thế cờ này thật, nhưng quấy phá loạn lên thì thật dễ dàng, chỉ miễn
sao tâm thần y nhãng ra là có cơ cứu được. Đã không có bàn cờ thì đâu
còn gì thắng hay bại?”. Hư Trúc liền nói:
– Để cho tiểu tăng giải bàn cờ này.
Y nhanh nhẹn tiến tới gần bên, lấy trong hộp ra một quân cờ trắng,
nhắm mắt lại để bừa xuống bàn cờ.
Y chưa kịp mở mắt ra đã nghe tiếng Tô Tinh Hà quát lớn:
– Chỉ giỏi quấy hôi bôi nhọ! Đi quân bậy bạ, ai đời tự mình giết quân
mình, làm gì có phép đánh cờ nào như thế?