Thành bại hơn thua cũng bởi trời,
Cuộc đời nghĩ lại tưởng như chơi.
Trăm sự chẳng qua do mạng số,
Phúc phận cho mình được đấy thôi.
*
* *
Hư Trúc mở mắt ra nhìn, không khỏi đỏ mặt. Thì ra khi y nhắm mắt để
đại xuống một quân, sao lại trúng ngay một đám quân trắng đang bị quân
đen bao vây không còn hở chỗ nào lọt ra được. Đám quân trắng đó vốn dĩ
còn một nước nữa, quân đen lúc nào đặt xuống cũng ăn sạch, nhưng nếu
như đối phương không rảnh rỗi để hạ kỳ thì cũng còn có đường sống, mà
bên trắng cố gắng vùng vẫy cũng chỉ ở một nước đó mà thôi. Thế nhưng
lúc này y lại đem quân mình ăn quân mình, trong phép chơi cờ chưa từng
có ai đi lối tự sát như thế. Quân trắng chết rồi, phe mình coi như tan rã.
Cưu Ma Trí, Mộ Dung Phục, Đoàn Dự trông thấy thế không khỏi cười
ha hả. Huyền Nạn lắc đầu ái ngại, Phạm Bách Linh tuy đang sống dở
chết dở cũng phải thốt lên:
– Đi nước đó thực đúng là làm trò cười.
Tô Tinh Hà nói:
– Tiên sư có di mệnh, bàn cờ này dù lài ai chăng nữa cũng có thể
nhập cuộc. Tiểu sư phụ đi nước đó quả khác thường không ai nghĩ ra
được, nhưng cũng là đi một nước.
Ông giơ tay lấy những quân cờ bị Hư Trúc tự giết chết bỏ ra ngoài, kế
đó đi một quân đen. Đoàn Diên Khánh kêu lên một tiếng, từ trong huyễn
mộng bừng tỉnh lại, đưa mắt nhìn Đinh Xuân Thu nghĩ thầm: “Tinh Tú
Lão Quái, ngươi thừa gió bẻ măng, ám thi độc thủ, chuyện này ta nhất
định không bỏ qua đâu”.
Đinh Xuân Thu liếc Hư Trúc, ánh mắt đầy oán độc, chửi:
– Giặc trọc con.
Đoàn Diên Khánh thấy nước cờ đã biến hóa, biết mình vừa chết đi
sống lại, cũng là nhờ có Hư Trúc cứu viện, trong lòng dâng lên một niềm
cảm kích, sợ rằng Đinh Xuân Thu sẽ ra tay giết Hư Trúc trả thù nên nghĩ
thầm: “Có cao tăng chùa Thiếu Lâm là Huyền Nạn ở đây, chắc Tinh Tú
Lão Quái không dám gây chuyện với đồ tử đồ tôn của ông ta, thế nhưng
nếu như lão hủ Huyền Nạn tầm thường không bảo vệ được chu đáo, ta sẽ
không để cho tiểu hòa thượng này phải chết vì ta”.
Tô Tinh Hà nói với Hư Trúc:
– Tiểu sư phụ, ngươi giết một số quân của mình, quân đen càng thúc
ép thêm nữa, ngươi ứng phó ra sao?
Hư Trúc cười gượng đáp:
– Tiểu tăng kỳ nghệ kém cỏi, đi đại một quân chẳng qua chỉ vì muốn
cứu người. Bàn cờ này tiểu tăng không biết đánh, xin lão tiền bối tha thứ
cho.
Tô Tinh Hà sầm mặt xuống, gằn giọng:
– Tiên sư sắp đặt ván cờ này cung thỉnh cao nhân thiên hạ đến phá
giải. Nếu như phá giải không được thì cũng không sao, còn gặp tai ương
xảy tới, cũng là do mình thu lấy. Thế nhưng nếu người nào đến chỉ để
phá rối bàn cờ, khinh mạn tâm huyết một đời của tiên sư, thì dẫu có
người đông thế mạnh, ha ha, lão phu mặc dầu vừa câm vừa điếc, cũng
vẫn nhất định sẽ đi tới cùng.
Y tên gọi Lung Á lão nhân, thực ra nào có điếc có câm gì đâu, hiện
giờ vểnh tai nghe, mở mồm nói, vậy mà vẫn tự cho mình “vừa câm vừa
điếc”, có điều trong khi nói, mày râu dựng ngược, thần tình cực kỳ hung
mãnh nên không ai dám mở miệng cười.
Hư Trúc chắp tay hành lễ thật sâu nói:
– Lão tiền bối…
Tô Tinh Hà quát lớn:
– Đánh cờ là đánh cờ, nói nhiều có ích gì đâu? Sư phụ ta có phải để
cho ngươi đến phá quấy tiêu khiển chăng?
Ông ta vừa nói vừa vung tay lên đánh ra một chưởng, nghe bình một
tiếng, bụi bay mù mịt, trước mặt Hư Trúc lập tức hiện ra một cái hố lớn.
Chưởng đó mãnh liệt không gì sánh kịp, nếu chỉ nhích lên chừng một
thước thì Hư Trúc đã gân cốt nát nhừ, chết tươi ngay.
Hư Trúc sợ đến tim đập thình thình, đưa mắt nhìn Huyền Nạn, mong sư
bá tổ đứng ra cứu y khỏi cảnh ngộ khó khăn này. Huyền Nạn nước cờ đã
không cao, võ công lại mất hết, làm gì còn cách gì bây giờ? Trong tình
cảnh đó ông chỉ còn một cách là muối mặt xin Tô Tinh Hà nhẹ tay, bỗng
thấy Hư Trúc thò tay vào hộp, lấy ra một quân cờ trắng, đặt lên bàn cờ.
Nơi y để quân, chính là nơi những quân trắng mới mất đi còn bỏ trống.
Nước cờ đó quả là rất cao. Trong ba mươi năm qua, Tô Tinh Hà đã suy
nghĩ tất cả những thiên biến vạn hóa của thế cờ này, sách giải thuộc nằm
lòng, dẫu đối phương đi nước nào cũng không qua khỏi những gì ông ta
đã nghĩ tới. Thế nhưng Hư Trúc thoạt đầu nhắm mắt đặt bừa một quân, tự
mình giết chết một đám quân mình vi phạm phép đánh cờ rất nặng, dù
người chỉ hơi biết đánh cờ cũng không ai lại làm thế.
Cái cách đó chẳng khác gì tự mình giơ kiếm vung đao lên cứa cổ
mình. Ngờ đâu sau khi y nhắm mắt đặt một quân giết của mình một khối
lớn rồi, cục diện lại thấy thông tỏ hơn, bên quân đen tuy có lợi lớn nhưng
quân trắng lúc này cũng còn có cơ chống đỡ, không phải như trước bó
chân bó tay, được chỗ nọ mất chỗ kia. Cục diện mới này Tô Tinh Hà dù
có nằm mơ cũng không sao nghĩ tới được. Ông ta ngạc nhiên, suy nghĩ
một lúc lâu, lúc đó mới đi một quân đen.
Thì ra khi Hư Trúc trông thấy Tô Tinh Hà đánh ra một chưởng uy hiếp,
sư bá tổ cũng không lên tiếng giải vây cho mình, còn đang bàng hoàng lo
lắng, bỗng nghe một tiếng nói nho nhỏ truyền vào trong tai:
– Để vào bình vị ở nước tam cửu.
Hư Trúc chẳng cần biết ai là người chỉ điểm mình, cũng không cần
biết đúng hay sai, cầm ngay quân trắng, theo đúng lời dặn hạ vào bình vị
tam cửu. Đến khi Tô Tinh Hà đi một quân đen nữa rồi, giọng nói đó lại
truyền vào tai Hư Trúc:
– Bình vị nhị bát.
Hư Trúc lại đặt một quân trắng xuống nước bình vị nhị bát. Quân cờ đi
rồi, chỉ nghe Cưu Ma Trí, Mộ Dung Phục, Đoàn Dự cả bọn đều ồ lên một
tiếng. Hư Trúc ngẩng đầu lên, thấy mọi người ai nấy tỏ vẻ ngạc nhiên,
đồng thời khâm phục đủ biết nước đi của mình thật tinh diệu, lại thấy vẻ
mặt Tô Tinh Hà vừa mừng rỡ sung sướng nhưng cũng nóng nảy bồn chồn,
đôi lông mày dài không ngớt nhô lên hụp xuống.
Hư Trúc trong bụng khởi nghi: “Sao ông ta đột nhiên lại cao hứng thế?
Không lẽ nước cờ mình đi sai rồi chăng?”. Thế nhưng lại lập tức nghĩ
ngay: “Không cần biết đi đúng hay sai, chỉ cần mình đi được mười nước
trở lên, đủ để biết rằng mình cũng có đường đi nước bước, không phải
đến quấy rối làm loạn nước cờ, hối nhục tiên sư của ông ta, lúc đó sẽ
không trách mình được nữa”. Đến khi Tô Tinh Hà đi một quân đen nữa, y
lại theo đúng người nào đó ám trung tương trợ chỉ điểm, hạ một quân
trắng. Hư Trúc một mặt hạ kỳ, một mặt chú tâm quan sát, có phải sư bá
tổ bí mật giúp đỡ mình hay không, nhưng thấy Huyền Nạn thần tình ra
chiều nóng ruột, xem ra không phải, huống chi trước sau ông ta không mở
miệng nói câu nào.
Người đưa tiếng nói truyền vào tai y nội lực phải cực kỳ thâm hậu,
hiển nhiên là “truyền âm nhập mật” dùng thượng thừa nội công truyền lời
nói thẳng vào tai y, người khác dù có đứng ngay bên cạnh cũng không
nghe thấy gì cả.
Thế nhưng dù tiếng nói có nhỏ tới mực nào thì miệng vẫn phải mấp
máy, Hư Trúc lén quan sát môi mọi người, không thấy người nào động
đậy, vậy mà câu: “Để xuống vị trí ngũ lục” vẫn vào tai y thật rõ ràng. Hư
Trúc đúng theo đó mà đi, nghĩ thầm: “Dạy ta ngoài sư bá tổ ra thì còn ai
nữa. Những người khác với mình vô thân vô cố, việc gì phải giúp mình?
Trong những cao thủ ở đây, chỉ có mình sư bá tổ chưa đánh cờ, còn ai
cũng đã thử qua và cũng đã thua rồi. Sư bá tổ thần công phi phàm, thành
ra không mấp máy môi vẫn có thể “truyền âm nhập mật”, ta không biết
đến bao giờ mới tu luyện được đến mức đó”.
Y có biết đâu người chỉ cho y lại chính là thiên hạ đệ nhất ác nhân có
cái ngoại hiệu Ác Quán Mãn Doanh Đoàn Diên Khánh. Vừa rồi Đoàn
Diên Khánh chìm sâu mê mẩn vào cuộc cờ, bị Đinh Xuân Thu thừa cơ
dậu đổ bìm leo, định đẩy y vào chỗ tẩu hỏa nhập ma, tự sát thân vong,
cũng may Hư Trúc làm loạn nước cờ mới cứu mạng cho y được. Y thấy
Tô Tinh Hà nặng lời trách mắng Hư Trúc, có ý muốn giết chú tiểu này
nên buông lời chỉ điểm, cố ý giải vây, để cho nhà sư có dịp thoái lui. Y
giỏi về thuật phúc ngữ, khi nói không cần phải mấp máy môi, lại thêm
nội công thâm hậu nên biết cách “truyền âm nhập mật”, tuy bên cạnh có
mấy cao thủ hạng nhất nhưng vẫn không ai khám phá ra.
Thế nhưng sau mấy nước, cuộc diện lại biến hóa mãnh liệt, Đoàn
Diên Khánh nắm ngay được cái bí áo của bàn cờ Trân Lung này. Đó là
bên trắng phải tự giết một số quân của mình trước, sau đó những chỗ kỳ
diệu mới liên tục sinh ra. Trong phép đánh cờ có những nước phản phác,
đảo thoát ngoa, tự mình cố ý đi vào chỗ chết để nhử cho đối phương ăn
quân, sau đó sẽ lật ngược thế cờ nhưng có chết nhiều lắm cũng chỉ tám
chín quân, chứ đời nào lại nhường đến mấy chục quân bao giờ. Phép “tự
mình giết mình” quả là trong môn cờ vây nghìn năm chưa ai thấy, dù cho
loại cao thủ đến mức thần thánh cũng không ai dám nghĩ đến một nước
cờ như vậy. Ai ai cũng chỉ nghĩ đến làm sao thoát khỏi khốn cảnh để tìm
đường sống, chứ có ai lại nghĩ đến nước đi vào cửa tử để tìm đường ra,
nếu không phải Hư Trúc nhắm mắt, thuận tay đặt bừa một nước cực kỳ
ngốc nghếch đó, e rằng một nghìn năm sau, ván cờ Trân Lung này cũng
không ai giải được.
Kỳ thuật của Đoàn Diên Khánh vốn đã cực cao minh, hôm xưa đánh
cờ với Hoàng Mi tăng nước Đại Lý đã làm cho nhà sư này không còn
đường chống đỡ, lúc này bên trắng đã mất đi một mảng lớn, thế đánh
bỗng rộng rãi ra nhiều, chẳng nghĩ tới đám quân mình vừa mất, cũng
không nghĩ tới cục diện bó chân bó cẳng mới rồi, tự nhiên thoải mái mà
đi quân không phải vào cảnh tiến thoái lưỡng nan như trước.
Cưu Ma Trí, Mộ Dung Phục đâu có biết Đoàn Diên Khánh đứng ngoài
chỉ điểm, chỉ thấy Hư Trúc nước nào ra nước nấy, ăn luôn hai khối cờ
đen, nhịn không nổi phải tấm tắc khen ngợi.
Huyền Nạn lẩm bẩm nói một mình:
– Cuộc cờ này vốn quấn quít trong trường thắng bại đắc thất, cho nên
không thể nào phá giải được. Nước cờ của Hư Trúc không còn màng sinh
tử, cũng không chấp trước được thua, hóa ra vượt ra khỏi vòng sống chết,
đạt tới giải thoát…
Ông mang máng thấy có chỗ sở ngộ, nhưng lại chưa nắm được, biết
mình cả đời chuyên lo võ học, khiếm khuyết công phu thiền môn, bỗng
nghĩ ra: “Lung Á tiên sinh và Hàm Cốc bát hữu chuyên về tạp học, cho
nên võ công không bằng được Đinh Xuân Thu, ta trước đây cười chê họ
đi vào ngã rẽ. Thế nhưng ta cả đời luyện tập võ công, không chăm lo
tham thiền để vượt vòng sinh tử, có phải cũng đi vào sai lầm hay
không?”. Ông nghĩ đến đó, tự nhiên toàn thân mồ hôi toát dầm dề.
Đoàn Dự lúc đầu còn chăm chú xem bàn cờ nhưng về sau, đôi mắt
chàng chỉ dán chặt vào người Vương Ngữ Yên, càng nhìn càng thêm đau
lòng, thấy nhãn quang nàng từ đầu đến cuối không lúc nào rời khỏi Mộ
Dung Phục đành bụng bảo dạ: “Thôi mình đi cho xong! Ở đây càng lâu
càng thêm khổ, không chừng lại hộc máu ngay tai đây mất”. Thế nhưng
nếu để chàng tự mình rời xa Vương Ngữ Yên thì làm sao cho được?
Chàng nghĩ thầm: “Thôi đợi Vương Ngữ Yên quay đầu lại lúc ấy mình sẽ
nói: Vương cô nương, chúc mừng cô đã gặp được biểu ca, hôm nay tại hạ
được gặp cô nương thêm một lần nữa, quả là có duyên. Tôi xin từ biệt”.
Nếu lúc đó nàng nói: “Được, thôi chào công tử” thì mình sẽ ra đi. Còn
nếu như nàng nói: “Sao gấp thế, ta còn có chuyện muốn nói với công tử”
thì mình sẽ nán lại xem nàng muốn nói gì.
Thực ra, Đoàn Dự biết Vương Ngữ Yên sẽ chẳng bao giờ quay đầu lại
nhìn mình, cũng chẳng bao giờ bảo chàng: “Sao gấp thế, ta còn có
chuyện muốn nói với công tử”. Bỗng nhiên, đám tóc phất phơ sau cổ
Vương Ngữ Yên hơi lay động, Đoàn Dự tim đập thình thình: “Nàng quay
lại đó!”. Thế nhưng chỉ nghe nàng thở dài một tiếng gọi khẽ:
– Biểu ca!
Mộ Dung Phục chăm chú nhìn bàn cờ, thấy bên trắng giờ này đã
chiếm thượng phong, đang dần dần ép lại nghĩ thầm: “Mấy nước cờ đó ta
làm sao nghĩ ra nổi. Vạn sự khởi đầu nan, là một bàn cờ quái lạ bậc nhất,
không sao tưởng được”. Vương Ngữ Yên lại khẽ gọi lần nữa nhưng y nào
có nghe thấy gì đâu. Vương Ngữ Yên lúc ấy mới chép miệng, từ từ quay
đầu lại. Đoàn Dự tim đập mạnh: “Nàng quay lại rồi! Nàng quay lại rồi!”.
Quả nhiên khuôn mặt tú lệ của Vương Ngữ Yên đã chuyển qua, Đoàn Dự
thấy dung nhan nàng nhuốm một vẻ ưu sầu, trong ánh mắt lại có chiều u
oán, nghĩ thầm: “Từ khi nàng sánh vai cùng Mộ Dung Phục đến đây, thần
sắc trước sau lúc nào cũng hết sức vui vẻ, sao bây giờ nàng bỗng dưng lại
trở nên buồn tủi? Không lẽ… không lẽ trong lòng nàng cũng có đôi chút
khắc khoải đến ta chăng?”. Chỉ thấy mắt nàng đưa qua phía phải, gặp ánh
mắt chàng, Đoàn Dự lập tức tiến lên một bước toan hỏi: “Vương cô
nương, cô có điều gì muốn nói ư?”. Thế nhưng ánh mắt Vương Ngữ Yên
lại tiếp tục di chuyển, nhìn bâng khuâng về chốn xa xăm rồi lại quay về
Mộ Dung Phục.
Tâm hồn Đoàn Dự trĩu hẳn xuống, khổ sở không đâu tả xiết: “Nàng
chẳng phải không nhìn ta, mà so với không nhìn ta còn gấp mười lần. Mắt
nàng tuy nhìn ta nhưng chỉ là “thị nhi bất kiến”. Tuy mắt nàng để vào ta
nhưng hình ảnh ta nào có vào được tim nàng. Nàng chỉ nghĩ đến biểu ca
chứ Đoàn Dự này có chút nào ở trong tâm khảm nàng đâu! Ôi, thôi đi cho
xong, chi bằng đi cho xong!”.
Ở bên kia Hư Trúc nghe lời chỉ điểm của Đoàn Diên Khánh, thấy bên
đen dù đi cách nào cũng bị bên trắng ăn mất một mớ, còn như để hở ra thì
quân trắng sẽ xung sát trùng vi, lúc đó sẽ không còn cách nào chống đỡ
được nữa.
Tô Tinh Hà suy nghĩ một hồi, cười hì hì đặt thêm một quân đen. Đoàn
Diên Khánh liền truyền âm:
– Hạ thượng vị thất bát.
Hư Trúc theo đúng thế mà làm, tuy y hiểu biết về cờ rất nông cạn
nhưng cũng biết là mình đặt quân cờ này xuống rồi là đã phá giải được
thế Trân Lung, vỗ tay cười nói:
– Xem chừng đã xong!
Tô Tinh Hà mặt rạng rỡ, chắp tay nói:
– Tiểu thần tăng trời cho tài ba như thế, quả là đáng mừng.
Hư Trúc vội vàng hoàn lễ nói:
– Không dám, không dám! Cái này không phải tiểu tăng…
Y vừa định thú thật là do sư bá tổ chỉ điểm, bỗng thấy có tiếng “truyền
âm nhập mật” vào tai:
– Bí mật này, bằng giá nào cũng không được tiết lộ. Hiểm cảnh chưa
thoát đâu, càng phải cẩn thận hơn nữa.
Hư Trúc lại tưởng đó là do Huyền Nạn ra lệnh, bèn cúi đầu đáp:
– Vâng! Vâng!
Tô Tinh Hà đứng thẳng dậy nói:
– Tiên sư sắp đặt thế cờ này, mấy chục năm nay không ai giải được,
nay tiểu thần tăng phá được thế Trân Lung, tại hạ cảm kích không đâu
cho hết.
Hư Trúc không biết nguyên do bên trong, chỉ biết khiêm tốn đáp:
– Tiểu tăng đi lăng nhăng toàn do trưởng bối thương tình, lão tiên
sinh quá khen, quả thực hổ thẹn không dám nhận.
Tô Tinh Hà đi đến trước ba gian nhà gỗ, giơ tay mời khách nói:
– Xin mời tiểu thần tăng bước vào.
Hư Trúc thấy ba gian nhà đó kiến trúc lạ lùng, lại không có cửa,
không biết bảo vào là vào làm sao, cũng chẳng hiểu vào để làm gì, thành
thử đứng ngẩn người ra, không biết thế nào cho phải. Lại nghe thanh âm
kia bảo:
– Thế cờ mở ra một con đường, chính là xung đột đấu tranh mà được.
Nhà không cửa, ngươi hãy dùng ngạnh công Thiếu Lâm phá ra.
Hư Trúc nói:
– Như vậy đành phải đắc tội.
Y xoạc cẳng xuống tấn, giơ tay phải lên, phát chưởng chém xuống
vách gỗ. Hư Trúc võ công thấp kém, hôm đó bị Đinh Xuân Thu phất tay
áo một cái đã ngã lăn ra, lập tức bị môn nhân phái Tinh Tú đè xuống bắt
giữ, cũng nhờ thế nội lực không mất. Dưới mắt biết bao nhiêu cao thủ tại
đương trường, chưởng lực của y thật chẳng bõ cười, cũng may vách nhà
không lấy gì làm kiên cố, chỉ nghe lách cách đã nứt ra một đường. Hư
Trúc lại bổ thêm hai chưởng nữa, lúc đó mới đánh vỡ cánh cửa nhưng bàn
tay cũng ê ẩm.
Nam Hải Ngạc Thần cười khằng khặc nói:
– Ngạnh công của phái Thiếu Lâm thật dở ơi là dở.
Hư Trúc quay lại đáp:
– Tiểu tăng là một đồ đệ chẳng đâu ra đâu của phái Thiếu Lâm,
công phu nông cạn chứ không phải võ công phái Thiếu Lâm không ra gì.
Lại nghe thanh âm kia nói tiếp:
– Mau mau vào đi, không được quay đầu lại, cũng đừng để ý đến
người ngoài.
Hư Trúc đáp:
– Vâng!
Y hăng hái đi vào. Bỗng nghe Đinh Xuân Thu quát lên:
– Đây là môn hộ của bản phái, một chú tiểu như ngươi sao dám bước
vào?
Tiếp theo là hai tiếng bình bình thật lớn, Hư Trúc cảm thấy một luồng
kình phong ập tới cuốn lấy y như muốn nhấc bổng người lên, kế đó là hai
luồng đại lực thúc vào lưng và mông, không còn tự chủ được nữa người
lộn tùng phèo, lăn vào bên trong.
Hư Trúc có biết đâu vừa mới chết đi sống lại, một đằng Đinh Xuân
Thu phát chưởng đánh lén định giết y, mặt khác Cưu Ma Trí vận dụng
Khống Hạc Công định chộp y kéo lại. Thế nhưng Đoàn Diên Khánh đã
dùng ám kình từ đầu trượng tiêu giải chưởng của Đinh Xuân Thu, còn Tô
Tinh Hà đang đứng giữa y và Cưu Ma Trí, đưa tay trái chặn Khống Hạc
Công còn tay phải đánh luôn hai cái, đẩy Hư Trúc tọt vào trong nhà.
Hai luồng lực đạo đó thật cương mãnh, Hư Trúc phá vỡ một mảnh ván
rồi, trán đụng bình một cái, lại va ngay vào một bức vách khác, đầu óc
mịt mù, tưởng chừng muốn ngất đi, phải một lúc sau mới gượng đứng lên
được, giơ tay xoa đầu thấy trán sưng u một cục lớn. Y thấy mình đang
đứng trong một căn phòng trống không có một ai, đang định đi tìm cửa
nhưng gian nhà đó kín mít như bưng, chỉ có mỗi cái lỗ mình vừa phá vỡ đi
vào. Y đứng ngẩn ngơ, đang định theo cái lỗ đó chui trở ra.
Bỗng nghe từ vách phía bên kia một giọng nói già cả khẽ truyền qua:
– Đã vào được đây, sao lại còn muốn đi ra?
Hư Trúc quay người lại nói:
– Xin lão tiền bối chỉ lối cho.
Thanh âm kia nói tiếp:
– Lối đi ngươi đã tự mình xông vào được, có cần gì phải ai chỉ. Ta
sắp xếp bàn cờ đó, mấy chục năm qua không ai phá giải nổi, sau cùng
hôm nay ngươi đã sách khai9 rồi, sao không vào đây.
Hư Trúc nghe thấy ông ta nói “ta sắp xếp bàn cờ đó” không khỏi nổi
da gà, lập cập hỏi:
– Ông… ông… ông…
Y đã nghe Tô Tinh Hà nhắc đi nhắc lại bàn cờ đó do “tiên sư” bày ra,
thế giọng này là người hay ma đây? Lại nghe giọng nói tiếp:
– Thời cơ chỉ vụt qua rồi mất, ta đợi đã ba mươi năm nay, chẳng còn
thì giờ đâu mà đợi ngươi nữa! Này con ơi, mau vào đây thôi.
Hư Trúc nghe tiếng nói cực kỳ thân mật hiền từ, xem ra không có chút
ác ý nào, chẳng suy nghĩ gì thêm, dùng đầu vai huých vào tấm vách,
nghe lách cách một tiếng lớn, tấm vách đó lâu ngày cũng mục rồi nên lập
tức vỡ ngay một miếng.
Hư Trúc đưa mắt nhìn không khỏi hoảng hốt, thấy bên trong cũng là
một gian phòng trống nhưng có một người ngồi giữa lưng chừng trời. Ý
niệm đầu tiên hiện ra là “có ma”, sợ quá toan quay mình bỏ chạy thì
nghe người kia nói:
– Ồ, thì ra là một chú tiểu! Ôi, lại là một chú tiểu mặt mày xấu xí!
Chán quá, chán quá, chán quá! Ôi! Chán quá, chán quá, chán quá!
Hư Trúc nghe ông thở dài liên tiếp ba lần, lại nói sáu câu “chán quá”
nên đăm đăm nhìn ông ta, lúc ấy mới rõ, thì ra người ông ta treo bằng
một sợi dây thừng đen, một đầu dây buộc vào sà ngang, nên mới lơ lửng
giữa trời như thế. Chỉ vì bức tường đằng sau lưng ông ta tối om om, dây
thừng lại sẫm màu trộn lẫn vào nhau nên không nhìn ra sợi dây, thoạt
mới nhìn lại tưởng ông ta đang ngồi trên không.
Hư Trúc mặt mũi cũng hơi xấu trai, mày rậm mắt to, mũi huếch, hai
tai đón gió10, đôi môi dày, lại thêm mới va vào tường bị thương thành ra
9 sách chiết sách chiêu chiết chiêusách giải chiết giải nãi nhưng tam thiếu nãi tam thiếu nhưng
lem luốc, quả cũng khó coi thật. Y mồ côi cha mẹ từ nhỏ, những nhà sư
trong chùa Thiếu Lâm thương tình đem vào nuôi dưỡng, trong chùa nếu
người nào không chuyên cần thanh tu thì cũng chăm lo luyện võ, chẳng
một ai để ý xem y xấu hay đẹp. Người trong cửa Phật coi là thân thể chỉ
là “cái túi da hôi thối”11 nếu còn để ý đến cái túi đó dễ coi hay không thì
việc chứng đạo chỉ thêm vướng bận. Thành ra khi nghe người này bảo là
“một chú tiểu mặt mày xấu xí” thì Hư Trúc cũng chỉ mới nghe lần đầu
tiên.
Y len lén ngửng đầu lên nhìn người kia, thấy ông ta râu dài ba thước
không có một sợi bạc nào, mặt như quan ngọc12, chẳng có chút vết nhăn,
tuổi tác dĩ nhiên không còn trẻ nữa nhưng thần tình sảng lãng, phong độ
nhàn nhã. Hư Trúc hơi cảm thấy sượng sùng nghĩ thầm: “Nói đến tướng
mạo thì mình so với ông ta đúng là một trời một vực”. Khi đó trong lòng
không còn sợ hãi gì nữa, y liền khom người hành lễ nói:
– Tiểu tăng Hư Trúc xin bái kiến tiền bối.
Người kia gật đầu hỏi:
– Thế ngươi họ gì?
Hư Trúc sựng lại nói:
– Người đã xuất gia không còn tên họ thế tục nữa.
Người kia hỏi lại:
– Thế trước khi xuất gia thì ngươi tên họ là chi?
Hư Trúc đáp:
– Tiểu tăng xuất gia từ nhỏ, xưa nay không có tên họ gì cả.
Người kia chăm chú nhìn y như để suy đoán, thở dài một tiếng nói:
10
11 12
– Ngươi đã phá giải được thế cờ của ta ắt thông minh tài trí phải thật
hơn người, nhưng tướng mạo thế kia, xem chừng không ổn, ôi, thật chán
ngán thay. Ta xem rồi sau cùng nước lã ra sông, uổng tâm tư một đời lại
chỉ làm ngươi bỏ mạng oan thôi. Này chú tiểu ơi, ta cho ngươi một lễ vật
để ngươi đi khỏi đây nhé.
Hư Trúc nghe giọng điệu ông lão kia, xem chừng có một việc rất khó,
không ai giúp mình nên lo phiền, tuy nhiên pháp môn thứ nhất của nhà
Phật là “giúp chúng sinh qua cơn khổ ách”13 nên nói liền:
– Kỳ đạo của tiểu tăng thực ra hết sức nông cạn, cuộc cờ của lão tiền
bối chẳng phải do tiểu tăng sách giải đâu. Thế nhưng lão tiền bối nếu có
chuyện gì phải làm, tiểu tăng tuy bản lãnh kém cỏi nhưng cũng nguyện
hết sức cố gắng, còn như món quà thì tiểu tăng không dám nhận.
Ông lão kia nói:
– Ngươi có bụng dạ hiệp nghĩa như thế, quả là hay lắm. Ngươi kỳ
nghệ không cao, võ công thấp kém, cũng chẳng hề gì nhưng đã đến được
đây, cũng là có duyên. Có điều… có điều… tướng mạo nhà ngươi sao
khó coi quá.
Nói rồi ông ta lắc đầu quầy quậy. Hư Trúc mỉm cười nói:
– Tướng mạo đẹp hay xấu cũng là do nghiệp báo từ khi vô thủy đến
nay tụ lại mà thành, chính mình đã không làm chủ được, mà cả cha mẹ
cũng đành chịu vậy mà thôi. Tiểu tăng xấu xí khiến cho tiền bối không
vui, thôi xin cáo từ.
Nói xong lùi lại hai bước. Hư Trúc đang định quay đi thì ông lão kia
nói:
– Hãy khoan!
Tay áo của ông ta phất ra, để lên đầu vai phải của Hư Trúc. Thân hình
y hơi trĩu xuống, thấy cánh tay áo đó chẳng khác gì cánh tay, giữ chặt lấy
người. Ông lão cười:
– Người tuổi trẻ mà có ngạo khí như thế, quả là hay lắm.
13
Hư Trúc đáp:
– Tiểu tăng nào đám cuồng vọng kiêu ngạo, chỉ vì sợ lão tiền bối bực
mình đấy thôi, cho nên cáo thoái sớm cho xong.
Ông già kia gật đầu hỏi thêm:
– Ngày hôm nay đến đây giải thế cờ gồm có những ai?
Hư Trúc kể lại tất cả. Ông lão trầm ngâm một hồi nói:
– Cao thủ trong thiên hạ, mười phần thì đến sáu bảy đến đây rồi. Thế
Khô Vinh đại sư của họ Đoàn Đại Lý có đến không?
Hư Trúc đáp:
– Ngoài tăng chúng trong tệ tự ra, người xuất gia chỉ có một mình
Cưu Ma Trí đại sư thôi.
Ông lão kia lại hỏi:
– Trong những năm gần đây võ lâm nghe nói có một gã tên Kiều
Phong võ công rất khá, y có đến không?
Hư Trúc đáp:
– Không.
Ông già thở dài một tiếng, lẩm bẩm nói một mình:
– Ta đã đợi bao nhiêu năm nay, nếu đợi thêm nữa, chắc gì đã gặp
được người hoàn toàn đẹp đẽ cả bên ngoài lẫn bên trong. Thiên hạ bất
như ý sự thường thất bát, thôi cũng đành như thế mà thôi.
Ông ta trầm ngâm một hồi, dường như tâm ý đã quyết nói:
– Mới rồi ngươi có nói, thế cờ đó không phải ngươi sách giải, thế sao
Tinh Hà lại đưa ngươi vào đây?
Hư Trúc đáp:
– Quân thứ nhất cũng do tiểu tăng lớn mật không biết, nhắm mắt đặt
bừa, còn những nước sau thì do tệ sư bá tổ pháp húy thượng Huyền hạ
Nạn, dùng “truyền âm nhập mật” bí mật chỉ điểm.
Nói rồi đem tình hình phá giải thế cờ ra sao kể lại một lượt. Ông lão
thở dài:
– Quả là ý trời! Quả là ý trời!
Đột nhiên khuôn mặt đang buồn trở nên rạng rỡ, cười nói:
– Nếu đã là ý trời định như thế, ngươi nhắm mắt đặt bừa mà giải
được thế cờ của ta, đủ biết phúc duyên thâm hậu, có thể lo việc đại sự
cho ta cũng chưa biết chừng. Hay lắm, hay lắm, hay lắm! Con ngoan ơi,
ngươi quì xuống khấu đầu đi.
Hư Trúc từ bé lớn lên trong chùa Thiếu Lâm, ngày ngày nếu không
gặp sư phụ thì cũng sư thúc sư bÿ, có khi sư bá tổ, sư thúc tổ các loại
trưởng bối, đến ngay cùng hàng với mình, những sư huynh tuổi tác lớn
hơn, võ công cao hơn cũng biết bao nhiêu, xưa nay phục tòng đã quen.
Đệ tử nhà Phật tập luyện tính khiêm tốn cho nên khi nghe ông lão bảo y
rập đầu, tuy không hiểu vì lý do tại sao, nhưng nghĩ bụng người này là
tiền bối trong võ lâm, có lạy ông ta mấy cái cũng là chuyện đương nhiên,
cho nên cung kính quỳ xuống cộp cộp cộp cộp rập đầu bốn cái liền. Y
vừa định đứng lên thì người kia lại nói:
– Thêm năm cái nữa, đó là qui củ bản môn.
Hư Trúc đáp liền:
– Vâng!
Rồi y lại rập đầu thêm năm lần nữa. Ông lão nói:
– Con ngoan lắm! Con ngoan lắm! Lại đây!
Hư Trúc đứng lên đến trước mặt ông ta. Ông lão nắm cổ tay y, nhìn y
từ đầu đến chân đánh giá. Đột nhiên Hư Trúc thấy mạch môn nóng lên,
một luồng nội lực theo cánh tay chạy lên, nhanh nhẹn dị thường đi thẳng
vào tim, tự nhiên không định mà dùng Thiếu Lâm tâm pháp kháng cự lại.
Nội lực của ông lão liền quay trở ra, trở lại bình thường. Hư Trúc biết
rằng ông già thử xem mình nội lực nông sâu bực nào, không khỏi mặt đỏ
tía tai, ngượng ngập nói:
– Tiểu tăng bình thời hay đọc kinh Phật, lại ham vui chơi, không
chăm chỉ tập luyện nội công sư phụ truyền thụ chẳng bõ làm trò cười cho
tiền bối.
Ngờ đâu ông lão lại cực kỳ hoan hỉ, cười nói:
– Tốt lắm! Tốt lắm! Nội công phái Thiếu Lâm ngươi tập rất ít nên
cũng đỡ mất công cho ta.
Ông ta nói xong Hư Trúc thấy toàn thân mềm ra, tưởng như đang trầm
mình tắm trong một dòng suối ấm, nhiệt khí theo lỗ chân lông mà bốc
hơi, cảm thấy hết sức khoan khoái. Chỉ trong chốc lát, ông lão đã buông
tay y ra, cười nói:
– Xong rồi! Ta đã dùng Bắc Minh Thần Công của bản môn hóa tán
hết nội lực Thiếu Lâm của ngươi đó.
Đoàn Dự hoảng hốt, kêu lên:
– Cái… cái gì?
Y nhảy nhổm lên nhưng khi rơi xuống đất hai đầu gối mềm oặt, ngồi
phệt xuống đất, bao nhiêu khớp xương rã rời, đầu óc choáng váng, trời
đất quay cuồng, biết là ông già nói không sai, trong lòng thảng thốt, nước
mắt dàn dụa, khóc òa lên:
– Tôi… tôi… tôi với ông có thù oán gì đâu, cũng đâu có làm gì đắc
tội, sao ông nỡ lòng nào hại tôi như thế?
Người kia mỉm cười:
– Sao ngươi lại ăn nói vô phép như vậy? Đã không gọi “sư phụ” lại
gì mà “tôi” với “ông”, chẳng có qui củ gì cả.
Hư Trúc kinh hoàng lắp bắp:
– Cái gì? Sao ông lại là sư phụ của tôi?
Người kia nói:
– Ngươi vừa mới rập đầu lạy ta chín cái, đó chính là lễ bái sư đó.
Hư Trúc kêu lên:
– Không! Không! Tôi là đệ tử Thiếu Lâm, làm sao có thể bái ông
làm thầy được? Cái môn tà thuật hại người của ông, tôi nhất định không
học đâu.
Nói xong y gắng gượng đứng lên. Người kia cười:
– Có thực ngươi không học hay không?
Hay tay vung lên, tay áo bay ra, chộp vào đầu vai Hư Trúc. Hư Trúc
thấy đầu vai nặng chịch, không cách nào vùng lên được, hai đầu gối lại
nhuyễn ra ngồi phịch xuống, mồm kêu toáng lên:
– Ông có đánh chết tôi, tôi cũng không học.
Người kia cười ha hả, đột nhiên thân hình bay tung lên, lộn một vòng
trên không, chiếc khăn vuông trên đầu bay vào một góc nha, chân trái
đạp vào xà ngang một cái rơi xuống, đầu ông ta trúng ngay đầu Hư Trúc,
hai thiên linh cái đụng nhau. Hư Trúc sợ quá lập cập hỏi:
– Ông… ông làm gì thế?
Y cố sức lắc đầu, định hất ông ta ra. Thế nhưng tưởng như đầu ông lão
có đinh đóng chặt vào đầu Hư Trúc, dù có vùng vằng thế nào chăng nữa
vẫn không cách nào thoát ra được. Đầu Hư Trúc lắc qua hướng đông thì
cả thân hình ông ta nghiêng qua hướng đông, Hư Trúc lắc qua hướng tây
thì ông ta lại nghiêng về hướng tây, cả hai người liền thành một lắc lư
qua lại không ngớt.
Hư Trúc càng thêm khủng khiếp, đưa hai tay ra, cố đẩy tay trái, tay
phải thì nắm lấy định đẩy đầu ông ta ra khỏi đầu mình. Thế nhưng vừa
đẩy một cái đã thấy tay mình mềm oặt như bông không có một chút khí
lực nào, càng thêm bồn chồn: “Bị trúng phải tà thuật của lão ta rồi, không
những võ công mất sạch, xem chừng đến mặc áo ăn cơm cũng chẳng còn
hơi sức, từ nay mình đã tê liệt, thành người tàn phế, biết làm sao đây?⬙. Y
càng thêm kinh hoàng thất tán, mở miệng kêu gào, bỗng thấy từ trên
huyệt Bách Hội nơi đỉnh đầu một sợi nhiệt khí đi thẳng vào trong óc,
miệng kêu không ra tiếng, nghĩ thầm: “Hỏng rồi! Chắc mình mất mạng”.
Chỉ thấy óc càng lúc càng nóng, rồi thì mơ mơ như muốn căng lên, tưởng
như muốn bốc thành ngọn lửa, luồng nhiệt khí từ trên đi thẳng xuống,
chẳng mấy chốc đã chịu không nổi, ngất đi.
Y thấy người nhẹ nhàng bay bổng tưởng chừng đang đằng vân giá vụ,
lang thang trên không, rồi bỗng nhiên thân trên lạnh buốt, tưởng như rơi
vào biển khơi, đùa dỡn với bầy cá, có lúc lại đang ở trong chùa đọc kinh,
có khi lại đang khổ luyện võ nghệ, nhưng luyện đi luyện lại mãi chưa
được. Còn đang hoang mang, bỗng thấy trời đổ mưa rào, từng giọt từng
giọt rơi đầy người, nhưng những giọt mưa cũng nóng hổi.
Khi đó Hư Trúc cũng đã hơi tỉnh lại, mở mắt ra thấy ông già đó mặt,
cổ, chân tóc chỗ nào cũng có mồ hôi toát ra đầm đìa không ngớt rơi tong
tỏng lên người y. Hư Trúc cũng thấy mình đã nằm gục dưới đất, ông lão
thì ngồi một bên nhưng đầu hai người không còn dính với nhau nữa.
Hư Trúc ngồi dậy nói:
– Ông… ông…
Chỉ nói được hai tiếng “ông”, chợt giật mình kinh dị, thấy ông lão bây
giờ biến đổi hẳn, khuôn mặt trắng trẻo đẹp đẽ mới rồi, bây giờ nhăn nheo
đầy vết ngang dọc, mái tóc dài đã rụng hết, còn bộ râu trước kia đen
nhánh thì nay bạc trắng. Ý niệm đầu tiên của Hư Trúc là: “Ta ngất đi đã
bao nhiêu năm rồi? Ba mươi năm chăng? Hay năm mươi năm? Sao người
này bỗng nhiên già đi đến vài mươi tuổi?”. Ông lão trước mắt giờ đây
hom hem lụ khụ, nếu không phải một trăm hai mươi tuổi thì cũng phải
một trăm.
Ông già kia đôi mắt lờ đờ, cố hết sức nở một nụ cười nói:
– Việc lớn đã xong! Con ngoan ơi, ngươi phúc trạch thâm hậu, vượt
quá kỳ vọng của ta nhiều, người đánh thử một chưởng vào bức vách trống
kia xem nào!
Hư Trúc không hiểu ra sao, y lời đánh ra một chưởng, chỉ nghe lách
cách, mảng tường lớn vỡ tung đến một nửa, thật nếu y dùng hết sức lao
vào đến mươi lần cũng chưa bằng. Hư Trúc kinh hãi đến ngẩn người, ấp
úng:
– Cái… cái đó là vì sao thế?
Ông lão mặt rạng rỡ, hết sức hoan hỉ, cũng hỏi lại:
– Cái… cái đó là vì sao thế?
Hư Trúc hoang mang:
– Sao bỗng nhiên… bỗng nhiên tiểu tăng có lực đạo mạnh đến thế?
Ông già mỉm cười:
– Ngươi chưa được học chưởng pháp của bản môn cho nên lực đạo sử
dụng chưa được tới một thành. Hơn bảy mươi năm cần tu khổ luyện của
sư phụ ngươi không lẽ tầm thường?
Hư Trúc nhảy bật dậy, biết rằng có điều gì không ổn, kêu lên:
– Ông… ông… cái gì mà hơn bảy mươi năm cần tu khổ luyện?
Ông lão vẫn mỉm cười:
– Không lẽ đến giờ này ngươi chưa hiểu rõ hay sao? Thực chăng hay
là không dám nghĩ đến?
Hư Trúc dường như mang máng hiểu câu nói của ông già, có điều việc
xảy ra quá đột ngột, quả không bao giờ ngờ tới, không ai tin nổi, khép
nép nói:
– Lão tiền bối truyền một môn thần công… một môn thần công cho
tiểu tăng ư?
Ông lão vẫn mỉm cười:
– Sao ngươi chưa gọi ta là sư phụ?
Hư Trúc cúi đầu đáp:
– Tiểu tăng là đệ tử phái Thiếu Lâm, không thể khi tổ diệt tông, đổi
qua phái khác.
Ông lão nói:
– Trong người ngươi không có chút xíu công phu Thiếu Lâm nào, sao
lại còn là đệ tử Thiếu Lâm được? Trong người ngươi súc tích hơn bảy
mươi năm thần công phái Tiêu Dao, sao lại không phải là đệ tử bản phái?
Hư Trúc xưa nay chưa từng nghe nói đến phái Tiêu Dao, hoang mang
hỏi lại:
– Phái Tiêu Dao ư?
Ông lão mỉm cười:
– Thừa thiên địa chi chính, ngự lục khí chi biện, dĩ du ư vô cùng, thị vi
tiêu dao14. Ngươi nhảy lên thử xem nào?
Hư Trúc nổi dạ hiếu kỳ, hai đầu gối cong lại, nhún chân một cái, nhẹ
nhàng nhảy lên. Đột nhiên nghe bình một tiếng, đỉnh đầu đau nhói, mắt
sáng lòa, một nửa người đã xuyên qua nóc nhà mà vẫn tiếp tục bay lên,
vội vàng đưa tay giữ mái nhà ghìm lại, rơi trở xuống đất, còn nhảy tưng
tưng mấy bận, lúc ấy mới ngừng lại được. Khinh công như thế quả là
không dám nghĩ tới, trong nhất thời đã không vui mừng lại đâm ra sợ hãi.
Ông lão nói:
– Thấy thế nào?
Hư Trúc đáp:
– Tiểu tăng… tiểu tăng bị ma làm chăng?
Ông lão nói:
– Ngươi cứ bình thản ngồi xuống, nghe ta kể hết nguyên nhân. Thời
khắc không còn nhiều, chỉ nói những gì quan trọng. Nếu như ngươi không
bằng lòng gọi ta là thầy, không muốn đổi tông phái thì ta cũng không ép
ngươi được. Tiểu sư phụ, ta cầu ngươi giúp ta một điều, thay ta làm một
chuyện, ngươi có bằng lòng không?
Hư Trúc xưa nay vẫn thích giúp người, nhà Phật tu theo lục độ15, đứng
đầu là bố thí, thế nhân có nạn phải hết sức giúp đỡ bèn nói:
– Tiền bối đã sai bảo ắt tiểu tăng sẽ kiệt lực mà làm.
Câu đó vừa nói ra, bỗng y chợt nghĩ công phu của ông lão này dường
như yêu tà của tả đạo, nên lại tiếp theo:
14
15
– Thế nhưng nếu tiền bối sai tiểu tăng làm chuyện sai quấy thì sẽ
không thể tòng mệnh đâu.
Ông lão kia trên mặt nụ cười gượng gạo hỏi lại:
– Thế ngươi nghĩ thế nào là chuyện sai quấy?
Hư Trúc chựng lại đáp:
– Tiểu tăng là đệ tử cửa Phật, những điều làm tổn hại đến người khác
thì nhất quyết không làm.
Ông già lại hỏi:
– Nếu như trên đời này có kẻ kia chuyên làm điều tổn hại người
khác, những chuyện sai quấy, giết người không gớm tay, ta sai ngươi đi
tiêu diệt kẻ đó, ngươi có bằng lòng không?
Hư Trúc đáp:
– Tiểu tăng sẽ hết lời khuyên y trở về đường ngay nẻo chánh.
Ông lão lại hỏi:
– Thế nhưng nếu chấp mê không nghe thì sao?
Hư Trúc ưỡn ngực nói:
– Phục ma trừ hại, đó là điều đương nhiên phải làm của chúng ta, có
điều tiểu tăng tài nghệ nông cạn, e rằng không gánh vác nổi trọng nhiệm
đó.
Ông lão nói:
– Thế có nghĩa là ngươi bằng lòng chứ gì?
Hư Trúc gật đầu nói:
– Tiểu tăng bằng lòng.
Ông già ra chiều vui sướng nói:
– Hay lắm! Hay lắm! Ta muốn ngươi đi giết một người, một kẻ đại
đại ác, chính là đệ tử của ta Đinh Xuân Thu, hiện nay trong võ lâm gọi là
Tinh Tú Lão Quái đó.
Hư Trúc thở phào một hơi, tưởng như trút được gánh nặng. Y chính
mắt thấy Tinh Tú Lão Quái chỉ một câu đã giết mười người phu xe, quả
là đại ác, chính sư bá tổ Huyền Nạn cũng bị y dùng tà thuật hóa tán hết
nội lực, liền đáp:
– Trừ khử Tinh Tú Lão Quái quả là công đức vô lượng, có điều tiểu
tăng công phu nhỏ bé, làm sao có thể…
Nói đến đây y nhìn ông già, bốn mắt chạm nhau, thấy ông dường như
có ý diễu cợt, lập tức nghĩ ra: “Công phu nhỏ bé ” xem chừng không đúng
nên im bặt. Ông lão nói:
– Cái công phu nhỏ bé mà ngươi đang có, không kém gì Tinh Tú Lão
Quái đâu, có điều muốn trừ diệt y quả là chưa đủ, thế nhưng ngươi chớ lo
lắng, lão phu đã sắp đặt cả rồi.
Hư Trúc đáp:
– Tiểu tăng từng nghe Tiết Mộ Hoa thí chủ nói về những chuyện ác
của Đinh… Đinh thí chủ biển Tinh Tú, bảo là tiền bối đã bị ông ta hại
rồi, ngờ đâu lão tiền bối vẫn còn ở trên trần thế, quả… quả là hay lắm,
hay lắm!
Ông lão thở dài nói:
– Năm xưa tên nghịch đồ đó đột nhiên giở chứng, đánh ta rơi vào
thâm cốc, tưởng ta đã táng mạng rồi. Cũng may người học trò lớn của ta
là Tô Tinh Hà giả câm giả điếc, có thế mới che dấu được tai mắt tên
phản phúc kia, ta mới giữ được chút hơi tàn, sống thêm ba mươi năm. Tư
chất của Tinh Hà cũng không phải dở đâu, có điều bị ta dẫn vào ngã rẽ,
phân tâm tập luyện bàng vụ, đi học cầm kỳ thư họa những trò vui chơi
nhàn nhã nên võ công thượng thừa của ta y không sao học nổi.
Trong ba mươi năm nay ta ngong ngóng một đứa học trò thông minh
mà lại chuyên tâm học hỏi để truyền lại võ học cả một đời, sai đi tru diệt
Đinh Xuân Thu. Thế nhưng cơ duyên không dễ gặp, người thông minh mà
bản tính chẳng ra gì, không chừng lại rơi vào vết xe đổ, dưỡng hổ di
hoạn; còn người tính tình tốt thì ngộ tính lại chẳng đủ. Đến lúc này ta xem
chừng đã tận tuổi trời rồi, không còn chờ thêm được nữa, nên đành phải
công bố cho thiên hạ bàn cờ Trân Lung năm xưa ta bày ra để tìm người
tài tuấn. Đại hạn của ta đã đến rồi, không còn thì giờ truyền thụ võ công
thành thử đứa quan môn đệ tử của ta ắt phải là một người trẻ tuổi thông
minh tuấn tú.
Hư Trúc nghe ông ta nói đến “thông minh tuấn tú”, nghĩ thầm mình tư
chất đã chẳng thông minh, còn tuấn tú thì khỏi cần nói đến làm gì, nên
ngượng ngập nói:
– Những người tuấn nhã trên đời có biết bao nhiêu, ngay bên ngoài
kia cũng có hai người, một là Mộ Dung công tử, còn một vị là công tử họ
Đoàn. Tiểu tăng đi ra mời hai người đó vào hội kiến với tiền bối được
chăng?
Ông lão cười khẩy một tiếng nói:
– Ta nghịch vận Bắc Minh Thần Công đem hơn bảy mươi năm công
phu tu tập, trút vào cho ngươi cả rồi, làm sao còn truyền thụ cho người thứ
hai được nữa?
Hư Trúc hoảng hốt nói:
– Có thật là tiền bối… tiền bối đem công lực cả đời truyền vào tiểu
tăng không? Lẽ… lẽ nào…
Ông lão nói:
– Chuyện này đối với ngươi là họa hay phúc, lúc này thật khó nói.
Võ công cao cường chắc gì đã là phúc, trên thế gian những người không
biết chút võ công nào, không lo không sầu, bớt tranh cạnh thì chẳng phải
cũng bớt phiền não hay sao? Nếu như năm xưa ta chỉ học cầm, học kỳ,
học thư, học họa mà chẳng nghiên cứu những môn võ học thì đời ta ắt
khoái hoạt hơn nhiều.
Ông nói tới đây thở dài một tiếng, ngẩng đầu nhìn qua lỗ hổng trên
mái nhà mà Hư Trúc đã đụng vỡ, dường như đang nhớ lại rất nhiều
chuyện đã qua, một lúc sau mới nói:
– Hảo hài tử, Đinh Xuân Thu vẫn tưởng ta đã chết dưới tay y rồi nên
không kiêng nể gì ai nữa. Còn bức tranh đây, bên trên vẽ nơi ta ngày xưa
hưởng thanh phúc ở núi Vô Lượng nước Đại Lý, là chỗ ngươi tìm võ học
điển tịch ta tàng trữ, theo đúng thế mà luyện tập thì võ công sẽ chẳng
kém gì Đinh Xuân Thu. Có điều tư chất ngươi dường như không tốt lắm,
tu tập võ công bản môn, chỉ sợ có nhiều chỗ ngắc ngứ, có thể gặp khó
khăn hung hiểm không chừng.
Vậy ngươi phải đi cầu một người đàn bà ở thạch động trong núi Vô
Lượng chỉ điểm cho. Bà ta thấy ngươi tướng mạo không đẹp, chắc là
không chịu dạy đâu, nhưng xin bà ta hãy nghĩ đến ta… khục… khục…
Ông ta nói đến đây thì ho sù sụ, thở chẳng ra hơi, lấy trong người một
quyển trục nho nhỏ nhét vào tay Hư Trúc. Hư Trúc không khứng chịu,
dùng dằng nói:
– Tiểu tăng học nghệ chưa thành, lần này theo lệnh thầy xuống núi
đưa thư, phải trở về núi ngay để phục mệnh, từ nay về sau có gì cũng
phải theo sư mệnh mà làm. Nếu như phương trượng bản tự và nghiệp sư
không bằng lòng, thì không thể nào tuân theo lời dặn dò của tiền bối
được.
Ông lão gượng nở một nụ cười nói:
– Nếu quả đó là thiên ý muốn cho kẻ ác tự tung tự tác, thì cũng
chẳng còn cách nào hơn, ngươi… ngươi…
Ông ta nói được hai chữ “ngươi” bỗng toàn thân run rẩy, từ từ gục
người xuống, hai tay chống dưới đất, tưởng chừng như sắp tắt thở rồi. Hư
Trúc hoảng hốt vội vàng đưa tay đỡ hỏi:
– Lão… lão tiền bối sao thế?
Ông già đáp:
– Hơn bảy mươi năm tu luyện của ta truyền hết cho ngươi rồi, hôm
nay mệnh đã hết. Này con, ngươi nhất định không chịu gọi ta bằng “sư
phụ” ư?
Ông ta nói tới đây thì hổn hển dường như sắp chết. Hư Trúc nhìn ánh
mắt van xin của ông lão thật đáng thương, nẫu cả ruột buột miệng kêu
lên:
– Sư phụ!
Ông lão mừng quá, cố sức tháo trên ngón tay bên trái ra một chiếc
nhẫn bằng bảo thạch, muốn đeo vào tay cho Hư Trúc, có điều lực khí hao
kiệt, đến nắm cổ tay Hư Trúc cũng không xong. Hư Trúc vội kêu lên:
– Sư phụ!
Rồi cầm chiếc nhẫn đeo luôn vào ngón tay mình. Ông lão phều phào:
– Ngoan… con ngoan lắm! Con là đệ tử thứ ba của ta, nếu gặp Tô
Tinh Hà thì gọi y… gọi y là đại sư ca. Con họ gì?
Hư Trúc đáp:
– Con quả thực không biết.
Ông lão thở dài:
– Tiếc thay mặt mũi con không được dễ coi, rồi đây sẽ gặp nhiều
chuyện rắc rối, có điều con là chưởng môn phái Tiêu Dao, người đàn bà
ấy không dám vi kháng mệnh lệnh của con đâu, tốt lắm, tốt lắm…
Ông ta càng nói thanh âm càng nhỏ, tới câu “tốt lắm” thứ hai thì chỉ
còn mong manh như tơ, nghe không rõ, đột nhiên cười ha ha mấy tiếng,
người bổ nhào về trước, nghe bình một tiếng, trán đập xuống đất, rồi
không động đậy gì nữa.
Hư Trúc vội vàng đỡ ông ta lên, đưa tay thăm dò thì đã tắt thở, vội
vàng chắp tay niệm Phật:
– Nam mô A Di Đà Phật! Nam mô A Di Đà Phật! Nguyện cầu Phật A
Di Đà, Quan Thế Âm bồ tát, Đại Thế Chí bồ tát tiếp dẫn lão tiên sinh
vãng sinh thế giới tây phương cực lạc.
Y ở với ông lão này chưa đầy một giờ, đúng ra chẳng có bao nhiêu
tình nghĩa, thế nhưng trong người nhận hơn bảy mươi năm công lực của
ông ta, ngấm ngầm cảm thấy ông lão đối với mình thân cận hơn bất cứ ai
khác, nói đúng ra, một phần của ông ta đã biến thành con người mình, đột
nhiên trong lòng buồn bã, khóc òa lên.
Y khóc một lúc rồi mới quì xuống, hướng về di thể của ông lão lạy
mấy lạy, lẩm nhẩm khấn:
– Lão tiền bối, tiểu tăng giả vờ gọi ông là sư phụ đấy thôi, xin ông
đừng coi là thật. Ông tâm thần nếu không mê muội xin đừng trách tôi.
Khấn xong rồi, y mới quay lại theo lỗ hổng đã phá ban nãy chui ra,
nhảy nhẹ một cái, đã vượt qua hai lần vách đến bên ngoài.