Thiên Long Bát Bộ (Bản Mới)

Chương 64 - Thả Tự Tiêu Dao Một Thùy Quản (2)

trước
tiếp

Tiêu dao tự tại một thân,

Chẳng ai ước thúc bó chân ra vào.

*

* *

Người được chữa dĩ nhiên vô vàn cảm kích đã đành, người đứng ngoài cũng

hết sức bội phục tài Lung Á lão nhân nhưng nghĩ lại ông ta là thầy của Tiết Thần

Y nên cũng không lấy gì làm lạ.

Sau cùng Hư Trúc đi đến trước mặt Huyền Nạn khom lưng nói:

– Sư bá tổ, đệ tử làm liều một phen, muốn đánh vào huyệt Bách Hội của sư

bá tổ.

Huyền Nạn mỉm cười đáp:

– Ngươi được lọt vào mắt xanh của Thông Biện tiên sinh, học được tài nghệ

xảo diệu để chữa bệnh, quả là phúc duyên không nhỏ, cứ việc đánh vào huyệt

Bách Hội của ta đi.

Hư Trúc khom lưng đáp:

– Nếu như thế đệ tử đành mạo muội.

Khi y còn ở trong chùa Thiếu Lâm, mỗi khi gặp Huyền Nạn đều phải đứng

xa xa mà nhìn, thỉnh thoảng Huyền Nạn tụ tập tăng chúng, giảng giải tâm pháp võ

công, Hư Trúc chỉ đứng theo địa vị mà nghe, chưa bao giờ được cùng ông nói

chuyện, lần này lại giơ tay đánh lên đầu ông ta, tuy nói là để trị thương, trong bụng

không khỏi phập phồng, thấy nụ cười của ông ta trông có vẻ lạ lùng, không hiểu

có ý gì, bèn cố gắng định thần nói thêm một câu:

– Đệ tử mạo phạm, xin sư bá tổ thứ tội cho.

Y nói xong tiến lên một bước, giơ chưởng nhắm thẳng huyệt Bách Hội của

Huyền Nạn, không nặng không nhẹ, chẳng chậm chẳng nhanh đánh xuống.

Chưởng của Hư Trúc vừa đánh xuống đầu Huyền Nạn, nét mặt Huyền Nạn đột

nhiên lộ một nụ cười quái đản, chỉ kêu lên một tiếng dài, đột nhiên người sụm

xuống, dãy dụa mấy cái, nằm gục xuống đất không động đậy gì nữa.

Những người đứng xem ai nấy kinh hoảng kêu ầm lên, Hư Trúc cũng sợ đến

tim đập thình thình, vội vàng xông lên, đỡ Huyền Nạn dậy, Huyền Phương cũng

chư tăng cũng ùa đến. Nhìn lại Huyền Nạn thấy ông mặt vẫn mỉm cười nhưng

không còn thở nữa quả đã từ trần. Hư Trúc kinh hãi kêu lên:

– Sư bá tổ! Sư bá tổ! Sao thế này?

Đột nhiên nghe Tô Tinh Hà kêu lên:- Ai đó? Đứng lại!

Ông ta từ phía đông nam chạy lên nói:

– Có người đứng đằng sau ám toán nhưng thân pháp y nhanh quá, không

nhìn rõ là ai!

Ông giơ tay bắt mạch Huyền Nạn chau mày:

– Huyền Nạn đại sư công lực mất hết rồi, bị người ta đứng bên ám toán,

không có sức kháng cự nên đã viên tịch.

Đột nhiên ông ta nở một nụ cười thần sắc cổ quái. Đầu óc Hư Trúc lúc này

cực kỳ hỗn loạn, chỉ biết vừa khóc vừa kêu:

– Sư bá tổ! Sư bá tổ! Sao… sao… lão nhân gia lại…

Bỗng y nhớ tới nụ cười thần bí của Tô Tinh Hà khi ở trong căn nhà gỗ, giận

dữ hỏi:

– Thông Biện tiên sinh, ông nói thực cho ta nghe, vì cớ gì mà sư bá tổ của

ta lại chết? Có phải do ông có ý hãm hại chăng?

Tô Tinh Hà lập tức hai gối quì xuống nói:

– Khải bẩm chưởng môn nhân, Tô Tinh Hà này quyết không dám đẩy

chưởng môn nhân làm điều bất nghĩa. Huyền Nạn đại sư đột nhiên viên tịch, nhất

định có người lén lút gia hại.

Hư Trúc vặn thêm:

– Thế tại sao ở trong căn nhà gỗ ông lại cười một cách kỳ quặc, thế là vì cớ

gì?

Tô Tinh Hà kinh hoảng đáp:

– Ta cười ư? Ta cười ư? Chưởng môn nhân phải hết sức cẩn thận, có người

Câu nói chưa dứt ông ta bất thần ngừng bặt, trên mặt lại lộ một nụ cười thần

bí. Tiết Mộ Hoa kêu rống lên:

– Sư phụ!

Ông ta vội móc trong túi ra một bình thuốc giải độc, lấy ra ba viên nhét vào

mồm Tô Tinh Hà. Thế nhưng Tô Tinh Hà đã tắt hơi, giải độc hoàn nằm ở trong

miệng nhưng không nuốt xuống được. Tiết Mộ Hoa khóc òa lên:- Sư phụ bị Đinh Xuân Thu hạ độc chết mất rồi, tên ác tặc Đinh Xuân Thu

Tới đây tiếng y nghẹn ngào không ra tiếng nữa. Khang Quảng Lăng chen

lên trước mặt Tô Tinh Hà, Tiết Mộ Hoa vội vàng nắm lưng ông ta kéo lại khóc

nói:

– Trên thân thể sư phụ có chất độc.

Phạm Bách Linh, Cẩu Độc, Ngô lãnh quân, Phùng A Tam, Lý Khổi Lỗi,

Thạch Thanh Lộ đứng bên cạnh Tô Tinh Hà không ai là không vừa tức tối, vừa bi

thương. Khang Quảng Lăng theo học Tô Tinh Hà đã lâu, biết rõ qui củ bản môn,

lúc thấy sư phụ quì trước mặt Hư Trúc, miệng gọi “chưởng môn nhân”, đã đoán

được tám chín phần, bây giờ chú ý nhìn vào bàn tay y thấy Hư Trúc đeo chiếc nhẫn

bảo thạch liền nói:

– Các vị sư đệ cùng ta tham kiến tân nhiệm chưởng môn sư thúc của bản

phái.

Nói xong quì xuống trước mặt Hư Trúc khấu đầu mấy lần. Bọn Phạm Bách

Linh sửng sốt nhưng rồi hiểu ra ngay, ai nấy đều quì lạy. Hư Trúc ruột rối như tơ

vò nói:

– Đinh… Đinh Xuân Thu tên gian tặc thí chủ, giết chết sư bá tổ của ta, lại

hại cả sư phụ các vị.

Khang Quảng Lăng đáp:

– Tru diệt kẻ gian để báo thù toàn do chưởng môn sư thúc chủ trì lo liệu

cho.

Hư Trúc vốn chỉ là một chút tiểu chưa từng từng trải việc đời, cả võ công lẫn

kiến thức, cả danh vị lẫn tiếng tăm những người trước mặt ai ai cũng hơn y nhiều,

trong bụng ý niệm quay cuồng: “Không thể không báo thù cho sư bá tổ, không thể

không báo thù cho Thông Biện tiên sinh, không thể không báo thù cho lão tiền bối

trong ngôi nhà gỗ”. Y miệng kêu lên thành tiếng:

– Không thể không giết Đinh Xuân Thu… tên ác tặc Đinh Xuân Thu… tên

ác tặc thí chủ.

Khang Quảng Lăng lại rập đầu thêm vài lần nữa nói:

– Chưởng môn sư thúc bằng lòng lo việc diệt trừ gian tặc, vì sư phụ chúng

tôi báo thù, bọn sư điệt thâm cảm đại ân đại đức của sư thúc.Bọn Phạm Bách Linh, Tiết Mộ Hoa cũng đều khấu đầu, Hư Trúc vội vàng

quì xuống hoàn lễ nói:

– Không dám! Không dám! Mời các vị đứng lên.

Khang Quảng Lăng nói:

– Sư thúc, tiểu điệt có chuyện cần bẩm báo nhưng nơi đây đông người bất

tiện, xin vào trong nhà chỉ một mình tiểu điệt trình bày cho sư thúc nghe.

Hư Trúc đáp:

– Được!

Y liền đứng lên, mọi người tất cả cùng đứng dậy theo. Hư Trúc đi theo

Khang Quảng Lăng đang toan đi vào trong căn nhà gỗ, Phạm Bách Linh bỗng nói:

– Hãy khoan, sư phụ bị Đinh lão tặc hạ thủ ngay trong nhà này, chưởng

môn sư thúc và đại sư huynh không nên tiến vào, lão tặc đó ngụy kế đa đoan, nên

phòng bị là hơn.

Khang Quảng Lăng gật đầu:

– Nói thế đúng lắm! Cái thân nghìn vàng của chưởng môn sư thúc không

nên mạo hiểm làm gì.

Tiết Mộ Hoa nói:

– Hai vị đứng đây nói chuyện cũng được. Chúng tôi ra bốn bề canh chừng

để đề phòng lão tặc có ngụy kế gì khác chăng?

Nói xong chính mình đi ra trước, những người còn lại Phùng A Tam, Ngô

lãnh quân cả bọn cũng đi ra ngoài mười trượng. Thực ra trong đám đó trừ Tiết Mộ

Hoa ra, những người khác nếu không công lực tiêu tan thì cũng bị trọng thương,

nếu quả Đinh Xuân Thu đến tập kích, ngoài việc kêu la cảnh cáo không còn chút

hơi sức nào mà phòng ngự cả.

Mộ Dung Phục, Đặng Bách Xuyên cùng những người khác thấy thầy trò bọn

họ bàn chuyện riêng của môn phái nên cũng lảng ra xa. Còn bọn Cưu Ma Trí,

Đoàn Diên Khánh thấy chuyện lạ lùng nhưng việc không liên can gì đến mình nên

cũng lần lượt đi khỏi.

Khang Quảng Lăng nói:

– Sư thúc…

Hư Trúc chặn lại:- Ta không phải là sư thúc của ông, cũng chẳng phải chưởng môn nhân của

các ông gì đó, ta là sư chùa Thiếu Lâm, cùng với phái Tiêu Dao không có liên hệ

gì cả.

Khang Quảng Lăng đáp:

– Sao sư thúc lại không nhận? Cái tên phái Tiêu Dao, nếu không phải

người trong bản môn thì không thể để cho người ngoài nghe thấy được. Nếu ai đó

vô tình hữu ý mà lọt vào tai, qui củ của bản môn là phải giết ngay bịt miệng, dù

phải đuổi theo đến tận chân trời góc biển cũng không tha.

Hư Trúc nghe thế nổi da gà, nghĩ thầm: “Cái qui củ đó quả là tà môn. Nếu

như thế, nếu ta không chịu đầu nhập môn phái của bọn họ, bọn chúng liền giết ta

ngay hay sao?”.

Khang Quảng Lăng lại tiếp:

– Sư thúc mới đây trị thương cho mọi người, chính là nội công đích truyền

của bản phái. Việc sư thúc đầu nhập bản phái ra sao, được thái sư phụ tâm truyền

thế nào, tiểu điệt không dám hỏi tới. Cũng có thể là vì sư thúc phá giải được thế cờ

Trân Lung nên sư phụ chúng tôi tuân theo di mệnh của thái sư phụ, thay thầy thu

nhận làm đệ tử và truyền chức vụ chưởng môn chăng, điều đó cũng không biết

nữa. Nói tóm lại, chiếc nhẫn Tiêu Dao Thần Tiên của bản phái đã đeo trên tay sư

thúc rồi, gia sư lúc lâm tử lại khấu đầu trước sư thúc, gọi sư thúc là “chưởng môn

nhân” thì sư thúc không nên từ chối nữa. Đưa qua đẩy lại, chối lên chối xuống

cũng không đâu vào đâu cả.

Hư Trúc đưa mắt nhìn hai bên, thấy bọn Tuệ Phương đang vây quanh thi thể

Huyền Nạn, nhìn qua bên kia thấy xác Tô Tinh Hà vẫn còn quì sừng sững dưới đất,

trên mặt nở một nụ cười thần bí, trong lòng chua xót nói:

– Chuyện này nói một lúc không hết được, hiện nay sư bá tổ của ta chết

rồi, chẳng biết phải làm sao đây, lão tiền bối…

Y vừa mới nói đến đây, Khang Quảng Lăng lại quì mọp xuống. Hư Trúc vội

nói:

– Ấy chết ta quên, không nên gọi ông như thế. Mau đứng lên đi!

Y lấy quyển trục ông lão đưa cho mở ra nói:

– Sư phụ ngươi bảo ta theo quyển trục này tìm cách học võ công để đi tru

diệt Đinh thí chủ.Khang Quảng Lăng liếc qua hình người đàn bà ăn mặc theo lối cung trang,

lắc đầu nói:

– Tiểu điệt không biết sự tình bên trong thế nào, sư thúc nên cất giữ cho kỹ

đừng để người ngoài trông thấy. Nếu khi sư phụ tiểu điệt lúc sinh tiền có nói thế,

xin sư thúc nể mặt người theo đúng lời dặn mà hành sự. Tiểu điệt muốn bẩm lại

cho sư thúc hay, thứ thuốc độc gia sư bị trúng phải gọi là Tam Tiếu Tiêu Dao Tán.

Chất độc này vô hình, một khi trúng rồi, trên mặt hiện ra một nụ cười quái lạ,

người trúng độc không hề hay biết gì cả, cười như thế đến lần thứ ba là tắt thở chết

ngay.

Hư Trúc cúi đầu nói:

– Nói ra thật hổ thẹn, khi tôn sư vừa bị trúng độc trên mặt lộ một nụ cười

kỳ lạ, ta lại có cái bụng tiểu nhân đoán sằng nghĩ bậy tưởng rằng tôn sư không có

thiện ý, nếu như lúc đó thành thực hỏi ngay, lập tức cứu chữa thì đâu có đến nỗi

như thế này.

Khang Quảng Lăng lắc đầu:

– Cái món Tam Tiếu Tiêu Dao Tán trúng phải rồi thì khó mà cứu giải. Một

trong những nguyên nhân Đinh lão tặc sở dĩ hoành hành giang hồ không úy kỵ ai

cả cũng vì có môn thuốc độc này. Người ta chỉ biết đến Hóa Công Đại Pháp của

lão ta cũng chỉ vì người bị trúng phải yêu pháp tuy công lực mất hết nhưng mạng

vẫn còn nên đi loan truyền được, còn người trúng phải Tam Tiếu Tiêu Dao Tán thì

chết rồi là hết.

Hư Trúc gật đầu:

– Môn đó quả tàn độc thật. Khi đó ta cũng đứng ở bên cạnh tôn sư, vậy mà

không sao phát giác được Đinh Xuân Thu hạ thủ cách nào. Ta võ công tầm thường,

kiến thức nông cạn thì đã hẳn rồi nhưng sao Đinh Xuân Thu không ra tay giết ta,

lại để cho ta sống sót?

Khang Quảng Lăng đáp:

– Chắc là y thấy sư thúc tài nghệ kém cỏi, không thèm hạ độc. Chưởng

môn sư thúc, tiểu điệt xem chừng sư thúc tuổi còn nhỏ, làm gì có được bao nhiêu

bản lãnh? Phương pháp trị thương giải độc tuy hay thật đấy nhưng cũng là do gia sư

dạy cho, xem ra cũng chẳng là bao nên Đinh Xuân Thu chẳng coi vào đâu.

Y nói tới đây chợt nghĩ lại mình nói huỵch toẹt ra như vậy không khỏi trắng

trợn vội vàng chữa:- Chưởng môn sư thúc, tiểu điệt nói thế là tình thực, xin sư thúc đừng phật

lòng, thế nhưng nếu như sư thúc bỏ qua cho thì cũng nói thêm rằng võ công sư thúc

xem chừng chẳng lấy gì làm cao minh.

Hư Trúc đáp:

– Ngươi nói mọi việc đúng lắm, võ công ta thật là thấp kém, Đinh lão tặc…

ấy, chết thật, tội quá, tiểu tăng buông lời dữ, phạm vào “ác khẩu giới” mất rồi,

không đáng là đệ tử nhà Phật… gã Đinh Xuân Thu Đinh thí chủ chẳng thèm giết ta

làm chi.

Hư Trúc tâm địa chất phác, còn Khang Quảng Lăng thì không thông chuyện

đời nên cả hai đều không nghĩ ra, Đinh Xuân Thu lẻn được vào trong căn nhà gỗ,

vừa đúng lúc nghe Tô Tinh Hà trình bày những phương pháp trị thương liệu độc, lẽ

nào lại không có ý ám toán Hư Trúc? Cũng nào có phải vì y thấy Hư Trúc võ công

kém cỏi mà tha không giết bao giờ? Môn Tam Tiếu Tiêu Dao Tán phải dùng nội

lực đẩy chất độc ra, bắn vào người đối phương, khi Đinh Xuân Thu ở trong căn nhà

gỗ, chia hai đằng bắn vào Tô Tinh Hà và Hư Trúc, sau đó cũng dùng cách này giết

hại Huyền Nạn.

Tô Tinh Hà sau khi ác chiến uể oải không còn hơi sức đâu nữa còn Huyền

Nạn nội lực mất hết rồi nên đều trúng độc. Riêng Hư Trúc vì có được hơn bảy

mươi năm thần công của phái Tiêu Dao nên nội lực của Đinh Xuân Thu vừa chạm

vào người đã bị phản kích trở lại, bao nhiêu chất độc chạy qua người Tô Tinh Hà

cả, còn mình thì không bị nhiễm chút nào.

Đinh Xuân Thu mỗi khi chính diện đấu với ai không dám sử dụng Tam Tiếu

Tiêu Dao Tán, sợ rằng đối phương nội lực hồn hậu, chất độc lại bắn ngược vào

mình.

Khang Quảng Lăng nói:

– Sư thúc, việc này sư thúc sai quấy hết sức. Phái Tiêu Dao không Phật mà

cũng không Lão, muốn đi đâu thì đi, có phải sung sướng chăng? Sư thúc là chưởng

môn bản phái, trong thiên hạ còn ai quản thúc gì được nữa? Ông mau mau cởi áo

cà sa ra, để tóc dài, lấy mười bảy mười tám cô vợ, việc quái gì mà phải cửa Phật

với lại không cửa Phật, ác khẩu giới với chẳng thiện khẩu giới?

Ông ta cứ nói một câu, Hư Trúc lại giật mình niệm “A Di Đà Phật” đợi khi

nói xong mới đáp:- Ở trước mặt ta chớ có nên nói những lời bổ báng nhà Phật như thế. Ngươi

bảo có việc muốn nói với ta, thế là việc gì?

Khang Quảng Lăng đáp:

– Ối chao, sư thúc xem tôi quả là hồ đồ, nói chuyện hồi lâu vẫn chưa vào

câu chuyện chính. Chưởng môn sư thúc, sau này khi ông tuổi lớn rồi, chớ có bao

giờ đi theo học những tật xấu của bọn tôi. Ấy chết, ấy chết, lại nói dông nói dài,

lạc đề nữa rồi, thất đáng chết. Chưởng môn sư thúc, tôi yêu cầu sư thúc một

chuyện lớn, xin sư thúc nghĩ lại cho.

Hư Trúc đáp:

– Chuyện gì mà phải cần đến tôi chấp nhận, quả không dám.

Khang Quảng Lăng nói:

– Ôi, chuyện đại sự của bản môn, nếu không xin chưởng môn bằng lòng thì

còn cầu ai? Anh em chúng tôi tám người, năm xưa bị sư phụ đuổi ra khỏi môn phái,

nhưng nào có phải vì chúng tôi phạm tội gì đâu, mà vì sư phụ sợ Đinh lão tặc gia

hại, lại không nỡ chọc tai cắt lưỡi chúng tôi nên mới phải đánh bài hạ sách đó.

Đến nay sư phụ đã quyết ý cho chúng tôi trở lại môn phái, có điều chưa bẩm với

chưởng môn, cũng chưa làm đại lễ nên chưa thể chính thức coi là đệ tử thành thử

xin chưởng môn kim ngôn đồng ý. Nếu không tám anh em chúng tôi cho đến chết

cũng vẫn không môn không phái, lang thang cô hồn dã quỉ, trong võ lâm không

sao ngóc đầu lên được, thật khổ sở biết chừng nào.

Hư Trúc nghĩ thầm: “Cái vụ chưởng môn nhân phái Tiêu Dao này ta nhất

quyết không thể nhận được, thế nhưng nếu không đáp lời y, lão già này cứ lầy

nhầy cù cưa, không biết đến bao giờ, chi bằng cứ bằng lòng trước rồi tính sau”. Y

bèn nói:

– Tôn sư nếu đã đồng ý cho các ngươi trùng liệt môn tường thì đương nhiên

đã trở lại môn phái rồi, còn lo gì nữa?

Khang Quảng Lăng mừng rỡ, quay lại kêu to:

– Sư đệ, sư muội, chưởng môn sư thúc đã bằng lòng cho chúng ta trở lại sư

môn rồi.

Bảy người còn lại trong Hàm Cốc bát hữu nghe thấy thế, ai nấy vui mừng,

lập tức người thứ hai mê cờ Phạm Bách Linh, thứ ba đồ gàn Cẩu Độc, thứ tư danh

thủ vẽ vời Ngô lãnh quân, thứ năm Diêm Vương Địch Tiết Mộ Hoa, thứ sáu thợ

khéo Phùng A Tam, thứ bảy thiếu phụ giỏi trồng hoa Thạch Thanh Lộ, thứ támthích hát xướng đóng tuồng Lý Khổi Lỗi, tất cả cùng chạy lại chắp tay cảm tạ

chưởng môn sư thúc, nghĩ đến sư phụ không chính mắt trông thấy tám người trở lại

sư môn, ai nấy ngậm ngùi nhỏ nước mắt.

Hư Trúc vô cùng sượng sùng, thấy mỗi việc lại làm cho cái danh vị “chưởng

môn sư thúc” lún sâu thêm một chút, như đóng đinh vào chân càng lúc càng khó

thoát thân. Mình đang là đệ tử Thiếu Lâm danh môn chính phái, bỗng dưng đi làm

chưởng môn một thứ tà ma ngoại đạo gì đó chẳng phải là cực kỳ vô lý hay sao?

Trước mắt thấy bọn Phạm Bách Linh ai nấy vui mừng đến phát khóc, nếu mình lại

đưa lời dị nghị việc làm “chưởng môn nhân” thì chỉ làm họ mất mặt, không biết

sao hơn đành phải lắc đầu cười gượng.

Y quay đầu lại, thấy bọn Mộ Dung Phục, Đoàn Diên Khánh, Đoàn Dự,

Vương Ngữ Yên, sáu nhà sư chữ Tuệ, đến cả thi thể Huyền Nạn cũng không còn

một ai, trong khu rừng tùng nơi đỉnh núi chỉ còn lại chín người phái Tiêu Dao, bèn

hoảng hốt:

– Ủa, bọ họ đi đâu hết cả rồi?

Ngô lãnh quân đáp:

– Mộ Dung công tử và các cao tăng phái Thiếu Lâm thấy chúng ta đàm

luận không dứt nên đã tự ý bỏ đi rồi.

Hư Trúc kêu lên:

– Ôi chao!

Lập tức đuổi theo bọn Tuệ Phương để cùng trở lại chùa bẩm lại cho phương

trượng và thụ nghiệp sư phụ, trong bụng cảm thấy “quả là may quá”, tiện dịp thoát

ra khỏi bọn người phái Tiêu Dao đang níu kéo.

Y rượt theo đến nửa giờ, càng chạy càng nhanh nhưng không thấy sáu nhà sư

chữ Tuệ đâu. Y đã được ông lão phái Tiêu Dao truyền cho hơn bảy mươi năm thần

công nên chạy nhanh như gió còn hơn cả tuấn mã nên vừa hạ sơn đã vượt qua

những nhà sư Thiếu Lâm rồi. Thế nhưng Hư Trúc lại tưởng bọn Tuệ Phương vẫn

còn ở phía trước nên càng ra sức đuổi theo nào ngờ chỉ trong chớp mắt, ngay tại

khúc quẹo nơi thung lũng khuất nẻo nên không nhìn thấy sáu nhà sư, nhô lên hụp

xuống vài lần đã qua mặt họ xa lắc.

Hư Trúc đuổi một mạch tới tận xế chiều vẫn không thấy tung tích sáu vị sư

bá sư thúc đâu, lấy làm lạ, đoán chừng mình đi nhầm lối nên chạy ngược trở lại haichục dặm, kiếm người đi đường hỏi thăm nhưng chẳng một ai trông thấy sáu vị hòa

thượng cả.

Chạy tới chạy lui như thế nhưng y không thấy mỏi mệt chút nào, thấy trời đã

tối, bụng lại đói meo nên đi tới một quán ăn nơi phố chợ vào gọi hai tô mì chay.

Trong khi chờ đợi chủ quán nấu mì, Hư Trúc không ngừng ngó dáo dác ra ngoài

quán bỗng nghe một giọng trong trẻo nói:

– Hòa thượng đang chờ ai đó?

Hư Trúc quay đầu lại thấy nơi sát cửa sổ phía tây có một thanh niên áo xanh

ngồi đó, mắt sáng mày thanh, da trắng muốt, tướng mạo cực kỳ đẹp đẽ, tuổi chừng

mười bảy mười tám, đang nhìn mình mủm mỉm cười.

Hư Trúc đáp:

– Quả đúng thế! Xin hỏi tiểu tướng công có thấy sáu nhà sư ở đâu không?

Thanh niên kia đáp:

– Không thấy sáu nhà sư đâu cả, chỉ thấy một hòa thượng thôi.

Hư Trúc nói:

– Ồ, một nhà sư ư? Xin hỏi tướng công thấy ở đâu vậy?

Thanh niên đáp:

– Ở ngay trong cái quán này.

Hư Trúc nói:

– Chỉ một nhà sư thì không phải nhóm Tuệ Phương sư bá rồi. Thế nhưng đã

là tăng nhân may ra cũng hỏi thăm được chút tin tức.

Y bèn hỏi:

– Xin hỏi tướng công, hòa thượng đó hình dáng ra sao? Tuổi tác lớn hay

nhỏ? Đi về hướng nào?

Thanh niên kia mỉm cười:

– Nhà sư đó trán rộng tai to, mồm rộng môi dày, mũi huếch lên trời, tuổi

chừng hăm ba hăm bốn, y đang ngồi trong quán này chờ ăn hai tô mì, chưa đi đâu

cả.

Hư Trúc cười ha hả nói:

– Hóa ra tiểu tướng công nói đến chính là ta.

Thanh niên kia đáp:- Tướng công thì là tướng công, hà tất lại thêm một chữ “tiểu” vào? Ta gọi

ông là “hòa thượng” chứ nào có gọi là “tiểu hòa thượng” đâu?

Thanh niên đó giọng nói dịu dàng, thật là dễ nghe. Hư Trúc đáp:

– Quả thế, vậy thì gọi là tướng công vậy.

Còn đang nói chuyện, hầu bàn đã bưng ra hai tô mì chay. Hư Trúc nói:

– Tướng công, tiểu tăng xin phép ăn mì.

Thanh niên đáp:

– Toàn rau với nấm, chẳng có mỡ màng gì, ăn có gì ngon? Mau lại bên ta,

ta mời ngươi ăn thịt nạc, ăn gà quay.

Hư Trúc đáp:

– Tội nghiệp! Tội nghiệp! Tiểu tăng cả đời không ăn đồ mặn, xin tướng

công cứ tự tiện.

Nói xong quay lại cúi xuống ăn mì, cái cảnh thanh niên kia ăn thịt ăn gà y

cũng không muốn nhìn thêm nữa. Y bụng đói cồn cào, chỉ giây lát đã ăn hết hơn

nửa tô, bỗng nghe thanh niên kia kêu lên:

– Ủa, cái gì thế này?

Hư Trúc quay đầu lại thấy thanh niên kia tay cầm cái thìa đựng đầy canh

đang toan đưa vào mồm, đột nhiêng ngừng lại dường như nhìn ra vật gì kỳ lạ, cái

muỗng còn cách miệng chừng nửa thước thì ngừng lại, tay trái cầm một vật gì đó

trên bàn. Thanh niên đó đứng lên, tay phải nhón lấy vật kia đi đến bên cạnh Hư

Trúc hỏi:

– Hòa thượng nhìn con trùng này có lạ không?

Hư Trúc thấy y cầm trong tay là một con bọ nhỏ màu đen, loại cánh cam

cánh quýt đó thì đâu chẳng có, không lạ lùng gì, liền hỏi:

– Lạ ở chỗ nào?

Thanh niên kia đáp:

– Ngươi coi con trùng này có vỏ cứng, đen nhánh bóng loáng trông tưởng

như quết dầu không bằng.

Hư Trúc đáp:

– Ồ, con cánh cam nào chẳng vậy.

Thanh niên hỏi:- Vậy sao?

Y vứt con cánh cam xuống đất, giơ chân di cho chết rồi quay lại chỗ ngồi.

Hư Trúc thở dài:

– Tội nghiệp! Tội nghiệp!

Y quay lại ăn nốt bát mì. Cả ngày hôm nay y chưa ăn gì cả, thấy bát mì này

thật là ngon, đến nước dùng cũng húp sạch tận đáy rồi lấy tô thứ hai cầm đũa định

ăn, bỗng nghe thanh niên kia cười sằng sặc nói:

– Hòa thượng, ngươi mồm thì leo lẻo nghiêm thủ thanh qui giới luật, hóa ra

cũng chỉ thuộc loại giả vờ, nói một đằng làm một nẻo.

Hư Trúc đáp:

– Ta làm gì mà nói một đằng làm một nẻo?

Thanh niên nói:

– Ngươi bảo là một đời không ăn mặn, thế cái bát mì nước gà, sao lại húp

sùm sụp thế là sao?

Hư Trúc nói:

– Tướng công chớ nói đùa. Đây rõ ràng là mì chay với rau cải, nấm hương,

làm gì có nước gà? Ta đã dặn kỹ hầu bàn, đừng có cho một tí dầu mỡ nào.

Thanh niên kia mỉm cười:

– Mồm ngươi bảo không đụng vào đồ tanh đồ mặn, vậy mà húp nước thang

gà thì soạp soạp chắc lưỡi, ngon ngọt chẳng biết là chừng nào. Này hòa thượng, để

ta cho thêm một muỗng thang gà vào tô mì này nhé?

Y vừa nói vừa đưa muỗng vào trong bát gà quay lênh láng mỡ màng, múc ra

một thìa đứng lên. Hư Trúc kinh hãi không sao kể xiết, ấp úng:

– Ngươi… ngươi… vừa mới… đã…

Thanh niên kia cười nói:

– Đúng đó! Ta vừa mới bỏ vào bát mì của nhà ngươi một muỗng canh gà,

không lẽ ngươi không nhìn thấy? Chao ôi, này nhà sư ơi, ngươi mau mau nhắm mắt

lại giả vờ không nhìn thấy, ta lại đổ cho một muỗng canh gà vào bát mì, ăn cho

ngon, miễn là không phải chính ngươi đổ vào, Phật tổ Như Lai sẽ không trách cứ gì

đâu.

Hư Trúc vừa sợ vừa tức, bấy giờ mới biết y đem con cánh cam sang cho

mình coi, chẳng qua chỉ dương đông kích tây, khiến cho mình chú ý đến chỗ khácrồi thừa cơ đổ muỗng canh gà vào bát mì, thảo nào khi ăn thấy thơm ngon lạ

thường, chỉ vì cả đời chưa từng nếm qua nên không biết. Bây giờ canh gà đã nuốt

vào bụng thì làm sao đây? Có nên ói ra hay không? Y nhất thời bàng hoàng chẳng

biết thế nào cho phải.

Thanh niên kia bỗng nói:

– Này hòa thượng, ngươi muốn đi tìm sáu nhà sư, có phải họ đang đến

không kìa?

Y vừa nói vừa chỉ ra ngoài. Hư Trúc mừng quá, chạy vội ra cửa, nhìn dáo

dác ra đường nhưng nào có thấy ai đâu. Y biết lại bị gã thanh niên đánh lừa, trong

bụng bực bội, có điều người xuất gia không được giận hờn nên cố nhịn, không nói

một lời quay lại tiếp tục ăn mì. Hư Trúc nghĩ thầm: “Vị tiểu tướng công này tuổi

chẳng bao nhiêu, sao lại cứ nhắm mình mà chơi ác thế này?⬙. Nghĩ rồi y cầm đũa

lên, ăn như rồng cuốn ngay hết nửa bát, đột nhiên kẽ răng cắn trúng cái gì trơn

tuột, kinh hãi vội vàng nhìn vào, thấy trong bát mì có một miếng thịt to béo ngậy,

một nửa đã bị cắn mất rồi, hiển nhiên mình đã nuốt vào bụng. Hư Trúc buông đũa

xuống bàn, kêu lên:

– Khổ quá! Khổ quá!

Gã thanh niên kia cười hỏi:

– Này hòa thượng, miếng thịt mỡ ăn có ngon không? Sao lại kêu khổ?

Hư Trúc giận dữ nói:

– Ngươi đánh lừa cho ta chạy ra ngoài cửa rồi bỏ miếng thịt vào bát mì. Ta

… ta… suốt hai mươi ba năm nay, chưa từng nếm đồ mặn, ta… ta… bị ngươi hủy

hoại mất rồi.

Thanh niên kia mỉm cười nói:

– Thế miếng thịt béo kia chẳng ngon gấp mười rau cải, đậu phụ hay sao?

Ngươi trước nay không ăn thì quả thật ngu hết chỗ nói.

Hư Trúc mặt mày thiểu não đứng lên, giơ tay nắn yết hầu, ruột rối như tơ vò,

bỗng nghe bên ngoài có tiếng người huyên náo, một đám đông người đi về phía

quán. Y vừa nhìn qua, tưởng ai hóa ra chính là đám đệ tử phái Tinh Tú, trong lòng

kêu thầm: “Ối chao, hỏng rồi, bị Tinh Tú Lão Quái bắt được chết là cái chắc!”. Y

vội vàng chạy ra đằng sau, định đào tẩu, nào ngờ vừa đẩy cửa bước vào, đó là một

căn phòng ngủ. Hư Trúc đang định lùi ra, bỗng nghe đằng sau có tiếng người nói:- Điếm gia, điếm gia! Mau đem rượu thịt ra đây!

Chính là đám đệ tử Tinh Tú đã vào trong khách đường. Hư Trúc không dám

lùi trở lại, đành nhẹ nhàng đóng cửa lại. Bỗng nghe tiếng người nói:

– Kiếm chỗ nào cho gã sư mập kia nằm ngủ.

Chính là tiếng của Đinh Xuân Thu. Một tên đệ tử phái Tinh Tú liền đáp:

– Vâng!

Có tiếng bước chân nặng nề đi về phía bên ngoài cửa phòng. Hư Trúc kinh

hãi, không còn cách nào khác bèn cúi xuống chui tọt vào gầm giường. Đầu y chui

vào rồi, đụng ngay phải vật gì đó, rồi có tiếng người khẽ kêu “A” hóa ra dưới gầm

giường đã có ai trốn dưới đó. Hư Trúc cũng hoảng hốt, toan lùi trở ra thì tên đệ tử

phái Tinh Tú đã bế Tuệ Tịnh tiến vào, để y lên giường rồi đi ra.

Chỉ nghe người ở bên cạnh ghé tai y nói nhỏ:

– Này hòa thượng, thịt mỡ ngon quá nhỉ? Ngươi sợ cái gì?

Thì ra đó chính là thanh niên tướng công. Hư Trúc nghĩ thầm: “Ngươi tay

chân quả là nhanh nhẹn, đã chui vào trốn dưới gầm giường trước cả ta”. Y cũng

nói nhỏ:

– Bên ngoài kia là một bầy đại ác nhân, tướng công chớ có nói năng gì cả.

Thanh niên kia hỏi lại:

– Sao ngươi lại biết bọn họ là đại ác nhân?

Hư Trúc đáp:

– Ta nhận ra họ, bọn người này giết người không nháy mắt, không phải

chuyện chơi đâu.

Thanh niên kia vừa toan bảo y đừng nói gì nữa thì gã Tuệ Tịnh đang nằm

trên giường đột nhiên kêu toáng lên:

– Có người dưới gầm giường! Có người dưới gầm giường!

Hư Trúc và thanh niên kia sợ quá, vội vàng chui ra. Chỉ thấy Đinh Xuân Thu

đứng ngay tại ngạch cửa, cười khẩy, khuôn mặt vô cùng đắc ý, đầy vẻ độc ác.

Thanh niên kia sợ đến mặt xanh như tàu lá, quì xuống run run kêu lên:

– Sư phụ!

Đinh Xuân Thu cười nói:

– Hay lắm! Hay lắm! Đưa ra đây!Thanh niên kia đáp:

– Đệ tử không mang theo.

Đinh Xuân Thu hỏi:

– Thế ở đâu?

Thanh niên đáp:

– Tại thành Nam Kinh nước Liêu.

Đinh Xuân Thu mắt lộ hung quang, gằn giọng hỏi lại:

– Đến nước này mà ngươi còn định lừa ta nữa sao? Ta sẽ cho ngươi sống

không xong, chết không được.

Thanh niên nói:

– Đệ tử không dám nói láo với sư phụ.

Đinh Xuân Thu đưa mắt liếc qua Hư Trúc, hỏi thanh niên kia:

– Sao ngươi lại đi cùng với y?

Thanh niên đáp:

– Đệ tử mới gặp y nơi quán này thôi.

Đinh Xuân Thu hừ một tiếng nói:

– Láo toét! Láo toét!

Y hầm hầm nhìn hai người một hồi, quay ra. Bốn tên đệ tử phái Tinh Tú liền

xông vào phòng vây hai người lại. Hư Trúc vừa kinh hãi vừa tức tối nói:

– Thì ra ngươi cũng là đệ tử phái Tinh Tú.

Thanh niên kia dậm chân, hậm hực nói:

– Cũng tại ngươi tên hòa thượng thối tha mà ra, còn trách gì ta nữa?

Một tên đệ tử phái Tinh Tú chào:

– Đại sư tỉ, từ đó tới nay vẫn khỏe chứ?

Giọng nói đầy vẻ hạnh tai lạc họa, cực kỳ khinh bạc. Hư Trúc lạ lùng:

– Cái gì? Ngươi… ngươi…

Thanh niên kia hứ một tiếng nói:

– Đồ sư ngốc nghếch, đồ sư thối tha! Ta đương nhiên là con gái, không lẽ

ngươi nhìn không ra sao?Hư Trúc nghĩ thầm: “Thì ra vị tiểu tướng công này là đàn bà, mà lại là đệ tử

phái Tinh Tú, không những là đệ tử phái Tinh Tú, mà lại còn là đại sư tỉ của bọn

họ. Chao ôi không xong rồi, cô ta cho ta húp canh gà, lại ăn thịt mỡ, e rằng trúng

độc mất thôi”.

Thanh niên đó dĩ nhiên là A Tử cải trang. Nàng ở Nam Kinh nước Liêu tuy

hưởng đủ mọi cảnh vinh hoa phú quí nhưng bình sinh hiếu động, lâu ngày chán

ngấy. Tiêu Phong việc công bề bộn, làm gì có thì giờ ngày ngày đưa nàng đi săn,

đi chơi. Một hôm trong lòng bực bội, nàng một mình ra ngoài du ngoạn, cũng định

đến tối sẽ về, ngờ đâu gặp phải một trò vui, đuổi theo một người, nhưng càng đuổi

càng mịt mù, sau cùng phóng độc giết được y thì cách thành Nam Kinh đã xa,

thuận bước đi vào Trung Nguyên. Nàng đi lang thang, cũng khéo làm sao hôm đó

lại gặp ngay Hư Trúc lẫn thầy trò Đinh Xuân Thu.

Nàng dụ cho Hư Trúc phá giới ăn mặn, chẳng qua tính tình quái ác rắn mắt,

nhất thời cao hứng cốt sao người khác đau khổ phiền não là nàng khoái chí chứ có

ý gì đâu.

A Tử vẫn tưởng sư phụ chỉ ở bờ biển Tinh Tú hưởng nhàn, chẳng khi nào lại

đến Trung Nguyên, ngờ đâu oan gia ma đưa lối quỉ đưa đường, ở cái quán nhỏ này

lại gặp nhau. Nàng sợ đến mất cả hồn vía, lớn tiếng mắng mỏ Hư Trúc chẳng qua

chỉ để ra vẻ ta đây nhưng tiếng nói đã run lập cập, cố gắng trấn tĩnh cũng không

đến đâu, trong bụng cấp tốc tính toán một kế hoạch thoát thân: “Cứ như hôm nay

chỉ còn cách đánh lừa sư phụ đến Nam Kinh, mượn tay tỉ phu giết quách lão đi, đó

là đường sống duy nhất. Ngoại trừ tỉ phu ra, chẳng một ai đánh được ông ta. Cũng

may Thần Mộc Vương Đỉnh ta để lại Nam Kinh, sư phụ không thể không đi tìm để

lấy lại chiếc đỉnh đó”.

Nàng nghĩ đến đó, thấy an tâm hơn nhưng lại chợt nghĩ: “Thế như nếu như

sư phụ trước hết đánh cho ta tàn phế, tiêu hủy võ công của ta sau đó mới áp giải về

Nam Kinh, cái cảnh khổ sở đó, so với chết ngay bây giờ còn khó chịu hơn”. Nghĩ

đến đó mặt nàng tái mét cắt không còn giọt máu.

Ngay lúc đó, một tên đệ tử phái Tinh Tú đi đến trước cửa phòng, cười hinh

hích nói:

– Đại sư tỉ, sư phụ cho mời.A Tử nghe thấy sư phụ gọi ra, thật chẳng khác gì con chuột bị con mèo kêu

đến, sợ đến xương cốt tưởng như sụm xuống, nhưng biết có trốn cũng không xong

chỉ đành theo tên đệ tử kia ra ngoài đại đường.

Đinh Xuân Thu ngồi một mình một bàn riêng, trên bàn rượu thịt ê hề, còn

bọn đệ tử thì xuôi tay đứng hầu ở xa xa, hết sức cung kính, không ai dám thở

mạnh. A Tử đi ra đến nơi cất tiếng chào:

– Sư phụ!

Đinh Xuân Thu hỏi:

– Thế quả thật ở nơi đâu?

A Tử nói:

– Không dám dấu sư phụ, đúng là ở thành Nam Kinh nước Liêu.

Đinh Xuân Thu hỏi thêm:

– Thế nơi nào ở thành Nam Kinh?

A Tử đáp:

– Trong phủ Nam Viện Tiêu Đại Vương nước Liêu.

Đinh Xuân Thu cau mặt gằn giọng hỏi:

– Vì cớ nào mà rơi vào tay tên Liêu cẩu Khất Đan đó?

A Tử nói:

– Không phải rơi vào tay y. Đệ tử khi lên đến biên giới phương Bắc, e ngại

làm mất bảo vật của sư phụ, lại sợ lỡ tay làm hư, thành thử len lén vào trong hoa

viên vương phủ Tiêu đại vương, đào lỗ chôn nơi đó. Nơi đó cực kỳ kín đáo, hoa

viên của vương phủ rộng đến hơn sáu nghìn mẫu, ngoại trừ đệ tử ra, không một ai

có thể tìm ra được chiếc vương đỉnh đó đâu, sư phụ cứ yên chí.

Đinh Xuân Thu cười nhạt nói:

– Chỉ có mình ngươi biết được thôi. Hừ, con nhãi kia, ngươi kể cũng gớm

lắm, ngươi tưởng rằng ta ném chuột sợ vỡ đồ, không dám giết ngươi chứ gì? Ngươi

bảo là giết ngươi rồi không thể nào tìm ra chiếc đỉnh nữa, phải không?

A Tử run bắn người lên, lập cập đáp:

– Nếu như sư phụ không tha cho đệ tử cái tội cứng đầu nghịch ngợm, tiêu

trừ công lực, cắt đứt cân mạch, hay chặt chân chặt tay thì đệ tử thà chết ngay tại

đây chứ nhất quyết không thổ lộ chiếc vương đỉnh… chiếc vương đỉnh… đó ở đâu.Nói đến câu sau cùng, trong bụng sợ hãi lắm, lắp bắp không ra lời. Đinh

Xuân Thu mỉm cười nói:

– Con oắt kia, ngươi lại dám cả gan bắt thóp ta ư? Môn hạ phái Tinh Tú có

ngươi gớm thật, cả đến ta cũng bị mắc lỡm, Tinh Tú lão tiên này quả là không có

mắt.

Một tên đệ tử đột nhiên lớn tiếng nói:

– Tinh Tú lão tiên nhìn thấu suốt quá khứ vị lai, biết cái số kiếp Thần Mộc

Vương Đỉnh nó phải thế, nên mới giả vờ cho A Tử lấy được để cho bảo cụ này trải

qua gian hiểm, có dịp mài giũa thêm khiến cho bảo đỉnh càng thêm pháp lực.

Một tên đệ tử khác lại chõ vào:

– Mọi việc trong thiên hạ, có cái nào không nằm trong thần cơ diệu toán

của lão tiên? Lão tiên khiêm tốn mà nói thế, chúng đệ tử chẳng nên coi là thật.

Lại một tên đệ tử khác tiếp lời:

– Tinh Tú lão tiên hôm nay mới giở chút kỹ xảo con con, đã giết chết cao

thủ phái Thiếu Lâm là Huyền Nạn, tru diệt thầy trò Lung Á lão nhân mấy chục

người, cổ vãng kim lại, thật Đại La Kim Tiên cũng chưa bằng? Tiểu A Tử! Dù

ngươi có giảo hoạt cách nào, cũng làm sao chạy cho thoát bàn tay của Tinh Tú lão

tiên? Dù cứng đầu chống trả hay van lạy xin tha thì cũng đều vô ích.

Đinh Xuân Thu mỉm cười gật gù, vuốt râu ngồi nghe. Hư Trúc đứng trong

ngọa thất, nghe rõ ràng từng chữ, nghĩ thầm: “Sư bá tổ và Thông Biện tiên sinh

quả nhiên bị Đinh thí chủ giết hại. Ôi, nói gì đến báo thù rửa hận, đến cái mạng

cỏn con của mình đã chắc gì còn”.

Quần đệ tử phái Tinh Tú kẻ một câu, người một lời, ai nấy khuyên A Tử

mau mau nghe lời, khai rõ ra, trong ngôn từ dọa nạt thì quá nửa là tuyên dương oai

đức Tinh Tú lão tiên, cứ một câu nói với A Tử thì kèm theo ba câu ca công tụng

đức Đinh Xuân Thu.

Đinh Xuân Thu bình sinh có cái tật là thích nghe người khác tâng bốc mình,

càng đưa lão lên, lão càng khoái trí, được đám đệ tử nịnh hót mấy chục năm đã

quen nên tưởng rằng câu nào câu nấy đều là thật. Nếu như có ai không đưa lão lên

tận mây xanh thì cho rằng kẻ đó thiếu dạ trung thành. Bọn đệ tử hiểu rõ tính khí

đó nên mỗi khi có cơ hội là ai nấy đều hết sức đánh trống thổi kèn, nịnh bợ hết

mực, chỉ sợ mình ca tụng chưa đủ, khiến sư phụ không vui thì tính mạng sẽ như chỉ

mành treo chuông, lúc nào cũng lo ngay ngáy.Đám đệ tử phái Tinh Tú không phải ai cũng mặt dày mày dạn vô liêm sỉ, có

điều ở vào thế chẳng đặng đừng, không thế thì khó mà tồn tại, hơn nữa năm này

tháng nọ dần dần thành quen, lời tâng bốc thuận miệng tuôn ra, chẳng ai còn coi là

điều đáng hổ thẹn nữa.

Đinh Xuân Thu vuốt râu mỉm cười, hai mắt hấp him, lắng nghe bọn đệ tử ca

tụng, đầu óc lâng lâng như người say. Hàm râu dài của lão khi đấu phép với sư

huynh Tô Tinh Hà đã bị cháy mất một phần lớn, chỉ còn loe hoe một dúm, về sau

lão lén phóng chất kịch độc Tam Tiếu Tiêu Dao Tán giết được Tô Tinh Hà, trận

đó kể như thắng, nên có bị mất chòm râu cũng không đến nỗi nào.

Y trong bụng ngầm tính: “Con tiểu a đầu này hôm nay khó mà thoát được

bàn tay lão tiên, còn chú tiểu trong phòng kia thì phải từ từ tính lại. Tam Tiếu Tiêu

Dao Tán không giết được nó, hay là mình dùng Hủ Thi Độc, hoặc Hóa Công Đại

Pháp, tùy cơ mà hành sự. Thế là Tiêu Dao Thần Tiên Hoàn rơi vào tay mình, thật

hên quá sức! Sướng quá!”.

Phải đến thời gian một bữa ăn, tiếng ca công tụng đức của đám đệ tử thưa

dần, chỉ những kẻ trường thiên đại luận còn đang lải nhải, Đinh Xuân Thu bèn giơ

tay lên, tiếng liền im bặt, tất cả đồng thanh nói:

– Công đức sư phụ bao trùm trời đất, chúng con ngu si, một vạn phần không

phô ra được một.

Đinh Xuân Thu mỉm cười gật đầu, quay sang A Tử hỏi:

– A Tử, ngươi còn gì để nói nữa không?

A Tử tâm niệm chợt động: “Trước đây sư phụ cưng chiều mình, cũng bởi vì

mình tâng bốc có chỗ đặc biệt không giống kẻ khác, chẳng phải như bọn ngốc này,

nói tới nói lui, cả trăm năm cũng chỉ có bao nhiêu đó”. Nàng bèn nói:

– Sư phụ, đệ tử sở dĩ lén ăm trộm Thần Mộc Vương Đỉnh đem ra ngoài

chơi, cũng có lý do.

Đinh Xuân Thu trừng mắt hỏi lại:

– Có lý do là sao?

A Tử đáp:

– Khi sư phụ còn trẻ, công lực chưa đạt đến chỗ đăng phong tạo cực như

bây giờ, tu tập mới cần phải cần vương đỉnh để trợ giúp cho việc luyện công. Thế

nhưng những năm gần đây, hễ ai có mắt nhìn cũng đều biết sư phụ đã đến mứcthông thiên triệt địa, cái vương đỉnh kia chỉ dùng để dụ độc vật, so với thành tựu

của sư phụ thật khác gì đom đóm sánh với mặt trăng mặt trời, làm sao bì được. Sư

phụ sở dĩ chưa vứt cái mộc đỉnh đó đi, chẳng qua cũng vì nghĩ đến món đồ cũ

không nỡ bỏ đấy thôi. Chúng sư đệ la lối om sòm, cứ làm như sư phụ không có

vương đỉnh đó không được, cho là bản môn trọng bảo mất đi thì chuyện không phải

nhỏ, quả thực ngu xuẩn biết mấy, có khác gì coi thần thông của sư phụ không vào

đâu.

Đinh Xuân Thu liên tiếp gật gù:

– Hừm, hừm, nói nghe có lý lắm! Nói nghe có lý lắm!

A Tử lại tiếp:

– Đệ tử thiển nghĩ, võ công phái Tinh Tú chúng ta cao cường là dường nào,

không môn phái trên đời này theo kịp được, có điều sư phụ đại nhân đại lượng,

chẳng thèm chấp bọn nhân sĩ võ lâm nên không chịu dời gót ngọc đến Trung

Nguyên dạy cho bọn ếch ngồi đáy giếng kia một trận. Trong võ lâm lắm kẻ cuồng

vọng tự tôn, biết chắc sư phụ chẳng thèm ganh đua với chúng làm gì cho mệt nên

huênh hoang hợm hĩnh, đứa nào cũng xưng hùng xưng bá, kẻ thì cho mình đương

thế cao nhân, kẻ khác tự phong danh gia võ học.

Thế nhưng mồm thì khoe mình vang trời dậy đất, nhưng có đứa nào dám vác

mặt tới biển Tinh Tú lãnh giáo sư phụ vài chiêu. Kẻ học võ trong thiên hạ, ai mà

chẳng biết sư phụ võ công cao thâm khôn lường, thế nhưng quanh đi quẩn lại cũng

cứ bốn chữ “thâm bất khả trắc”, ví như hỏi rằng cao siêu tới đâu, thì có đứa nào

nói được?

Cho đến lúc này, Mộ Dung Cô Tô tiếng nổi như cồn, Hà Nam Thiếu Lâm

cũng xưng mình Thái Sơn Bắc Đẩu, thậm chí đến cái gì Lung Á tiên sinh, cái gì

Đoàn gia Đại Lý cũng thành những nhân vật kiệt hiệt. Sư phụ nghĩ xem thế có nực

cười không?

Tiếng nào trong trẻo, ỏn thót bên tai, câu nào câu nấy như xoáy vào tim

Đinh Xuân Thu, so với các đệ tử khác lớn tiếng tung hô ca tụng dễ nghe hơn nhiều.

Đinh Xuân Thu càng lúc càng phởn phơ, mắt híp lại chỉ còn là một đường nhỏ như

sợi chỉ, không ngớt gục gặc đầu, mười phần đắc ý.

A Tử lại tiếp:

– Thành ra đệ tử nổi tính trẻ con, nghĩ bụng sư phụ mình thần thông như

thế, nếu không đến Trung Nguyên lộ chút thân thủ cho bọn giun dế kia được dịpmở mắt, thì sao chúng biết được rằng thiên ngoại hữu thiên, nhân thượng hữu

nhân? Do đó mới bày ra một kế mời sư phụ đến Trung Nguyên, cho bọn nhãi nhép

kia biết thế nào là trời cao đất dày. Thế nhưng cung thỉnh sư phụ một cách bình

thường thì xoàng xĩnh quá, không xứng với thân phận một đệ nhất cao nhân, cổ

vãng kim lai như lão nhân gia. Thân phận sư phụ không giống người khác, cung

thỉnh sư phụ đến Trung Nguyên cũng phải khác người. Thành thử đệ tử mới mượn

chiếc vương đỉnh, cốt chỉ để mời được đại giá của lão nhân gia đấy thôi.

Đinh Xuân Thu bật cười ha hả hỏi:

– Nếu nói thế, ngươi lấy chiếc vương đỉnh thì chỉ vì lòng hiếu kính hay sao?

A Tử đáp:

– Lẽ nào không phải? Thế nhưng đệ tử ngoài hiếu tâm, thực ra lại cũng có

chút tư tâm.

Đinh Xuân Thu chau mày hỏi:

– Tư tâm thế nào?

A Tử mỉm cười đáp:

– Xin sư phụ đừng trách. Đệ tử nghĩ mình là môn đồ phái Tinh Tú, cũng

mong bản phái uy chấn thiên hạ để khi hành tẩu giang hồ, người người kính trọng,

như thế có nở mày nở mặt hơn chăng? Đó chính là cái tư tâm nhỏ mọn của đệ tử.

Đinh Xuân Thu lại cười khà khà nói:

– Nói nghe được lắm! Nói nghe được lắm! Ta có bao nhiêu là đệ tử, vậy

mà có đứa nào tâm cơ linh mẫn được như ngươi đâu. Thì ra ngươi ăn trộm Thần

Mộc Vương Đỉnh, là chỉ vì muốn ta dương oai đấy thôi. Ha ha, một đứa mồm

miệng lanh lợi như ngươi, giết đi thật uổng, bên mình thiếu đi một kẻ nói chuyện

cho đỡ buồn, thế nhưng nếu ta phủi tay không tra xét…

A Tử vội vàng cướp lời:

– Tuy thế quá ư là tiện nghi cho đệ tử nhưng bản môn từ trên xuống dưới ai

ai chẳng cảm kích lòng khoan hồng độ lượng của sư phụ? Từ nay trở đi sẽ vì sư

môn mà tận tâm kiệt lực, tan xương nát thịt mới thôi.

Đinh Xuân Thu đáp:

– Những lời của ngươi đem ra đánh lừa người khác thì may ra còn được, còn

như với ta, thì có khác gì bảo ta là một lão già mê muội hay sao? Ngươi tâm tư quả

là đại bất thiện. Hừ, ngươi nói nếu ta phế công lực, chấn đoạn kinh mạch… Vừa nói tới đây, bỗng có một giọng vang vang nói:

– Điếm gia, dọn chỗ cho ta.

Đinh Xuân Thu liếc mắt nhìn ra, thấy một thanh niên công tử mặc áo dài

màu vàng, hông đeo trường kiếm, ngồi ngay ở bàn bên cạnh, chẳng biết vào quán

từ lúc nào. Người đó chính là Mộ Dung Phục mình mới gặp nơi hội cờ lúc ban

ngày, đã thi triển tà thuật gia hại nhưng không thành công. Đinh Xuân Thu vừa rồi

lắng tai nghe A Tử nói, lòng lâng lâng như đi mây về gió vào nơi cực lạc, mặt khác

lắng nghe xem Hư Trúc ở trong phòng động tĩnh ra sao, sợ y vượt tường chạy mất

khiến cho trong quán có thêm một người mà cũng không hay, quả là sơ xuất đến

cùng cực. Nếu như Mộ Dung Phục vừa đến đã ra tay ám toán, e rằng sẽ bị hố to. Y

kinh hãi mặt mày biến sắc nhưng lập tức trấn tĩnh lại ngay.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.