Thiên Long Bát Bộ (Bản Mới)

Chương 65 - Nại Thiên Hôn Địa Ám Đẩu Chuyển Tinh Di

trước
tiếp

Than ôi vật đổi sao dời,

Trời sầu đất thảm một đời bỏ đi.

*

* *

Mộ Dung Phục giơ tay chào Đinh Xuân Thu, miệng nói:

– Xin chào! Cuộc đời quả có duyên thì ở đâu cũng gặp, vừa mới chia tay

đã lại thấy nhau rồi.

Đinh Xuân Thu cười nói:

– Quả là cùng công tử có duyên với nhau thật!

Y nghĩ thầm: “Ta đã đả thương mấy viên đại tướng thủ hạ của y, hôm nay

ở trong cuộc cờ lại xúc xiểm khiến y suýt nữa thì bỏ mạng, gã này đâu có thể

nào bỏ qua cho ta? Ta từng nghe họ Cô Tô Mộ Dung võ công cực kỳ uyên

bác, cái ngón “dĩ bỉ chi đạo hoàn thi bỉ thân”, trong võ lâm ai cũng nói chắc

như cua gạch, chắc hẳn không phải hư ngôn, xem công phu y ném quân cờ

quả cũng khá lắm. Khi y mải mê xem cờ bị ta dẫn vào ma chướng, đúng là cơ

hội bằng vàng để trừ đi ngờ đâu lại bị người ta cứu. Xem ra tiểu tử này võ

công cao siêu thật nhưng những pháp thuật khác thì chẳng biết gì”.

Đinh Xuân Thu quay lại nói với A Tử:

– Ngươi nói nếu như ta phế hết võ công, cắt đứt cân mạch, chặt chân chặt

tay ngươi, ngươi thà chết ngay chứ nhất định không thổ lộ nơi giấu vương đỉnh,

có phải thế không?

A Tử cực kỳ kinh hãi, run run đáp:- Sư phụ khoan hồng đại lượng, chẳng nên… chẳng nên… chẳng nên để

bụng… để bụng những lời nói nhăng nói xàm của đệ tử.

Mộ Dung Phục cười nói:

– Đinh tiên sinh, ông tuổi tác đã cao, chấp nhất làm gì với một đứa trẻ

con? Mau lại đây, hai người mình cạn với nhau ba chén, đàm văn luận võ có

phải thú không nào? Thanh lý môn hộ trước mặt người ngoài chẳng khiến

mình nhẹ thể lắm sao?

Đinh Xuân Thu chưa kịp trả lời thì một tên đệ tử phái Tinh Tú đã bực bội

quát lên:

– Cái thứ ngươi thật chẳng biết trên biết dưới, sư phụ ta là võ lâm chí tôn,

lẽ nào lại thèm đàm văn luận võ với thứ hậu sinh tiểu tử như ngươi? Ngươi có

tư cách gì mà đòi nói chuyện tay đôi với thầy ta?

Lại thêm một gã khác phụ họa:

– Nếu như ngươi cực kỳ cung kính khấu đầu thỉnh giáo, Tinh Tú lão tiên

có bụng dẫn dắt bọn hậu sinh, không chừng chỉ cho đôi ba miếng. Chứ còn

như ngươi đòi đàm luận với lão tiên, ha ha, thật nực cười đến sái quai hàm

mất? Ha ha!

Y mới cười được hai tiếng, vẻ mặt bỗng dưng thật là kỳ quái, một lát sau

lại cười khan ha ha lần nữa, cười xong liền há hốc mồm, nhưng hoàn toàn

không có tiếng nào phát ra, trên mặt nhuốm một màu ngụy bí, nụ cười đầy vẻ

hoạt kê.

Bọn đệ tử phái Tinh Tú ai cũng lấm lét nhìn kẻ đồng môn cười xong ba

tiếng rồi tắt thở biết y trúng phải Tam Tiếu Tiêu Dao Tán, người nào người

nấy hoảng vía, không dám thở mạnh, cúi gầm mặt xuống không dám chạm

vào ánh mắt Đinh Xuân Thu, nghĩ bụng: “Câu nói của y không biết làm phật

lòng sư phụ ra sao để đến nỗi người dùng thủ đoạn tàn độc giết ngay như thế?

Mình phải ngẫm nghĩ cho kỹ xem câu nói đó sai sót chỗ nào, chớ có đi vào

vết xe đổ đó nữa”.

Đinh Xuân Thu trong bụng càng tức tối hơn, lại thêm chột dạ. Y vừa hỏi

chuyện A Tử vừa hơi vung tay áo lên, tiềm vận nội lực đẩy bột phấn Tam

Tiếu Tiêu Dao Tán bắn vào Mộ Dung Phục. Độc phấn đó vô hình lại không

mùi vị gì, cực kỳ mịn màng, trời đang tối, trong quán ăn chỉ thấy mờ mờ,

những tưởng Mộ Dung Phục dù võ công cao cường thì cũng chẳng thể phátgiác, ngờ đâu không biết y dùng thủ đoạn gì mà lại đẩy chất độc Tam Tiếu Tiêu Dao Tán qua bên tên đệ tử của mình.

Chết một tên đệ tử cũng chẳng đáng bao nhiêu, nhưng Mộ Dung Phục đang

cười cười nói nói, không thấy y giơ chân múa tay gì mà đã chuyển được qua

người khác, hiển nhiên đó không phải là dùng nội lực phản kích khiến cho

Đinh Xuân Thu tuy kiến văn rộng rãi nhưng nhất thời không nghĩ ra được đó

là công phu gì. Trong bụng y chỉ nghĩ được tám chữ: “dĩ bỉ chi đạo hoàn thi bỉ

thân”, thủ pháp Mộ Dung Phục sử dụng cũng tương tự như môn bắt ám khí rồi

ném trả lại, tiếp tiêu phát tiêu, tiếp tiễn hoàn tiễn dùng vào việc bắt phấn độc

rồi đẩy trở về. Thế nhưng độc phấn tinh vi như thế, sao y lại không bị nhiễm

phải mà lại trả về được, thế mới kỳ?

Y lại nghĩ ra: “Nếu nói là “dĩ bỉ chi đạo hoàn thi bỉ thân” thì y phải đẩy

Tam Tiếu Tiêu Dao Tán về mình mới phải, chắc là tiểu tử này còn e ngại lão

tiên, không dám ngang nhiên vuốt râu hùm”. Tưởng đến vuốt râu hùm, y

thuận tay giơ lên vuốt chòm râu nhưng chỉ cầm phải mấy sợi loe hoe ngắn

ngủn đã cháy xém, trong lòng không bực tức mà lại vui: “Đến như Tô Tinh

Hà, Huyền Nạn lão hòa thượng là những cao thủ công lực như thế, vậy mà

còn bị lão tiên hạ thủ chết đứ đừ, cái thứ Mộ Dung Phục miệng còn hôi sữa,

thật có đáng gì đâu?”.

Đinh Xuân Thu bèn nói:

– Mộ Dung công tử cùng với ta quả là có duyên, lại đây nào, ta mời ngươi

một chén rượu.

Nói xong giơ tay búng một cái, một chén rượu lập tức bay tà tà ngang qua

đến trước mặt Mộ Dung Phục, vậy mà không sóng sánh ra ngoài giọt nào.

Nếu phải lúc bình thời, quần đệ tử của Đinh Xuân Thu đã khen ầm lên, thế

nhưng mới vừa thấy một đồng môn bỏ mạng vô cùng quái lạ, ai cũng sợ bợ

hàm ngựa không nên trò trống gì lại mó phải vó câu, chưa bắt mạch được

dụng ý của sư phụ, chi bằng ngậm miệng là hơn, thế nhưng vào nước này cũng

phải reo lên một tiếng cho phải phép, kẻo không sư phụ bực mình, hỏi tội thì

cũng khổ.

Chén rượu bay tới trước mặt Mộ Dung Phục, cả bọn liền đồng thanh la lên:

– Hay quá!Thế nhưng có ba gã đặc biệt nhát gan, đến reo lên cũng không dám, đợi

khi cả bọn hoan hô rồi mới chợt nhớ ra là mình không phụ họa, quả là chậm

chân, nên cũng vội vàng bắt chước hùa theo. Thế nhưng ba tiếng “Hay quá!”

đó quả có chậm hơn một chút, thành thử nghe loạc choạc không được đều

nhịp. Ba gã kia thấy các đồng môn châm bẩm nhìn mình ra chiều trách cứ, ai

nấy hổ thẹn vô cùng lại thêm trong lòng thấp thỏm.

Mộ Dung Phục nói:

– Rượu mời của Đinh tiên sinh, tại hạ xin được chuyển sang cho lệnh cao

đồ.

Nói xong y thổi phù một cái, chén rượu chuyển hướng, bay đến trước mặt

một tên đệ tử phái Tinh Tú ở nơi mé trái. Y chỉ thổi một hơi mà đã làm lệch

hướng, so với dùng ngón tay búng, khó dễ khác nhau dù kẻ không biết võ

công thì cũng nhìn ra được, Đinh Xuân Thu xem như thua một keo. Thực ra

Mộ Dung Phục thổi ra, so với cái búng của Đinh Xuân Thu, lực đạo ai mạnh ai

yếu không thể so sánh được, có điều phương vị kình đạo cực kỳ chính xác,

tưởng như thổi bay được chén rượu nhưng chính là y mượn sức búng của địch

làm sức của mình mà thôi.

Gã đệ tử phái Tinh Tú thấy cái chén bay tới, không kịp suy nghĩ, lập tức

đưa tay tiếp lấy miệng nói:

– Chén rượu này sư phụ ra lệnh cho ngươi uống cơ mà!

Y toan ném trở về cho Mộ Dung Phục, đột nhiên kêu rống lên thảm thiết,

ngã bật ngửa ra sau rồi không còn động đậy gì nữa. Các đệ tử lần này đều

hiểu ra biết ngay khi sư phụ búng chén rượu ra đã gẩy thuốc độc trong móng

tay vào thành chén, chỉ cần Mộ Dung Phục chạm phải, chẳng nhấp môi cũng

sẽ chết tươi không khác gì tên đệ tử nọ.

Đinh Xuân Thu mặt biến sắc, cực kỳ phẫn nộ, biết không còn dấu đám đệ

tử được nữa, đến nước này chẳng có thể ra chiều nhàn nhã, hai tay liền bưng

chén rượu lên, chậm rãi đứng dậy nói:

– Mộ Dung công tử, chén rượu này lão phu xin kính mời các hạ.

Nói xong ông ta đi đến trước mặt Mộ Dung Phục. Chỉ vừa liếc qua, Mộ

Dung Phục đã thấy rượu trong chén thấp thoáng một ánh xanh biếc, hiển

nhiên có chứa một loại độc dược khủng khiếp. Lần nay y tự tay đem đến,

không có cách nào có thể cho quay ngược trở về. Đợi tới khi Đinh Xuân Thuđi đến trước mặt chỉ còn cách một mặt bàn, Mộ Dung Phục liền hít một hơi,

rượu trong chén Đinh Xuân Thu đang cầm nơi tay lập tức vọt thẳng lên, thành

một thủy tuyến màu xanh. Đinh Xuân Thu kêu thầm: “Ghê gớm thật!”, biết

rằng đối phương hút lên rồi sẽ nhả tới, sợi dây nước đó sẽ bắn thẳng vào

người mình, mặc dù chẳng có gì đáng ngại nhưng người mình đầm đìa những

rượu không khỏi xấu mặt, lập tức vận nội công lên, bụp một tiếng thổi luôn

vào thủy tuyến đó.

Sợi dây nước chạy tới cách mặt Mộ Dung Phục chừng nửa thước, bỗng

chuyển xéo qua hướng trái, chạy vòng qua sau ót y, nhanh nhẹn lạ thường bay

vọt ra, nghe ọc một tiếng chui tuột luôn vào miệng một tên đệ tử. Gã đó đang

há mồm định kêu nhưng chưa thành tiếng thủy tuyến đã chạy tọt vào bụng.

Dây nước đó nhanh lạ thường nên y vẫn còn đang cao hứng la lên:

– Hay quá!

Đến khi vừa reo xong, lúc ấy mới hoảng vía lại kêu:

– Hỏng rồi!

Y gục xuống, trong giây lát gương mặt biến thành đen kịp, chết ngay.

Thuốc độc đó lợi hại như thế, Mộ Dung Phục cũng sợ đến mất vía: “Ta bôn

tẩu giang hồ xưa nay chưa từng thấy loại thuốc độc nào bá đạo đến vậy”. Hai

người tỉ thí, chỉ trong giây lát đã khiến cho phái Tinh Tú chết ba đệ tử, hiển

nhiên ai thắng ai bại đã rõ ràng. Đinh Xuân Thu phẫn nộ cùng cực, cầm chén

rượu vứt xuống bàn, múa chưởng đánh ra. Mộ Dung Phục đã từng nghe đến

Hóa Công Đại Pháp của y từ lâu, vội vàng tránh qua, Đinh Xuân Thu liên tiếp

đánh ba chưởng, Mộ Dung Phục đều dùng thân pháp tiểu xảo tránh né được,

hai bên không hề đụng vào nhau.

Hai người càng đánh càng nhanh, trong phạn điếm bày đầy bàn ghế, lối đi

nhỏ hẹp, không có cách nào xoay chuyển, thế nhưng hai người vẫn theo những

khe giữa hai bàn mà tới lui, không một tiếng động, quyền chưởng không giao

tiếp đã đành mà đến bàn ghế cũng không đổ ngã cái nào.

Quần đệ tử phái Tinh Tú ai nấy đứng dựa vào tường, không ai dám bước

chân ra khỏi cửa, sư phụ đang kịch đấu với kình địch, có ai lại dám tránh né ra

xa, thế là phạm vào đại tội bất trung với sư môn còn gì. Mọi người ai cũng

biết tình thế nguy hiểm, chỉ cần một chút chưởng phong quét phải thì khó mà

sống được, ai cũng mong sao thân hình mình xẹp lại mỏng như giấy, dán chặtvào tường ngoài ra không còn cách nào khác. Thế nhưng thấy Mộ Dung Phục

thủ nhiều công ít, chưởng pháp tuy tinh kỳ nhưng vì không dám đụng vào

chưởng của Đinh Xuân Thu nên không khỏi bó chân bó tay, rơi vào thế hạ

phong.

Sau mấy chiêu, Đinh Xuân Thu biết rằng Mộ Dung Phục không dám cùng

mình đối chưởng hẳn là sợ Hóa Công Đại Pháp. Nếu đối phương đã sợ công

phu này thì mình phải dùng nó để chế ngự y, có điều thân pháp Mộ Dung

Phục phiêu hốt, ra chiêu khó mà đoán được nên muốn ép cho y phải đụng với

mình kể cũng không phải dễ.

Lại thêm vài chưởng nữa, Đinh Xuân Thu đã nghĩ ra một cách, chưởng

phải bay múa tung hoành, đánh ép tới, tay trái giả vờ không được linh hoạt

nhưng cố ý che đậy để cho Mộ Dung Phục khỏi biết. Mộ Dung Phục võ công

tinh thâm, đối phương mạnh yếu thế nào, lẽ nào lại không nhìn ra?

Y nghiêng người lệch qua, đánh liên tiếp hai chưởng liền, thế mạnh như vũ

bão tấn công thẳng vào hông bên trái Đinh Xuân Thu. Đinh Xuân Thu hự nhẹ

một tiếng, lùi lại một bước nhưng không dám đưa chưởng trái ra đỡ đòn. Mộ

Dung Phục nghĩ thầm: “Lão quái này không biết ngực và sườn bên trái bị nội

thương sao đây”. Y đang đắc thắng nên không nhường nhịn gì nữa, làm như

tấn công mạnh về bên hữu nhưng nội lực lại vận dụng toàn lực đánh vào bên

tả.

Hai bên trao đổi thêm hơn hai chục chiêu nữa, tay trái Đinh Xuân Thu rút

lẩn hẳn vào trong tay áo, chưởng phải biến thành trảo, giơ lên cào vào mặt

Mộ Dung Phục. Mộ Dung Phục nghiêng qua tránh được, giơ quyền lên đánh

thẳng vào sườn bên trái của đối phương. Đinh Xuân Thu nãy giờ vẫn chờ đòn

này, sau cùng kẻ địch đã đánh ra, trong lòng mừng rỡ, vung tay áo lên cuốn

lấy nắm tay của Mộ Dung Phục. Mộ Dung Phục nghĩ thầm: “Tụ phong của

ngươi dù có mạnh gấp mười lần cũng làm sao đả thương được ta?”. Y không

rút quyền về mà lại vận kình lên cánh tay, chịu cho tay áo y cuốn được, nghe

soẹt một tiếng dài, tay áo Mộ Dung Phục đã bị xé rách toạc một miếng lớn.

Mộ Dung Phục còn đang kinh hãi, quyền đó y đánh ra thật mạnh ngờ đâu lại

bị rít lại, thì ra nắm tay đã bị đối phương chộp được rồi.

Chiêu đó quả là ngoài dự tính của Mộ Dung Phục, y lập tức kinh hãi hiểu

ra: “Lão quái giả vờ bị thương ở bên trái, chẳng qua chỉ là kế dụ địch, hóa ra

mình mắc lừa tên già này rồi”. Y trong lòng cảm thấy hối hận: “Ta chẳng quatự cao tự đại, dám coi thường lão quái tên tuổi vang lừng này, quân tử báo

cừu, thập niên vị vãn, chỉ vì cái căm phẫn nhất thời, chưa tính toán chu đáo đã

làm liều khiêu chiến với y”. Thế nhưng lúc này đâu còn có thể lùi được nữa,

bao nhiêu nội lực trong người lập tức chuyển lên đầu quyền tống ra.

Ngờ đâu nội kình đưa lên rồi chẳng khác gì hòn đá ném xuống biển, không

biết đi đâu. Mộ Dung Phục kêu thầm một tiếng: “Chết rồi!”. Y vẫn biết Đinh

Xuân Thu là một cường địch nên từ khi bắt đầu giao đấu lúc nào cũng chăm

chăm quyết không để đối phương sử dụng Hóa Công Đại Pháp, ngờ đâu đến

lúc này không còn cách nào tránh được nữa. Hiện tại quả thực tiến thoái lưỡng

nan, nếu tiếp tục vận kình kháng cự thì dù nội công cao cường đến đâu cũng

sẽ bị y hóa giải chỉ trong giây lát công lực hết sạch, thành người tàn phế, còn

như bão nguyên thủ nhất, thu kình lực về thì những chất độc vô cùng ghê gớm

của Đinh Xuân Thu sẽ theo chân khí xâm nhập tạng phủ kinh mạch.

Còn đang chưa biết tính sao, bàng hoàng vô kế bỗng từ sau có người lớn

tiếng reo lên:

– Sư phụ xếp đặt thật khéo khiến cho tên tiểu tử thối tha kia bị hãm vào

tuyệt cảnh.

Mộ Dung Phục vội vàng lùi lại hai bước, tay trái vươn ra, chộp ngay ngực

tên đệ tử phái Tinh Tú. Trong gia số nã thủ tuyệt kỹ của Cô Tô Mộ Dung có

một môn mượn sức đánh sức tên là Đẩu Chuyển Tinh Di, người ngoài không

biết nguồn cơn thấy khoa gậy ông đập lưng ông của nhà Mộ Dung thật là

tuyệt diệu, những người bị chết ai cũng bị chính ngay môn tuyệt nghệ thành

danh của mình trở ngược vào thân, hiển nhiên bao nhiêu thần kỹ các môn

phái, Cô Tô Mộ Dung đều tinh thông am hiểu. Thực ra trong võ lâm tuyệt kỹ

có hàng nghìn hàng vạn môn, dù người thông minh uyên bác đến đâu chăng

nữa thì cũng không thể nào học hết mọi tuyệt kỹ được huống chi đã gọi là

tuyệt kỹ thì chẳng thể một sớm một chiều mà luyện thành. Tuy nhiên nhà Mộ

Dung có thuật Đẩu Chuyển Tinh Di nên dù đối phương đưa ra công phu nào

chăng nữa đều có thể di chuyển lực đạo, phản kích trở ngược lại mình.

Người giỏi về Tỏa Hầu Thương khi giơ ngọn giáo đâm vào cổ họng họ Mộ

Dung, bị họ dùng môn Đẩu Chuyển Tinh Di xoay lại, mũi thương đó sẽ đâm

ngay vào yết hầu của mình, cách sử dụng, kình lực phép tắc đều hoàn toàn do

yếu quyết bí truyền của bản môn; người giỏi về Đoạn Tí Đao khi múa đao

chém xuống thì lại chém phải chính cánh tay mình. Binh khí nào thì dùngchính binh khí đó, chiêu số nào cũng chính chiêu số đó. Nếu người ta không

chính mắt trông thấy người nhà Mộ Dung dùng môn Đẩu Chuyển Tinh Di này

thì có ai đoán ra được tại sao người đó bỏ mạng, thực ra cũng chỉ là “tự sát”

mà thôi. Kẻ ra chiêu võ công càng cao thì cái chết lại càng khéo léo.

Nhà Mộ Dung nếu không phải là một người đánh một người, hoặc không

biết chắc sẽ có thể lấy mạng đối phương thì không bao giờ dùng môn Đẩu

Chuyển Tinh Di này, thành thử Cô Tô Mộ Dung danh chấn giang hồ mà công

phu chân chính thế nào có ai biết đến đâu?

Đem binh khí quyền cước của đối thủ chuyển hoán phương hướng để cho

kẻ địch mình làm mình chịu, nguyên tắc chẳng qua chỉ là “bật ngược trở về”,

chẳng khác gì một người giơ tay đấm vào tường đá, ra tay càng mạnh thì

quyền đầu bị chấn lực càng đau, nặng nhẹ mạnh yếu không sai một mảy. Có

điều chuyển hoán binh khí quyền cước là vật hữu hình thì dễ, còn chuyển

hoán thứ vô hình vô chất như nội lực khí công mới cực kỳ khó khăn. Mộ Dung

Phục tuy tập luyện công phu này đã nhiều năm nhưng vì tuổi còn trẻ nên vẫn

chưa đạt đến cảnh giới đăng phong tạo cực, gặp phải hạng cao thủ số một như

Đinh Xuân Thu, biết không cách nào dùng Đẩu Chuyển Tinh Di bật ngược lại

đả thương đối phương được nên dùng Đẩu Chuyển Tinh Di ba lần cũng chỉ

giết được ba tên đệ tử của phái Tinh Tú mà thôi.

Y có chuyển có di đấy nhưng cũng chỉ chuyển di sang người thứ ba mà

thôi. Đinh Xuân Thu lén sử dụng Tam Tiếu Tiêu Dao Tán, búng chén tống

chất độc, rồi nén độc tửu bắn ra, môn nào cũng bị Mộ Dung Phục nhẹ nhàng

đưa người khác ra chết thay cho mình.

Đến khi Đinh Xuân Thu sử dụng Hóa Công Đại Pháp, Mộ Dung Phục

không cách nào có thể di chuyển được, may sao có gã đệ tử kia lên tiếng nịnh

nọt lấy lòng thầy, vừa há miệng kêu lên nên đã cho y biết được mình đang ở

đâu. Mộ Dung Phục trong cơn gấp gáp, không còn thì giờ đâu mà nghĩ ngợi,

chộp ngay được tên đệ tử kia, lập tức xoay ngang hất dọc, đẩy khí thay kình

đem gã đó ra thế chỗ mình. Y mạo hiểm thi triển may sao hiệu quả, Tinh Tú

Lão Quái vốn chủ tâm “hóa” công lực của Mộ Dung Phục, ngờ đâu lại “tán”

ngay công phu bản môn của đứa học trò.

Mộ Dung Phục thử một lần thành công, thật đúng là chết đi sống lại, lập

tức chụp ngay lấy cơ hội, không để cho Đinh Xuân Thu có dịp suy nghĩ, đẩy

luôn tên đệ tử phái Tinh Tú cho đụng vào một gã đệ tử khác. Công lực của tênđệ tử thứ hai cũng lập tức bị Hóa Công Đại Pháp của Đinh Xuân Thu hóa tán

ngay.

Đinh Xuân Thu đã thấy Mộ Dung Phục dùng công phu tá lực đả lực chuyển

sang đệ tử của mình, càng thêm phẫn nộ, nghĩ thầm: “Ta nếu như vì bảo toàn

cho mấy đứa học trò bị thịt này mà buông y ra, muốn bắt lại thật khó bằng lên

trời, tên tiểu tử này thoát thân rồi sẽ tìm cách chạy mất. Nếu như thế ta chết

năm tên đệ tử mà chỉ xé rách được tay áo của y, thế có phải là phái Tinh Tú

thua đứt đuôi, Tinh Tú lão tiên còn mặt mũi nào dương uy Trung Nguyên?”.

Y bèn tăng thêm kình lực vào năm ngón tay, nhất định không buông Mộ

Dung Phục. Mộ Dung Phục lại lùi thêm mấy bước, dính chặt thêm một gã đệ

tử phái Tinh Tú nữa để cho Đinh Xuân Thu tiêu tán công lực. Chỉ trong

khoảnh khắc, ba tên đệ tử đã nằm bẹp dưới đất, chẳng khác gì bị quỉ nhập

tràng hút hết máu trong người. Những tên còn lại kinh hãi quá, thấy Mộ Dung

Phục tiến đến gần, ai nấy kêu thất thanh, bỏ chạy tán loạn.

Mộ Dung Phục hất tay một cái, ba tên đệ tử phái Tinh Tú bay tung ra, tên

thứ ba lại dụng ngay vào một gã khác. Gã đó kinh hoảng vừa mới há miệng

kêu lên thì người đã nhũn ra rồi. Những đệ tử còn lại ai ai cũng đều nhìn rõ,

nếu sư phụ không thả Mộ Dung Phục ra thì tên tiểu tử này tiếp tục mượn sức

đả thương người, bao nhiêu đệ tử đều bị Tinh Tú lão tiên “hóa” hết, rồi thể

nào cũng đến lượt mình, nhưng ngoài việc khiếp đảm ra, chẳng một ai dám bỏ

chạy nên chỉ lẩn quẩn ở bên trong quán, chui qua trốn lại như chuột để khỏi

mang họa vào thân.

Cái tiểu điếm đó đâu có rộng bao nhiêu, thành thử Mộ Dung Phục vung tay

ra là lại trúng được ba bốn tên khác, dính chùm với nhau thành một xâu bảy

tám người, trong tay cái món “binh khí” vừa to vừa dài ấy muốn đụng vào ai

lại càng dễ hơn. Lúc đó y đã hoàn toàn chiếm được thượng phong nhưng trong

bụng lại lo ngay ngáy, đệ tử phái Tinh Tú tuy đông thật nhưng cũng có lúc

phải hết, đến khi Đinh Xuân Thu “hóa” hết nội lực bọn chúng rồi thì lúc đó

kiếm đâu ra một tên tử quỉ khác? Y hết sức vùng vẫy, liên tiếp phát chân lực

cố giằng khỏi tay Đinh Xuân Thu.

Đinh Xuân Thu thấy môn hạ đệ tử của mình dính chặt vào nhau, chẳng

khác gì người ta dùng lạt xâu một bầy cá, kẻ nào chưa bị thì trốn chui trốn

nhủi, không còn ai buông lời tán tụng mình nữa. Y vừa thẹn vừa tức, lại càng

ghịt chặt nắm tay Mộ Dung Phục, nghĩ thầm: “Cái bọn học trò vô tích sự cóchết hết cũng không tiếc, chỉ cần hóa được công lực thằng nhãi này, Tinh Tú

lão tiên thắng được Cô Tô Mộ Dung thì cũng là chuyện chấn động thiên hạ

rồi. Còn thu đệ tử thì trên đời này thiếu giống gì bọn bưng mâm bợ đỡ?⬙.

Khuôn mặt y không lộ chút gì tức tối, thần thái vẫn ra vẻ thanh nhàn, làm như

tiêu sái lắm.

Đệ tử phái Tinh Tú vẫn mong sư phụ e ngại ném chuột vỡ đồ, buông Mộ

Dung Phục ra để cho bọn chúng khỏi bị hóa tán công lực, thế nhưng thấy lão

nhân gia chẳng chút chạnh lòng, biết rồi cũng đến lượt mình, ai nấy kêu thét

hãi hùng nhưng vì bị uy thế của sư phụ tích chứa lâu nay nên vẫn không tên

nào dám bỏ chạy, cũng chẳng dám mở miệng van xin sư phụ buông tha “thằng

nhãi đã bị lão tiên nắm giữ”.

Đinh Xuân Thu không còn cách gì khác hơn, đưa mắt nhìn khắp bốn bề

thấy trong đám đệ tử chỉ còn hai người không theo những người khác trốn

lánh. Một người là Du Thản Chi, nép mình tại một góc nhà, chui đầu sắt vào

giữa hai tay, hiển nhiên cực kỳ sợ hãi. Còn một người nữa là A Tử, mặt mày

nhợt nhạt, cũng ngồi một góc xem hai người đấu với nhau. Đinh Xuân Thu

quát lên:

– A Tử!

A Tử đang xem đến xuất thần, có ngờ đâu sư phụ lại gọi đến, ngẩn người

ra rồi đáp:

– Sư phụ, lão nhân gia đại triển thần uy…

Nàng chỉ mới nói được nửa câu bỗng ngượng nghịu cười ruồi, không dám

nói tiếp. Sư phụ lão nhân gia quả có đại triển thần uy thế nhưng đả thương

toàn người của mình, có gì đáng ca tụng đâu quả khó dùng lời lẽ gì tán dương

được. Đinh Xuân Thu chưa thanh toán được Mộ Dung Phục vốn đang hết sức

nóng ruột, thấy nụ cười của A Tử có chiều diễu cợt, càng thêm cuồng nộ, cánh

tay áo bên trái liền phất một cái, bật tung hai chiếc đũa trên bàn, bắn thẳng

vào mắt A Tử.

A Tử kêu lên:

– Chao ôi!

Nàng vội vàng vung tay đánh tạt hai chiếc đũa ra nhưng vẫn chậm mất một

bước, đầu đũa đã điểm trúng, chỉ thấy vừa ngứa vừa tê, vội đưa tay áo lênchùi, mở mắt ra trước mắt chỉ một màu trắng loang loáng di động, chỉ giây lát

vùng trắng sáng biến mất chỉ còn một màu đen như mực.

Nàng sợ đến hồn vía lên mây, kêu ầm lên:

– Ta… ta… mắt ta… mắt ta không… không thấy gì nữa.

Đột nhiên một luồng hàn khí thốc vào người, rồi tiếp theo là một cánh tay

vòng qua ôm ngang lưng cô gái, một người nào đó đã bồng nàng bỏ chạy. A

Tử kêu lên:

– Mắt… mắt ta…

Ở phía sau nghe bình một tiếng, dường như song chưởng đụng nhau, A Tử

cảm thấy mình như đằng vân giá vụ bay bổng lên, trong cơn mơ màng, nghe

loáng thoáng có tiếng Mộ Dung Phục nói:

– Thôi ngừng tại đây, Tinh Tú Lão Quái, sau này…

A Tử cảm thấy lạnh buốt thấu xương, bên tai gió ù ù thổi, một người còn

lạnh hơn băng bồng mình chạy vùn vụt. Nàng lạnh đến răng đập vào nhau

lách cách, rên rỉ:

– Lạnh quá… mắt ta… lạnh… lạnh quá mất thôi…

Người kia đáp:

– Được, được. Mình chạy đến khu rừng kia, Tinh Tú lão tiên không tìm

thấy đâu.

Y miệng nói nhưng chân vẫn chạy băng băng. Một hồi sau, A Tử thấy y

ngừng lại, nhè nhẹ bỏ nàng xuống, dưới lưng nghe tiếng loạt soạt hóa ra đã để

nàng nằm trên một đống lá khô. Người kia nói:

– Cô nương, mắt… mắt cô ra sao?

A Tử chỉ thấy đôi mắt đau đớn khôn tả, cố hết sức nhướng mắt lên nhưng

không thấy gì cả, tất cả trời đất nay chỉ còn một màu đen kịt mới hay rằng mắt

nàng đã bị Đinh Xuân Thu dùng độc dược làm mù mất rồi, đột nhiên khóc òa

lên, kêu la rầm rĩ:

– Mắt… mắt ta đui rồi, ta… mù rồi.

Người kia dịu giọng an ủi:

– Xem chừng có thể trị khỏi được!

A Tử bực tức đáp:- Thuốc độc của Đinh lão quái lợi hại biết chừng nào, làm sao trị được?

Ngươi lừa ta! Mắt ta đui rồi, mắt ta đui rồi!

Nói xong lại khóc tức tưởi. Người kia nói:

– Bên kia có dòng suối nhỏ, mình đến đó rửa cho sạch thuốc độc trong

mắt đi.

Nói xong cầm tay nàng, nhẹ nhàng kéo lên. A Tử chỉ thấy bàn tay y lạnh

ngắt, tự nhiên rụt về, người đó liền buông ra. A Tử đi được hai bước, vấp một

cái lảo đảo muốn té. Người kia nói:

– Coi chừng!

Rồi lại đưa tay đỡ nàng. Lần này A Tử không giựt tay về nữa, để mặc y

dẫn đến bên dòng nước. Người kia nói:

– Cô đừng sợ, đây là bờ suối đó!

A Tử quì xuống bên khe nước, hai tay vốc nước lên rửa mắt. Dòng nước

mát rượi thấm vào mắt, đau đớn giảm dần nhưng trời đất vẫn tối tăm, trước

mắt không một chút sáng sủa nào hết. Trong cùng một lúc, tuyệt vọng, đau

thương, bơ vơ, phẫn nộ, bao nhiêu mối cùng kéo tới, nàng ngồi phịch xuống

đất, khóc rưng rức, hai chân đạp lung tung:

– Ngươi dối ta, ngươi dối ta, mắt ta mù hẳn rồi, mắt ta mù hẳn rồi!

Người kia nói:

– Cô nương, cô đừng quá đau lòng! Tôi không bỏ cô mà đi đâu, cô… cô

cứ yên tâm.

A Tử thấy tạm nguôi ngoai, hỏi lại:

– Ngươi… ngươi là ai?

Người kia đáp:

– Tôi… tôi…

A Tử nói:

– Ồ xin lỗi, cảm ơn ông đã cứu mạng tôi. Chẳng hay cao tính đại danh của

các hạ là gì?

Người kia ấp úng:

– Tôi… tôi… cô nương không nhận ra tôi sao?

A Tử nói:- Đến tên họ ông còn chẳng cho tôi hay, vậy mà dám xí gạt nói là sẽ

không bỏ tôi mà đi. Mắt… mắt tôi mù rồi, chỉ… chỉ có nước chết quách cho

xong.

Nói xong lại khóc òa lên. Người kia vội gạt đi:

– Cô nương muôn ngàn lần chớ có chết. Tôi… tôi quả thật mãi mãi sẽ

không bao giờ rời xa cô. Chỉ cần cô nương bằng lòng cho tôi đi theo, tôi vĩnh

viễn… vĩnh viễn ở bên cạnh cô nương.

A Tử đáp:

– Ta không tin! Ta không tin! Ngươi xí gạt ta, ngươi gạt ta để ta không tìm

cái chết. Ta muốn chết, mắt ta mù rồi, còn sống làm gì nữa?

Người kia lắp bắp:

– Tôi nhất quyết không đánh lừa cô đâu, nếu tôi bỏ cô thì cho tôi chết

đường chết chợ.

Giọng y hốt hoảng xem ra thật là thành khẩn. A Tử hỏi lại:

– Thế ngươi là ai?

Người kia đáp:

– Tôi là Tụ Hiền Trang… không, không phải, tôi họ Trang, tên Tụ Hiền.

Người cứ được A Tử chính là thiếu trang chủ của Tụ Hiền Trang Du Thản

Chi. A Tử nói:

– Hóa ra là Trang… Trang tiền bối, đa tạ tiền bối đã cứu tiểu nữ.

Du Thản Chi đáp:

– Tại hạ cứu được cô nương khỏi độc thủ Tinh Tú lão tiên, lòng mừng vô

hạn, cô nương chẳng phải tạ ơn làm gì. Tại hạ cũng không phải tiền bối của cô

nương, chỉ lớn hơn cô nương vài tuổi.

A Tử nói:

– Ồ, vậy thì tiểu muội gọi là Trang đại ca.

Du Thản Chi vui mừng không sao kể xiết, lắp bắp:

– Cái đó… cái đó không dám.

A Tử nói:

– Trang đại ca, tiểu muội cầu đại ca một việc.

Du Thản Chi đáp:- Cô đừng nói cầu hay không cầu, cô nương có điều gì sai khiến, dù phải

hi sinh tính mạng, tại hạ cũng nhất quyết làm cho cô nương.

A Tử mỉm cười hỏi lại:

– Anh với tôi vốn không quen biết, sao anh đối với tôi tốt như thế?

Du Thản Chi lập cập đáp:

– Phải, phải, xưa nay không quen biết gì cả, tại hạ chưa từng gặp cô

nương, cô nương cũng chưa từng gặp tại hạ. Lần này… hôm nay mới gặp mặt

lần đầu.

A Tử buồn bã nói:

– Còn nói gì đến gặp mặt? Tôi vĩnh viễn không bao giờ thấy mặt anh đâu.

Nói đến đây nhịn không nổi nước mắt lại rơi lã chã. Du Thản Chi vội đáp:

– Cái đó cũng chẳng hề gì. Không thấy tôi lại càng tốt.

A Tử hỏi lại:

– Sao thế?

Du Thản Chi nói:

– Tôi… tôi mặt mày khó coi lắm, cô nương nếu trông thấy e rằng sẽ mất

vui.

A Tử lặng lẽ mỉm cười nói:

– Anh lại gạt tôi rồi. Người xấu xí khó coi nhất đời này tôi đã từng thấy

nhiều lắm. Tôi có một đứa đầy tớ, đầu đeo một cái lồng sắt, vĩnh viễn không

thể nào gỡ ra được, thế mới thực là khó coi chứ. Nếu như anh thấy y thì anh sẽ

phải cười đến ba ngày ba đêm. Anh có muốn xem không?

Du Thản Chi run run đáp:

– Không! Không! Tôi không xem đâu.

Y nói nhưng không ngăn nổi tự nhiên lùi lại hai bước. A Tử nói:

– Anh bồng tôi chạy nhanh chẳng kém gì tỉ phu tôi, võ công giỏi vậy mà

sao nhát thế, đến người đầu sắt cũng không dám coi. Trang đại ca, người đầu

sắt đó ngộ nghĩnh lắm, để tôi bảo y lộn mèo cho anh coi, bảo y đưa đầu vào

lồng sư tử, lồng cọp cho dã thú cắn. Tôi sẽ bảo người ta đem y ra làm diều

phóng trên không, thật là thú vị.

Du Thản Chi bất giác rùng cả mình, luôn mồm kêu:- Tôi không muốn coi, tôi thực sự không muốn coi.

A Tử thở dài:

– Thôi được. Anh vừa mới bảo bất luận tôi muốn gì, dù phải bỏ mạng anh

cũng làm, hóa ra cũng chỉ để xí gạt tôi thôi.

Du Thản Chi đáp:

– Không, không! Tôi không nói láo đâu. Cô nương bảo tôi làm gì?

A Tử nói:

– Tôi muốn về ở bên cạnh tỉ phu, anh ta ở Nam Kinh nước Liêu. Trang

đại ca, nhờ anh đưa tôi về.

Nàng vừa nói thế, đầu óc Du Thản Chi trở nên hỗn loạn nhưng không dám

nói nên lời. A Tử hỏi:

– Sao? Anh không chịu ư?

Du Thản Chi ấp úng:

– Không phải… không chịu, có điều… có điều tôi không muốn… không

muốn đến Nam Kinh nước Liêu.

A Tử nói:

– Tôi bảo anh đến xem gã hề đầu sắt, anh không chịu, bảo anh đưa tôi về

với anh rể tôi, anh cũng không chịu. Thôi thế thì tôi đi một mình vậy.

Nói xong nàng chậm rãi đứng lên, hai tay đưa ra đằng trước mò đường. Du

Thản Chi nói:

– Để tôi đi với cô! Cô đi một mình… sao được?

Du Thản Chi cầm bàn tay nhỏ nhắn mịn màng của A Tử, dẫn nàng ra khỏi

khu rừng, trong bụng chỉ nghĩ: “Chỉ cần mình được nắm tay nàng đi chầm

chậm như thế này, thì dù phải đến mười tám tầng địa ngục thì ta vẫn hết sức

hài lòng”. Đến khi hai người ra tới đường cái, nhìn lên thấy có một đám ăn

mày, người đi đầu thân hình gầy cao, tướng mạo thanh tú, chính là Cái Bang

Đại Trí phân đà đà chủ Toàn Quan Thanh. Du Thản Chi nghĩ thầm: “Gã này

hôm trước bị sư phụ ta đả thương, hóa ra không chết”. Y không muốn gặp bọn

này, vội vàng dẫn A Tử rời đại lộ, đi vào phía đồng hoang. A Tử thấy đường

lồi lõm không phẳng bèn hỏi:

– Cái gì thế?Du Thản Chi chưa kịp trả lời, Toàn Quan Thanh đã trông thấy hai người,

rảo bước đi tới chặn lại, hầm hầm gặng hỏi:

– Làm gì mà lấp lấp ló ló ở đây? Ngươi… ngươi hình dáng kỳ quái, làm

cái trò gì?

Du Thản Chi hoảng hốt nghĩ thầm: “Nếu như y gọi ra ba chữ “thằng đầu

sắt” thì A Tử cô nương biết ngay mình là ai, sẽ không còn nhìn nhõi gì đến

mình nữa. Dẫu nàng có bằng lòng cho mình đưa về Nam Kinh thì cũng không

bao giờ để cho mình nắm tay nữa”. Y bàng hoàng không biết tính sao, đột

nhiên quì phục xuống, lạy như tế sao, tay chỉ trỏ lung tung yêu cầu Toàn Quan

Thanh đừng nói lộ chân tướng mình ra.

Toàn Quan Thanh chẳng hiểu y ra hiệu để làm gì, lạ lùng hỏi:

– Ngươi làm gì thế?

Du Thản Chi chỉ vào A Tử, xua xua tay, lại chỉ vào mồm mình, xua xua

tay, rồi lại lạy mấy cái. Toàn Quan Thanh nhìn ra A Tử đã bị mù, hiểu ra gã

đầu sắt này xin mình đừng nói, còn đang ngạc nhiên, các đệ tử Cái Bang đã

chạy ùa đến. Một người chỉ vào đầu Du Thản Chi, cười hềnh hệch kêu lên:

– Lạ chưa kìa, gã này đầu…

Du Thản Chi tung mình nhảy tới, chưởng đánh ra. Gã đệ tử Cái Bang vội

đưa tay lên đỡ, chỉ nghe lắc cắc mấy tiếng, xương cánh tay lẫn xương sườn

đều gãy vụn, thân hình bắn tung về sau cả trượng, nằm gục xuống đất, chết

tươi ngay.

Bọn ăn mày vừa kinh hãi vừa tức giận, lập tức năm người khác xông lên

tấn công Du Thản Chi. Du Thản Chi song chưởng vung lên, đánh đấm lung

tung. Võ công y tuy thấp kém thua xa đệ tử Cái Bang nhưng thủ chưởng đến

đâu, chỉ nghe lắc cắc, lộp cộp liên hồi, “Chết rồi!”, “Chao ôi!”, bình bình

bình, bịch bịch, cả năm tên đều văng ra, rơi xuống chết cả. Bọn còn lại hết sức

kinh hoàng, lập tức vây quanh Du Thản Chi và A Tử nhưng không kẻ nào dám

xông lên tấn công.

Du Thản Chi đột nhiên lại quay về phía Toàn Quan Thanh quì xuống, lạy

như tế sao, rồi lại giơ tay chỉ trỏ, chỉ vào A Tử, lại chỉ vào cái đầu sắt của

mình, không ngớt xua tay.

Toàn Quan Thanh thấy y giơ tay lên đã giết được sáu bang chúng Cái

Bang, công lực thâm hậu, quả thực bình sinh ít thấy, đến như mình có tiến lênđộng thủ, chưa chắc đã thắng được y, thế nhưng y lại lạy lục mình, quả không

sao hiểu nổi, bèn cũng ra hiệu lại, chỉ vào A Tử, chỉ vào đầu sắt của y, rồi chỉ

vào mồm mình, xua xua tay.

Du Thản Chi mừng quá, gật đầu liên tiếp. Toàn Quan Thanh trong lòng

chợt nghĩ: “Gã này võ công cực kỳ cao siêu nhưng lại sợ ta tiết lộ chuyện bí

mật của y, xem chừng mình có thể nhân chuyện này ép y vào việc mình có

thể dùng được”. Y bèn quay sang nói với các thủ hạ:

– Tất cả không ai được nói năng gì, tất cả mọi việc để cho ta hỏi chuyện.

Du Thản Chi lại càng mừng rỡ, lạy thêm mấy cái nữa. A Tử hỏi:

– Trang đại ca, bọn nào thế? Anh đánh chết mấy người phải không?

Du Thản Chi nói:

– Đây là các hảo bằng hữu của Cái Bang, chẳng qua chỉ hiểu lầm một

chút. Vị Đại Trí phân đà Toàn đà chủ đây nhân nghĩa hơn người, tốt bụng lắm,

trước nay ta vẫn hết sức khâm phục. Ta… ta lỡ tay giết chết mấy vị huynh đệ,

quả thực vô cùng ân hận.

Nói xong chắp tay tạ tội với bọn người Cái Bang. A Tử hỏi:

– Trong Cái Bang cũng có người tốt sao? Trang đại ca, anh võ công cao

siêu như thế, chi bằng giết sạch bọn chúng đi, để cho tỉ phu tôi đỡ tức.

Du Thản Chi vội đáp:

– Ấy chết, không được, cái đó chẳng qua chỉ hiểu lầm. Tôi với Toàn đà

chủ là hảo bằng hữu. Cô ở đây đợi, tôi đi với Toàn đà chủ nói cho rõ sự tình.

Nói xong đưa tay vẫy vẫy Toàn Quan Thanh. Toàn Quan Thanh thấy y

nhận ra mình, càng thêm lạ lùng, nhưng xem ra không có gì ác ý, nên cũng

theo y đi ra ngoài hơn mười trượng. Du Thản Chi thấy mình đi cách A Tử cũng

đã xa, nàng không thể nào nghe được mình nói những gì nhưng lại sợ bọn ăn

mày làm hại nàng, không dám đi thêm nữa nên ngừng lại, chắp tay nói:

– Toàn đà chủ, nhờ có ông ẩn dấu chân tướng cho tôi, đại ân đại đức đó

quyết không dám quên.

Toàn Quan Thanh đáp:

– Nguyên do bên trong, huynh đệ thật chẳng hiểu chi hết. Tôn huynh cao

tính đại danh là gì?

Du Thản Chi nói:- Huynh đệ họ Trang, tên gọi Trang Tụ Hiền, chỉ vì bản thân gặp chuyện

không may, trên đầu mới đeo cái của quỉ này, thành thử chẳng thể nào cho vị

cô nương đó biết được.

Toàn Quan Thanh thấy y trong khi nói đưa mắt nhìn A Tử với vẻ cực kỳ

quan thiết, cũng đoán ra được bảy tám phần: “Cô nương kia thanh nhã tú lệ,

gã này đem lòng yêu mến cô ta, sợ nàng biết y hình dáng quái dị, có cái đầu

sắt”. Y bèn hỏi:

– Trang huynh làm sao lại biết đến tại hạ?

Du Thản Chi đáp:

– Khi Đại Trí phân đà của quí bang tụ hội bàn tính chuyện suy tuyển

người làm bang chủ, huynh đệ ở cạnh bên, nghe thấy người ta gọi Toàn đà

chủ. Hôm nay huynh đệ lỡ tay đánh chết mấy vị huynh đệ của quí bang, quả

là… quả là sai quấy, mong Toàn đà chủ lượng thứ cho.

Toàn Quan Thanh nói:

– Chúng ta ai chẳng có lúc lầm lẫn, có gì đáng quan tâm đâu. Trang

huynh, cái vật huynh đài mang trên đầu, huynh đệ quyết không nói ra. Để tại

hạ dặn thuộc hạ không ai được tiết lộ chút phong thanh nào cả.

Du Thản Chi cảm kích muốn chảy nước mắt, liên tiếp chắp tay vái nói:

– Đa tạ! Đa tạ!

Toàn Quan Thanh nói tiếp:

– Thế nhưng Trang huynh cùng cô nương đó dắt tay nhau đi trên đường,

khó mà không để cho người khác trông thấy, ắt có người kinh hoảng kêu la

rầm lên, dù cho Trang huynh có giết đi thì cũng không kịp.

Du Thản Chi đáp:

– Đúng lắm! Đúng lắm!

Y từ khi cứu được A Tử, thần hồn phiêu đãng nên quên khuấy mất chuyện

đó, bây giờ nghe Toàn Quan Thanh nói không biết phải tính thế nào, ngượng

nghịu nói:

– Tôi… tôi chỉ có nước đưa nàng tới một nơi thâm sơn cùng cốc trốn ở đó

thôi.

Toàn Quan Thanh mỉm cười nói:- Chỉ e cô nương này khởi nghi, vả lại, sau khi Trang huynh với cô ta kết

thành đôi lứa, sớm muộn gì cũng phải biết thôi.

Du Thản Chi ngực như sôi lên ấp úng:

– Kết thành đôi… đôi lứa ư, tôi nào dám nghĩ đến, chắc… chắc không

được rồi, tôi đâu… đâu có xứng? Chẳng qua… chẳng qua… ư quả là khó thật.

Toàn Quan Thanh nói:

– Trang huynh, nếu như không hiềm thì cùng huynh đệ kết thành bằng

hữu, bạn bè có chuyện khó khăn thì phải lo liệu giúp nhau. Chi bằng mình đến

thị trấn trước mặt, thuê một cỗ xe, ngươi cùng cô nương đó ngồi trong xe,

chẳng ai thấy được hai người.

Du Thản Chi mừng lắm, nghĩ đến việc được cùng A Tử ngồi chung một xe,

thật thần tiên cũng không bằng, vội đáp:

– Đúng, đúng rồi! Ý kiến đó của Toàn đà chủ cao minh lắm.

Toàn Quan Thanh nói tiếp:

– Sau này mình tìm cách tháo cái mũ sắt trên đầu Trang huynh đi, huynh

đệ vỗ ngực bảo đảm, vị cô nương đó vĩnh viễn không bao giờ biết được

chuyện đáng hổ thẹn đó của Trang huynh đâu, ngươi nghĩ sao?

Cộp một tiếng, Du Thản Chi đã quì mọp xuống, hướng về Toàn Quan

Thanh liên tiếp rập đầu, chiếc lồng sắt chạm xuống đất kêu boong boong.

Toàn Quan Thanh cũng quì xuống hoàn lễ, nói:

– Trang huynh hành đại lễ như thế này, huynh đệ làm sao dám nhận? Nếu

như Trang huynh không hiềm, hai đứa mình kết nghĩa kim lan, nên chăng?

Du Thản Chi mừng rỡ nói:

– Hay lắm! Hay lắm! Tiểu đệ chuyện gì cũng không thông, có được một

huynh trưởng túc trí đa mưu chỉ điểm cho đường ngay nẻo sáng, quả thật cầu

còn không được.

Toàn Quan Thanh cười hà hà nói:

– Người ca ca này hơn ngươi vài tuổi, thôi chẳng khách sáo gì gọi ngươi

một tiếng huynh đệ nhé.

*

* *Trong khi Đinh Xuân Thu và Tô Tinh Hà đánh nhau trời long đất lở như

thế, mắt Đoàn Dự trước sau vẫn không rời Vương Ngữ Yên, còn Vương Ngữ

Yên thì lại đầy vẻ tình ý đăm đăm như dán vào người biểu ca. Thành thử ánh

mắt Đoàn Vương hai người thủy chung cũng vẫn chưa hề chạm nhau.

Đến khi Đinh Xuân Thu đại bại bỏ chạy, Hư Trúc hội ngộ với người của

phái Tiêu Dao, bọn Mộ Dung Phục bỏ đi, Đoàn Dự cũng mê mê mẩn mẩn lẽo

đẽo theo Vương Ngữ Yên.

Xuống dưới chân núi rồi, Mộ Dung Phục quay sang chắp tay chào Đoàn

Dự:

– Hôm nay may mắn được biết Đoàn huynh, giờ xin từ biệt, ngày sau

mong lại gặp nhau.

Đoàn Dự lập cập nhắc lại:

– Vâng! Vâng! Hôm nay may mắn được biết, giờ xin từ biệt, ngày sau

mong lại gặp nhau.

Miệng nói nhưng mắt vẫn chăm chăm không rời khỏi thân hình Vương Ngữ

Yên. Mộ Dung Phục cảm thấy khó chịu, hừ một tiếng, quay người bước đi.

Đoàn Dự vẫn lưu luyến lọt tọt theo sau. Bao Bất Đồng giơ tay chặn ngang

Đoàn Dự nói:

– Đoàn công tử, hôm nay công tử ra tay tương trợ chủ nhân chúng tôi, Bao

mỗ xin đa tạ.

Đoàn Dự đáp:

– Có gì đâu mà phải khách sáo.

Bao Bất Đồng tiếp:

– Việc này đã cảm tạ rồi, hai bên không còn nợ nần gì nhau nữa. Thế

nhưng mắt ngươi chăm chăm không rời Vương cô nương, đã vô lễ lắm rồi, bây

giờ lại còn toan đi theo, thì thật hết chỗ nói. Ngươi là kẻ đọc sách, sao không

biết câu: “Phi lễ vật thị, phi lễ vật hành”1 hay sao? Bao mỗ lúc này trên người

không có một chút lực khí nào nhưng vẫn còn cái miệng để chửi đấy nhé.

Đoàn Dự thở dài, lắc đầu:

1 – Nếu đã nói thế, Bao huynh cũng nên “phi lễ vật ngôn”, còn ta thì đành

“phi lễ vật căn”2 vậy.

Bao Bất Đồng cười sằng sặc nói:

– Ngươi nói phải lắm!

Nói xong y quay lại chạy theo bọn Mộ Dung Phục. Đoàn Dự đưa mắt nhìn

theo Vương Ngữ Yên đến khi bóng nàng khuất sau rừng cây nhưng vẫn ngơ

ngẩn như người mất hồn. Chu Đan Thần nói:

– Công tử, mình đi thôi.

Đoàn Dự đáp:

– Ừ, thì đi vậy.

Nói thế nhưng chàng vẫn đứng yên, đến lúc Chu Đan Thần giục giã đến ba

lần mới uể oải trèo lên con ngựa Cổ Đốc Thành dắt lại. Chàng tuy đã ngồi

trên lưng ngựa nhưng mắt vẫn hướng về lối Vương Ngữ Yên vừa đi.

Hôm đó Đoàn Dự đưa thư cho Toàn Quan Thanh rồi vội chạy đến bái kiến

Đoàn Chính Thuần. Cha con lâu ngày gặp lại, cả hai đều vui mừng khôn xiết.

Nguyễn Tinh Trúc cũng hết sức chiều đãi vị tiểu vương gia này. A Tử không

từ biệt mà đi mất thành ra hai anh em chưa có dịp gặp nhau. Đoàn Chính

Thuần và Nguyễn Tinh Trúc thấy việc A Châu, A Tử không có gì làm đẹp đẽ

nên cũng không đề cập tới.

Ở hơn mười ngày, Thôi Bách Tuyền, Quá Ngạn Chi cũng tìm đến. Nơi

Cầm Vận tiểu trúc đất Tô Châu, hai chú cháu lạc mất Đoàn Dự nên đi khắp

nơi dò hỏi nhưng chẳng thấy tung tích đâu, về sau do người của bản môn ở núi

Phục Ngưu, Hà Nam cho hay tin là Trấn Nam Vương nước Đại Lý đến đây

nên từ núi Phục Ngưu chạy tới, thấy Đoàn Dự an toàn không sao, thật mừng

rỡ.

Đoàn Dự sau khi thập tử nhất sinh rồi, nay gặp được đoàn tụ với cha tuy có

vui thật nhưng mối tình tưởng nhớ Vương Ngữ Yên càng ngày càng tăng, đợi

đến kỳ hẹn đánh cờ, được phụ thân đồng ý liền cùng bọn Cổ Đốc Thành phó

hội. Quả nhiên không phụ tấm lòng mong mỏi, nơi kỳ hội chàng được thấy lại

ý trung nhân. Thế nhưng gặp nhau chỉ thêm sầu khổ, gặp hay không gặp đằng

nào hơn, chính chàng cũng không biết nữa.

2 Đoàn người đi chừng hơn hai chục dặm bỗng thấy trước mặt bui bay tung,

khoảng hơn chục người cưỡi ngựa chạy đến, chính là Tam Công nước Đại Lý

Phạm Hoa, Hoa Hách Cấn, Ba Thiên Thạch cùng một số tướng sĩ khác. Những

người đó tới gần nhảy xuống ngựa hành lễ với Đoàn Dự. Thì ra bọn họ phụng

mệnh Đoàn Chính Thuần đến tiếp ứng, sợ rằng trong hội cờ của Lung Á tiên

sinh có gì hung hiểm chăng. Những người đó nghe thấy Đoàn Diên Khánh

cũng có mặt, cũng may không hạ thủ Đoàn Dự, ai nấy đều nổi da gà.

Chu Đan Thần nói nhỏ với bọn Phạm Hoa là Đoàn Dự ở trong kỳ hội gặp

một cô gái xinh đẹp của nhà Mộ Dung Cô Tô, ngơ ngẩn nhìn không chớp mắt,

mất hồn mất vía, lại định đi theo, cũng may đối phương trách cứ mới thôi. Bọn

Phạm Hoa nhìn nhau cười tủm tỉm, người nào cũng nghĩ như nhau: “Tiểu

vương tử phong lưu đã quen, quả là con giòng cháu giống. Thế nhưng nếu vậy

mà quên được chuyện nhớ nhung cô em gái thì cũng là điều hay lắm”.

Đên chiều hôm đó, cả đoàn người ở lại khách điếm ăn cơm. Phạm Hoa kể

lại chuyến đi Giang Nam, nói:

– Công tử gia, nhà Mộ Dung xem ra vô cùng ngụy bí, sau này nếu gặp họ

phải thật cẩn thận mới được.

Đoàn Dự hỏi lại:

– Sao thế?

Phạm Hoa đáp:

– Lần này ba anh em chúng tôi phụng tướng lệnh của vương gia, đến nhà

Mộ Dung ở Yến Tử Ổ đất Tô Châu tra xét, xem có chút dấu vết gì không,

Huyền Bi đại sư của phái Thiếu Lâm có thực là bị nhà Mộ Dung hạ sát chăng.

Thôi Bách Tuyền và Quá Ngạn Chi hết sức quan tâm, cùng lên tiếng hỏi:

– Ba vị có tra xét được chút nào không?

Phạm Hoa đáp:

– Chúng tôi ba người không ngang nhiên đến bái kiến, chỉ tra xét ngầm

thôi, trong nhà Mộ Dung không thấy chủ nhân nam nữ đâu cả, chỉ còn toàn

đầy tớ lão bộc. Cả mấy tòa trang viện to lớn dường ấy mà chỉ có một cô gái

nhỏ tên là A Bích trông nom quán xuyến mọi việc.

Đoàn Dự gật đầu nói:- Ừ, A Bích cô nương là người rất tốt, các vị không làm gì tổn thương cô

ta chứ?

Phạm Hoa mỉm cười:

– Không đâu, chúng tôi tra xét luôn mấy đêm liền, chỗ nào trong trang

viện nhà Mộ Dung cũng có đến, không thấy điều gì khác lạ cả. Ba huynh đệ

đột nhiên nghĩ ra, gã phiên tăng Cưu Ma Trí mời công tử từ Đại Lý đến Giang

Nam, nói là đem đến tế Mộ Dung tiên sinh…

Thôi Bách Tuyền ngắt lời:

– Đúng đó! Hai con a đầu trong Mộ Dung Trang nhất định không chịu dẫn

phiên tăng đi tế mộ, cũng nhờ thế nên công tử gia mới thoát khỏi độc thủ của

gã sư hổ mang kia.

Đoàn Dự gật đầu nói:

– A Châu, A Bích hai vị cô nương quả là người tốt bụng. Không biết họ

bây giờ ra sao rồi?

Ba Thiên Thạch mỉm cười nói:

– Chúng tôi ba đêm liên tiếp đều chỉ thấy A Bích cô nương ngồi may một

chiếc trường bào đàn ông, lẩm bẩm một mình: “Công tử gia đi ra ngoài chừ

lạnh lắm, không biết chừng mô mới quay về?”. Đoàn công tử, phải chăng cô

ta may áo cho công tử chăng?

Đoàn Dự vội đáp:

– Không phải, không phải đâu! Cô ta may áo cho Mộ Dung công tử đó.

Ba Thiên Thạch nói:

– Đúng rồi! Ta xem con tiểu a đầu đó hồn vía đâu đâu, hẳn là nhớ đến

công tử gia nhà thị, thành thử ba người ta đi hết phòng này sang phòng khác

mà thị có hay biết gì đâu.

Y dằn mạnh câu đó để nhắc chừng Đoàn Dự đừng theo thói của cha, đi đâu

vương vãi ái tình đến đó, trong lòng A Bích chỉ nhớ đến Mộ Dung công tử,

Đoàn công tử chớ có tơ tưởng chỉ tổ mất công. Đoàn Dự thở dài một tiếng nói:

– Mộ Dung công tử tuấn nhã vô song, cũng chẳng trách được! Huống chi

hai người lại là anh em cô cậu, từ tấm bé đã có tình thanh mai trúc mã… Phạm Hoa, Ba Thiên Thạch cả bọn ngơ ngác nhìn nhau, nghĩ thầm: “Đứa

thị tì với công tử sao lại có tình thanh mai trúc mã được nhỉ? Anh em cô cậu là

sao?”. Có ai biết được Đoàn Dự nghĩ đến là Vương Ngữ Yên đấy thôi.

Thôi Bách Tuyền hỏi thêm:

– Phạm Tư Mã, Ba Tư Không thử nghĩ xem tên phiên tăng đó định đến tế

mộ Mộ Dung tiên sinh là vì lý do gì? Có liên can gì đến cái chết của sư huynh

tiểu nhân chăng?

Phạm Hoa đáp:

– Ta đưa ra việc này cũng chính là để cho tất cả mọi người xem xét cho tỏ

tường. Hoa đại ca vừa nghe đến chữ “mộ” đã thấy ngứa ngáy tay chân, mới

bảo: “Không chừng trong mả lão già này có cái gì kỳ quái, hay là mình đào

lên xem?”. Ta và Ba huynh không mấy tán thành, họ Cô Tô Mộ Dung danh

mãn thiên hạ, họ Đoàn nhà mình đi đào mả người ta, xem ra quá đáng. Hoa

huynh đệ bèn nói: “Mình len lén đào một địa đạo vào tới nơi, quỉ thần cũng

không hay biết, huống hồ là người?”. Bọn ta cãi không được đành nghe theo.

Ngôi mộ đó chôn ở phía sau trang viện, ở một nơi hết sức kín đáo, không dễ gì

kiếm ra. Ba người chúng ta đào đến nơi, mở quan tài, Thôi huynh có đoán ra

được chăng?

Thôi Bách Tuyền và Quá Ngạn Chi cùng bật dậy hỏi:

– Gì thế?

Phạm Hoa đáp:

– Quan tài trống rỗng, không có xác người!

Thôi Quá hai người há hốc mồm, một hồi lâu không ngậm lại được. Qua

một lúc sau, Thôi Bách Tuyền vỗ đùi nói:

– Tên Mộ Dung Bác kia chưa chết. Y bảo con y đi rảo khắp nơi ở Trung

Nguyên còn y đi ra xa vài nghìn dặm giết người, khiến cho không ai ngờ được.

Sư ca ta… sư ca ta chắc là do tên ác tặc Mộ Dung Bác giết rồi.

Phạm Hoa lắc đầu:

– Thôi huynh cũng đã biết, gã Mộ Dung Bác này võ công cao siêu không

biết đâu mà kể, muốn giết người thì dùng cách gì chẳng được, hà tất phải lưu

lại cái công phu “dĩ bỉ chi đạo hoàn thi bỉ thân” để cho người đời biết được

rằng chính là do nhà Mộ Dung Cô Tô hạ thủ? Trong võ lâm ai chẳng biết yghê gớm như thế, cớ gì lại phải giả chết là sao? Nếu chẳng phải Hoa đại ca có

cái tài kia thì ai mà biết được bí mật đó?

Thôi Bách Tuyền ngồi phịch xuống, y tưởng mình đã tìm ra được chút ánh

sáng le lói, bỗng chốc lại thấy như ở trong đám sương mù. Đoàn Dự nói:

– Trong thiên hạ tuyệt kỹ các môn các phái có đến hàng nghìn hàng vạn,

nếu môn nào cũng hiểu rõ tận cội nguồn, thật khó bằng lên trời, vậy mà sao

nàng lại thông minh tài trí đến vậy, võ công nào cũng rõ như chỉ trong lòng

bàn tay…

Thôi Bách Tuyền tiếp:

– Đúng vậy, chẳng hạn như chiêu Thiên Linh Thiên Liệt, là bí mật của

phái Phục Ngưu không truyền ra ngoài, làm sao y lại biết được để dùng tuyệt

chiêu này giết hại sư ca của tôi?

Đoàn Dự lắc đầu:

– Đương nhiên nàng biết chứ, có điều là sức trói gà không chặt, dẫu biết

tất cả võ công các môn phái, nhưng chính mình thì một chiêu cũng không sử

dụng được, cũng chẳng đời nào hại mạng ai đâu.

Mọi người ngơ ngẩn nhìn nhau, một lát sau ai nấy chầm chậm lắc đầu.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.