Con thuyền chèo tới mỗi lúc một gần, A Châu đột nhiên khẽ bảo: “A Bích, xem kìa! Dường như có sự gì lạ lắm!” A Bích gật đầu nói: “Sao đèn đuốc nhiều thế kia?” Nàng cười khúc khích nói: “A Châu tỉ tỉ ơi! Trong nhà làm gì náo nhiệt như đêm Nguyên Tiêu vậy? Đèn đuốc sáng trưng, không chừng họ làm tiệc sinh nhật cho tỉ tỉ đó.” A Châu lẳng lặng không nói gì, chỉ chăm chăm nhìn ánh đèn lửa chiếu xuống mặt hồ.
Đoàn Dự nhìn từ xa xa, thấy tám chín gian nhà dựng trên một cái cù lao nhỏ, trong đó có hai căn nhà lầu, từ trong cửa sổ ánh đèn chiếu ra. Chàng nghĩ thầm: “Thính Hương Thủy Tạ chỗ A Châu ở chắc so với Cầm Vận Tiểu Trúc của A Bích không khác bao nhiêu. Trong Thính Hương Thủy Tạ chỗ nào cũng đèn lửa huy hoàng, chắc tại A Châu thích náo nhiệt vui chơi”.
Thuyền còn cách Thính Hương Thủy Tạ chừng một dặm, A Châu ngừng chèo nói: “Vương cô nương, trong nhà tiểu tì có địch.” Vương Ngữ Yên giật mình hỏi: “Địch tới rồi ư? Ai thế?” A Châu đáp: “Chưa biết bọn nào, nhưng cô nương thử ngửi xem, mùi rượu xông lên nồng nặc thì đúng là hạng khách bất nhân đến phá quấy rồi.” Vương Ngữ Yên và A Bích cố gắng hít mấy hơi nhưng không ai ngửi thấy gì. Còn Đoàn Dự chỉ “chuyên trị” mùi hương thiếu nữ, những mùi khác thì chàng cũng như người thường mà thôi.
Riêng A Châu có cái mũi thính đặc biệt, nói: “Hỏng bét! Thật là hỏng bét! Bọn chúng lấy cả Mạt Lị Lộ cùng Mai Quế Lộ ra uống. Trời ơi! khổ rồi! Cả vò Hàn Mai Lộ chúng cũng đem ra uống vung uống vãi…” Mấy câu sau nàng nói như muốn khóc.
Đoàn Dự rất lấy làm kỳ hỏi: “Sao mắt cô tinh thế, nhìn được cả những chuyện đó hay sao?” A Châu nghẹn ngào đáp: “Không phải, ngửi thấy đấy chứ. Tiểu nữ mất bao nhiêu công lao mới làm được mấy vò rượu đó, bọn gian ác này đem ra uống mất rồi.” A Bích hỏi: “A Châu tỉ tỉ, phải làm sao đây? Ta tránh đi hay lên bờ động thủ?” A Châu đáp: “Chưa rõ địch nhân có lợi hại lắm không?” Đoàn Dự cũng xen vào: “Phải đó! Nếu chúng lợi hại quá thì ta tránh đi là hơn. Bằng chúng chỉ là hạng tầm thường thì mình sẽ dạy cho chúng một bài học, để cho những đồ trân quý của A Châu tỉ tỉ khỏi bị hư hao thêm nữa.” A Châu đang bực mình, nghe chàng cà khịa nước đôi như thế liền nói: “Tránh kẻ mạnh, dằn mặt kẻ yếu thì ai mà chẳng biết? Thế nhưng công tử làm sao biết kẻ địch ghê gớm hay tầm thường?” Đoàn Dự cứng họng không sao trả lời được.
A Châu nói: “Bọn mình cứ tới xem sao đã, nhưng trước hết phải tìm quần áo cải trang thành dân đánh cá mới được.” Nàng chỉ về hướng đông nói: “Mấy nhà chài lưới kia tôi quen lắm.” Đoàn Dự vỗ tay cả cười nói: “Tuyệt diệu! Tuyệt diệu!” A Châu bèn trở chèo quay sang phía đông, nghĩ đến hóa trang trong bụng phấn chấn, việc đang xảy ra trong nhà không còn làm cho nàng tức tối nữa.
Trước hết nàng đến xóm chài mượn quần áo cùng Vương Ngữ Yên, A Bích ba người thay ra. Bản thân nàng giả làm một bà lão đánh cá còn Vương Ngữ Yên và A Bích thành hai mụ dân chài trung niên. Sau đó mới gọi Đoàn Dự qua, hóa trang chàng thành một ngư nhân chừng bốn mươi tuổi. Thuật hóa trang của A Châu thật tính diệu tuyệt luân. Nàng trát phấn, trát bột cho cả bốn người một loáng đã xong cả, người nào người ấy không còn ai nhận ra được bộ mặt cũ nữa. Nàng lại mượn nào thuyền, nào lưới, nào cần câu, nào cá sống rồi mới chèo về phía Thính Hương Thủy Tạ.
Đoàn Dự và Vương Ngữ Yên tuy tướng mạo có đổi nhưng giọng nói, bộ điệu đầy những sơ hở, học đòi A Châu thế nào được? Vương Ngữ Yên cười nói: “A Châu! Mọi việc đều do ngươi ứng phó, bọn ta chỉ có tài giả câm thôi.” A Châu cười đáp: “Phải lắm, cô nương cứ thế là xong.” .
Chiếc thuyền đánh cá từ từ chèo đến phía sau thủy tạ, Đoàn Dự thấy bốn bề đều trồng dương liễu. Từ trong nhà tiếng nói cười thô lỗ cùng tiếng gọi nhau í ới ầm ĩ từng chập vang ra, thật không xứng với khung cảnh hoa cỏ u nhã, tinh xảo chút nào.
A Châu thở dài ngao ngán, A Bích ghé vào tai nàng nói nhỏ: “A Châu tỉ tỉ! Để tống cổ bọn địch đi rồi, em sẽ giúp chị một tay sắp xếp lại.” A Châu đưa tay nắm tay nàng tỏ vẻ biết ơn.
Nàng dẫn bọn Đoàn Dự ba người lên bờ, đi quanh vào nhà bếp, thấy lão nấu ăn họ Cố đang bận tíu tít, mồ hôi đầm đìa, luôn mồm khạc nhổ vào trong chảo, rồi khuấy trộn đờm dãi vào thức ăn. A Châu trông thấy vừa buồn nôn vừa buồn cười bảo: “Lão Cố! Ngươi làm gì đó?” Lão Cố giật mình đánh thót một cái, quay ra hỏi: “Mụ… mụ…” A Châu cười nói: “Ta là A Châu cô nương đây.” Lão Cố mừng quá nói: “A Châu cô nương, bọn khốn kiếp ở đâu kéo đến, bắt lão phải nấu cho chúng ăn. Cô nương xem này…” Lão vừa nói vừa xì mũi vào chảo thức ăn, rồi toét miệng ra cười hềnh hệch, A Châu chau mày hỏi: “Sao ngươi làm đồ ăn dơ bẩn thế?” Lão Cố vội nói: “Món ăn của cô nương thì trước khi nấu tôi đều rửa tay thật kỹ. Còn cho bạn xấu xa kia ăn thì càng bẩn càng tốt.” A Châu nói: “Lần sau ta thấy đồ ăn lão làm chắc cũng ghê tởm chẳng dám ăn đâu.” Lão Cố vội phân trần: “Không, không phải, hoàn toàn không phải.” A Châu tuy là thị nữ của Mộ Dung công tử nhưng ở Thính Hương Thủy Tạ nàng là chủ, cũng có tì nữ, đầu bếp, thuyền phu, người trồng hoa hầu hạ.
A Châu hỏi thêm: “Bọn địch có đông không?” Lão Cố đáp: “Bọn tới trước chừng mười tám, mười chín người, còn bọn đến sau phải trên hai chục người.” A Châu hỏi: “Những hai bọn kia à? Chúng thuộc về hạng nào? Coi cách ăn mặc và giọng nói có biết chúng ở đâu không?” Lão Cố hậm hực: “Mẹ chúng nó…” Câu chửi tục vừa ra khỏi cửa miệng, lão tự biết là vô lễ, vội đưa tay bịt miệng, sợ hãi tiếp: “Xin lỗi cô nương, lão Cố thật đáng chết, giận quá mất khôn. Hai bọn này thì một là man mọi phương bắc, có vẻ toàn là cường đạo, còn bọn kia là ma quỉ Tứ Xuyên, tên nào cũng mặc áo bào trắng, chẳng biết làm cái giống gì.” A Châu hỏi thêm: “Bọn chúng đến kiếm ai? Có chém giết ai không?” Lão Cố đáp: “Bọn cường đạo đến trước thì kiếm lão gia, bọn quái nhân đến sau thì kiếm công tử. Tôi nói lão gia đã qui tiên rồi, còn công tử vắng nhà, nhưng chúng không tin, lùng khắp nơi tìm kiếm một hồi. Các nha hoàn trong nhà chạy trốn hết, còn mình tôi, tức quá, mẹ…” Lão toan chửi câu nữa nhưng kịp nuốt lời lại, chưa tuôn ra hết câu. A Châu thấy mắt bên trái lão tím bầm, còn một nửa mặt sưng vù lên chắc là bị chúng đánh đau, trách nào lão chẳng nhổ đờm dãi vào các món ăn cho hả giận.
A Châu trầm ngâm một lát rồi nói: “Thôi được, lão nói chưa rõ ràng, để chúng ta lên coi.” Nàng dẫn Ngữ Yên, Đoàn Dự, A Bích ba người theo cửa ngách ra khỏi nhà bếp, đi ngang một dãy hoa nhài, qua hai chiếc cổng tò vò đến bên ngoài hoa sảnh, còn cách vài trượng đã nghe tiếng người huyên náo rất phức tạp.
A Châu rón rén đến gần, giơ ngón tay chọc thủng giấy dán cửa sổ, ghé mắt nhìn vào bên trong. Chỉ thấy phía đông đại sảnh đèn đuốc sáng rực, độ mười tám mười chín đại hán to lớn lực lưỡng đang nhậu nhẹt đầy khí thế. Trên bàn chén bát bừa bãi, dưới đất ghế đổ ngả nghiêng, gã thì ngồi chồm hổm trên bàn, có gã không dùng đũa, tay cầm đùi gà cắn nhai nhồm nhoàm. Có gã lại lấy trường đao cắt thịt bò rồi dùng mũi dao xiên đưa lên mồm.
A Châu lại sang phía tây quan sát, lúc đầu cũng không lưu ý nhưng nhìn lâu một hồi, bất giác sởn gai ốc, sau lưng lạnh toát như bị dội nước lạnh. Hơn hai chục người ở đó đều mặc áo bào trắng, ngồi nghiêm chỉnh, trên bàn thắp một cây nến nhỏ, ánh sáng yếu ớt chiếu ra bất quá độ vài thước vuông. Sáu bảy người ngồi gần ngọn nến nên trông rõ, người nào cũng khô đét, thân hình gầy khẳng kheo, mặt trơ như gỗ, không ra vui cũng không ra giận, nếu không thỉnh thoảng nháy mắt thì ai cũng bảo đó là xác chết.
A Bích đến gần A Châu, cầm lấy tay nàng thì thấy bàn tay lạnh ngắt mà hơi run. A Bích tò mò cũng chọc thủng cửa sổ để ngó trộm. Nàng vừa nhìn vào thì thấy ngay một tên mặt vàng như nghệ đang trừng trừng nhìn mình. A Bích hoảng hốt, khẽ kêu lên một tiếng “trời ơi!”. Bình bình hai tiếng, cửa sổ vỡ tung, bốn người cùng nhảy ra. Hai tên cường đạo phương bắc cùng hai quái khách Tứ Xuyên cùng quát lên: “Ai đó?”
A Châu đáp: “Chúng tôi vừa bắt được mấy con cá, đến hỏi xem lão Cố có mua không. Hôm nay có cả tôm tươi nữa.” Nàng bắt chước giọng Tô Châu, bọn kia nghe không hiểu nhưng thấy bốn người ăn mặc theo kiểu dân chài, tay cầm cá tôm đang giãy tanh tách thì hiểu ngay. Một gã đại hán giật lấy con cá ở trong tay A Châu rồi gọi rối rít: “Nhà bếp! Nhà bếp! Đem mấy con cá này xuống nấu cháo ăn cho giã rượu.” Một gã khác cũng cầm ngay con cá trong tay Đoàn Dự.
Hai tên Tứ Xuyên thấy chỉ là bọn bán cá nên chẳng để ý gì, quay người trở vào trong sảnh. Khi chúng đi qua mặt A Bích, một mùi hôi thối như cá đơn đã mười ngày xông vào mũi nàng. A Bích không nhịn được, giơ tay áo lên bịt mũi, tay áo nàng tụt xuống để lộ cánh tay nhỏ nhắn, trắng như tuyết. Một gã người Tứ Xuyên nhanh mắt trông thấy, sinh nghi: “Một mụ dân chài trung niên da dẻ sao lại trắng trẻo đến thế?”. Gã liền quờ tay ra nắm lấy A Bích hỏi: “Mụ già này bao nhiêu tuổi?” A Bích giật mình hất tay gã ra nói: “Ngươi làm gì thế? Tính đánh nhau chăng?” Giọng nàng êm ái dịu dàng, cái vung tay lại cực kỳ nhanh nhẹn, gã Tứ Xuyên kia thấy cánh tay tê dại hẳn đi.
Bốn gã thấy vậy kêu vang lên, thế là lập tức cả bọn bị lộ tẩy. Hơn mười người từ trong nhà nhảy ra, vây lấy bọn Đoàn Dự. Một gã đại hán thò tay ra giật bộ râu giả của Đoàn Dự, bộ râu rớt xuống đất. Một gã vung tay chụp xuống A Bích, nàng có người đẩy mạnh một cái cho ngã lăn ra. Cả bọn liền lên tiếng quát tháo: “Có gian tế: Có gian tế! Bọn chúng cải trang lọt vào đây. Phải bắt đem ra tra khảo.” Lập tức có bốn tên chạy vào trong nhà bẩm với một lão già ngồi ở phía đông: “Diêu trại chủ! Đã bắt được mấy tên gian tế hóa trang làm dân chài.”
Lão già này tướng mạo khôi ngô hùng vĩ, một chòm râu bạc chùng xuống trước ngực. Lão quát hỏi bọn Ngữ Yên: “Bọn mi làm gian tế ở đâu đến đó? Lấp ló thậm thụt tính làm trò gì đây?” Vương Ngữ Yên nói: “Hóa trang làm một bà già chẳng thú gì cả. Ta không hóa trang nữa đâu.” Nói xong nàng giơ tay lên xoa mặt một cái, những phấn bột nhồi thành vết nhăn rơi xuống lả tả. Bọn hán tử thấy mụ dân chài đứng tuổi đột nhiên biến thành một vị nữ lang nhan sắc tuyệt trần đều há hốc miệng, giương mắt ra mà nhìn. Trong đại sảnh bỗng trở nên im phăng phắc. Bọn quái khách Tứ Xuyên ngồi ở phía tây cũng trố mắt ra nhìn nàng.
Vương Ngữ Yên bảo: “Các ngươi cũng bỏ hết đồ hóa trang đi.” Rồi nàng quay lại nhìn A Bích cười nói: “Chỉ tại ngươi làm tiết lộ.” A Châu, A Bích, Đoàn Dự ba người đều xoa hết những thứ bôi mặt đi. Mọi người đã thấy Ngữ Yên tuyệt đẹp, lại thấy A Châu, A Bích cũng là những vị ‘cô nương hoa nhường nguyệt thẹn đều sửng sốt, không ngờ trên thế gian lại có những người kiều diễm đến thế.
Một lúc sau, lão già to cao kia lại cất tiếng hỏi: “Các ngươi là ai, đến đây có chuyện gì?” A Châu cười nói: “Ta là chủ nhân nơi đây, lại có người ở đâu đến hỏi ta là ai mới kỳ chứ? Bây giờ ta hỏi lại: Các ngươi là ai? Đến đây làm gì?” Lão già kia gật gù : “Thế à? Nếu ngươi là chủ nhân nơi đây càng hay. Phải chăng ngươi là tiểu thư nhà Mộ Dung? Mộ Dung Bác có phải là gia gia ngươi không?” A Châu mỉm cười đáp: “Ta chỉ là một đứa a đầu, làm gì có phúc được làm con gái của lão gia? Các hạ là ai? Đến đây có chuyện gì?” Lão già thấy A Châu tự xưng là một nha hoàn có ý không tin, trầm ngâm giây lát rồi mới nói: “Vậy ngươi đi mời chủ nhân ra đây, ta sẽ nói cho hay đến đây làm gì.” A Châu đáp: “Lão chủ nhân chúng tôi đã qua đời rồi, còn tiểu chủ nhân đi vắng. Các hạ có điều chi cứ nói với tôi cũng được. Tôn tính đại danh các hạ chẳng lẽ cũng không cho tôi biết được hay sao?” Lão già đáp: “Ta là Diêu trại chủ Tần Gia Trại ở Vân Châu. Diêu Bá Đương chính thị là ta.” A Châu nói: “Hâm mộ đại danh đã lâu.” Diêu Bá Đương cười nói: “Ngươi còn là cô bé nhỏ xíu, biết gì mà hâm mộ ta đã lâu?”
Vương Ngữ Yên nói: “Tần Gia Trại ở Vân Châu nổi tiếng về môn Ngũ Hổ Đoạn Môn Đao. Năm xưa Diêu Công Vọng tiền bối sáng chế ra tất cả sáu mươi tư chiêu. Người sau quên mất năm chiêu, tôi nghe nói ngày nay chỉ còn truyền lại năm mươi chín chiêu. Diêu trại chủ! Trại chủ học được bao nhiêu chiêu rồi?”
Diêu Bá Đương cả kinh buột miệng hỏi ngay: “Ngũ Hổ Đoạn Môn Đao của Tần Gia Trại chúng ta nguyên thủy có sáu mươi tư chiêu, sao ngươi lại biết được?” Vương Ngữ Yên đáp: “Trong sách có chép như vậy, chẳng biết có đúng không. Năm chiêu bị mất là Bạch Hổ Khiêu Giản, Nhất Khiếu Phong Sinh, Tiễn Phác Tự Như, Hùng Bá Quần Sơn, còn chiêu thứ năm là gì nhỉ? Ồ, là Phục Tượng Thắng Sư, có đúng không nào?”.
Diêu Bá Đương vuốt râu ngẫm nghĩ. Lào biết rằng đao pháp của phái mình có khiếm khuyết mất năm chiêu rất quan trọng, nhưng đến bây giờ chẳng ai hiểu những chiêu nào bị thất truyền. Bây giờ lão nghe Vương Ngữ Yên đọc ra vanh vách thì trong bụng vừa kinh ngạc vừa hoài nghi, không biết đáp lại ra sao.
Trong đám quái khách bào trắng ngồi ở mé tây có một gã hán tử tuổi ngoại tứ tuần cất tiếng lạnh lùng hỏi Ngữ Yên: “Ngũ Hổ Đoạn Môn Đao của Tần gia trại bị thiếu mất năm chiêu, Diêu trại chủ nhất thời không nhớ ra. Xin hỏi cô nương gọi Mộ Dung Bác bằng gì?” Vương Ngữ Yên đáp: “Mộ Dung lão gia là cữu phụ tôi. Còn tôn tính đại danh các hạ là gì?” Gã hán tử cười lạt đáp: “Cô nương học vấn uyên thâm, mới trong qua đã hiểu thấu đáo võ công của Diêu trại chủ. Vậy lai lịch tại hạ thế nào cô nương thử đoán coi!” Vương Ngữ Yên mỉm cười nói: “Các hạ thử phô trương một chút thân thủ may ra tôi đoán được chăng? Chỉ nói suông vài câu thì chịu.”
Gã hán tử gật đầu đáp: “Đúng thế!” Đoạn gã đút tay trái vào tay áo bên phải, tay phải vào tay áo bên trái, tựa như trời rét phủ tay cho ấm nhưng lúc rút tay ra, mỗi tay đã cầm một loại binh khí hình dạng lạ lùng. Tay trái là một cái dùi sắt dài chừng sáu bảy tấc, mũi dùi lại cong cong, còn tay phải cầm một cái búa dài chừng một thước, đầu cây búa này hình bát giác còn nhỏ hơn nắm tay người. Hai thứ binh khí này nhỏ bé xinh xắn, tựa như đồ chơi của trẻ nít. Cứ trông bề ngoài thì những thứ này dùng để đánh nhau không tiện chút nào. Những đại hán phương bắc ngồi bên phía đông nhìn thấy món binh khí cổ quái đó có mấy người phải phì cười. Một gã nói: “Bọn trẻ nít ở đất Xuyên đem đồ chơi cho mọi người coi đó.” Những người phía tây nghe nói thế ai nấy trừng mắt hầm hầm nhìn y.
Vương Ngữ Yên nói: “Ồ, đây là Lôi Công Oanh. Chắc các hạ sở trường về khinh công và ám khí. Trong sách có viết Lôi Công Oanh là binh khí độc đáo của phái Thanh Thành ở Thanh Thành Sơn đất Tứ Xuyên. Chữ Thanh có chín phép đánh, còn chữ Thành có mười tám phép phá thật là kỳ lạ biến trá không biết đâu mà lường. Phải chăng các hạ ở họ Tư Mã?”.
Gã đó vốn mặt lầm lì, nghe nàng nói mấy câu mặt liền biến sắc, luôn cả ba người ngồi bên cạnh y cũng lấm lét nhìn nhau. Một lúc sau gã mới nói: “Võ học nhà Mộ Dung ở Cô Tô quả là uyên thâm không ai bì kịp, tiếng đồn thật chẳng sai. Tại hạ là Tư Mã Lâm xin hỏi lại cô nương: có phải quả thực chữ Thanh có chín phép đánh, chữ Thành có mười tám phép phá hay không?” Vương Ngữ Yên đáp: “Các hạ hỏi vậy là phải. Theo tôi thì chữ Thanh phải nói là có mười phép đánh mới đúng, Thiết Bồ Đề và Thiết Liên Tử bề ngoài tuy giống nhau nhưng cách ứng dụng lại khác nhau xa không thể hợp vào một được. Còn như chữ Thành tuy nói là có mười tám phép phá nhưng Phá Giáp, Phá Thuẫn, Phá Bài chẳng có gì là kỳ dị đặc biệt, có vẻ như cố ý đặt ra cho đủ số mười tám, thực sự thì nếu gom lại thành mười lăm hay mười sáu phép phá lại có vẻ hay hơn.”.
Tư Mã Lâm nghe nói mà há hốc mồm, về chữ Thanh y chỉ mới học được có bảy phép đánh, việc phân biệt Thiết Liên Tử và Thiết Bồ Đề nào có biết gì đâu. Còn Phá Giáp, Phá Thuẫn, Phá Bài là ba môn võ công y đắc ý nhất và tự cho là những tuyệt kỹ trấn sơn của phái Thanh Thành thì không ngờ lại bị thiếu nữ bảo bỏ đi vì không ích gì. Y lúc đầu thì kinh hãi thực nhưng sau đó chuyển qua tức tối nghĩ thầm: “Nhà Mộ Dung biết võ công cũng như tên tuổi của ta từ lâu rồi, họ định làm bẽ mặt mình nên thêu dệt ra những chuyện quái quỷ rồi cho một cô gái nhỏ tuổi ra khoác lác.” Y vẫn giữ thái độ bình tĩnh đáp: “Đa tạ cô nương chỉ giáo khiến tại hạ như ở chỗ tối tăm được nhìn thấy ánh sáng.”Y trầm ngâm một lát rồi quay sang gã ngồi bên tả nói: “Chư sư đệ! Sư đệ ra lĩnh giáo cô nương đi!”
Chư Bảo Côn mặt đầy sứt sẹo trông thật xấu xa, xem chừng còn lớn hơn Tư Mã Lâm vài ba tuổi. Y đã mặc áo bào trắng, đầu còn quấn khăn trắng, chẳng khác chi người vận hiếu phục, dưới ánh nến mơ hồ thật đầy âm khí. Y đứng lên thò tay vào tay áo rút ra một cái đùi và một cái búa, giống hệt Lôi Công Oanh của Tư Mã Lâm, nói: “Xin cô nương chỉ điểm cho!”
Những người xung quanh đều mắng thầm: “Binh khí của mi chẳng khác gì của Tư Mã Lâm, cô gái này đã hiểu rõ Tư Mã Lâm chẳng lẽ lại không biết mi hay sao?”. Quả nhiên Vương Ngữ Yên cũng đáp: “Các hạ đã sử dụng Lôi Công Danh thì dĩ nhiên cũng trong phái Thanh Thành chứ gì?” Tư Mã Lâm nói: “Chư sư đệ đây đã biết võ nghệ rồi mới đến Thanh Thành nhập môn. Gốc tích y ở môn phái nào, mong được tuệ nhãn của cô nương xem xét,”, nghĩ bụng: “Chư sư đệ vốn ở môn phái nào đến chính ta cũng không biết rõ, nếu như ngươi đoán ra được thì quả là kỳ lạ.” Vương Ngữ Yên nghĩ thầm: “Vấn đề này nan giải đây”.
Nàng chưa kịp đáp thì Tần trại chủ Diêu Bá Đương ngồi bên kia đã cướp lời: “Tư Mã chưởng môn! Chưởng môn yêu cầu cô nương vạch rõ bộ mặt thật của lệnh sư đệ là có ý gì vậy? Làm như thế có phải bẽ mặt nhau không?” Tư Mã Lâm ngạc nhiên hỏi: “Có gì mà bảo là bẽ mặt nhau?” Diêu Bá Đương cười châm chọc: “Diện mạo lệnh sư đệ nay đã chạm trổ tinh vi, bộ mặt thật của y bây giờ đố ai suy đoán cho nổi.” Bọn đại hán ngồi bên phía đông đều phá lên cười sằng sặc.
Bình nhật Chư Bảo Côn ghét cay ghét đắng kẻ nào cười y mặt rỗ sứt sẹo, nay nghe Diêu Bá Đương công nhiên chế giễu mình trước mặt mọi người thì nhịn sao được? Y chẳng nể mặt Diêu Bá Đương là một tay có thế lực ở phương bắc, lại làm chủ một trại, chiếc dùi bên tay trái liền đâm ra nhắm thẳng vào ngực, chiếc búa tay phải gõ vào chuôi dài một cái, chỉ nghe rít lên, một món ám khí xé bầu không khí bắn đến trước ngực Diêu Bá Đương.
Tần Gia Trại và phái Thanh Thành từ khi mới đến Thính Hương Thủy Tạ đã chẳng bên nào giữ lễ với bên nào, bên này lườm qua thì bên kia cũng nguýt lại, nếu bọn Vương Ngữ Yên không đến hai bên ắt đã choảng nhau. Diêu Bá Đương mở lời châm chọc, bản ý vốn chỉ muốn khích bác đối phương, ngờ đâu người ta chẳng nói chẳng rằng đã hạ độc thủ ngay. Ám khí đó thật là thần tốc, trong cơn nguy cấp y không kịp rút đao ra gạt, vội đưa tay chộp ngay cái chân nến trên bàn nhắm thẳng vào đập một cái, nghe “keng” một tiếng vang dội, ám khí bắn lên xà nhà. Nhìn lại thì ra một mũi cương châm, tuy chỉ dài hơn ba tấc nhưng sức mạnh vô cùng. Hổ khẩu Diêu Bá Đương tê dại đi, cái chân nến rơi luôn xuống đất kêu loảng xoảng.
Bọn Tần gia trại vừa rút đao ra vừa la hét vang dội: “Dùng ám khí hại người, thật là đồ hèn nhát.” “Bắn lén đả thương người thì còn chó gì là anh hùng hảo hán?” “Con bà thằng mặt dầy, thật là vô liêm sỉ!” Một gã béo ị mồm miệng lại càng thô tục, lôi mười tám đời tổ tông đối phương ra mà chửi bới. Cả bọn phái Thanh Thành trước sau vẫn lặng yên không nói một lời. Quần hào Tần gia trại chửi mắng thế nào họ cũng lờ đi như không nghe tiếng.
Diêu Bá Đương trong cơn hoảng hốt chụp vội cái chân nến nên cầm không chắc, nhưng đối với một người đã tu tập mấy chục năm mà để chiếc kim nhỏ xíu đánh rơi vật đang ở trong tay, theo qui củ võ lâm thế là thua một đòn rồi. Lão nghĩ bụng: “Võ công đối phương có vẻ tà môn, nghe tiểu cô nương này nói, phái Thanh Thành có chín phép đánh trong chữ Thanh, chắc toàn là công phu lén lút, ám toán bất ngờ.” Y liền khoát tay ra hiệu cho thuộc hạ yên lặng, cười nói: “Vừa rồi Chư huynh đệ xuất thủ quả là lợi hại, mà cũng thật là âm độc. Chiêu đó tên là gì thế?” Chư Bảo Côn chỉ cười khành khạch chứ không trả lời.
Gã đại hán béo ị bên Tần gia trại nói móc: “Chắc là chiêu Mặt Dày Ám Toán.” Một tên trung niên cười nói: “Nếu mặt hắn không dày thì làm sao lắm hố rãnh sâu thế kia, chiêu đó quả là tên sao người vậy, hợp lý quá, hợp lý quá!” Ngôn ngữ cứ nhắm vào cái mặt rỗ của đối phương mà chọc ghẹo.
Vương Ngữ Yên lắc đầu, nhỏ nhẹ nói: “Diêu trại chủ: Trại chủ có điều lầm lỗi rồi.” Diêu Bá Đương ngạc nhiên: “Cô nương bảo sao?” Vương Ngữ Yên đáp: “Bất luận là ai cũng khó lòng giữ cho thân thể khỏi bị tàn tật. Khi còn nhỏ đi đứng sơ ý té một cái cũng có thể bị què chân. Giao chiến với người khác, không địch nổi cũng có thể bị đui mắt, cụt tay là thường. Bằng hữu trong võ lâm, thân thể bị tổn thương phỏng có chi là lạ? Có phải thế không?” Diêu Bá Đương nghe vậy chỉ đáp gọn một tiếng: “Vâng.” Vương Ngữ Yên nói tiếp: “Vị Chư gia này thuở bé chẳng may bị bệnh, trên người có tì vết, sứt sẹo thì có gì đáng cười? Nam tử hán đại trượng phu, phải luận đến thứ nhất là bụng dạ nhân phẩm, thứ hai là tài cán sự nghiệp, thứ ba là văn học võ công. Dung mạo có tuấn tú hay không cũng chẳng can hệ gì.”
Diêu Bá Đương không cãi vào đâu được dành cười khà khà đáp: “Tiểu cô nương nói thật đúng lý. Đã thế thì xin lỗi Chư huynh đệ về câu giễu cợt vừa rồi.” Vương Ngữ Yên mỉm cười nói: “Lão gia thản nhiên nhận lỗi, quả thực quang minh lỗi lạc.” Nàng quay sang Chư Bảo Côn lắc đầu nói: “Đừng hành động nữa! Cái đó vô dụng!” Nàng nói mấy câu đó nét mặt ôn nhu, lại có vẻ khuyến khích, tựa như cô chị nhìn thấy cậu em mồ hôi nhễ nhại ráng làm chuyện gì ngoài sức của mình nên ra lời khuyên nhủ, giọng nói cực kỳ thân thiết.
Chư Bảo Côn nghe nàng nói trong võ lâm nếu như thân thể có thương tổn gì thì cũng là chuyện thường như cơm bữa, nam tử hán đại trượng phu phải lấy phẩm cách sự nghiệp làm đầu, trong lòng hết sức hả hê. Trong đời y từ trước tới giờ, trong lòng lúc nào cũng buồn bực về cái bộ mặt rỗ chằng rỗ chịt mà chưa từng được ai vì mình mà phân giải một cách thành khẩn và hữu lý như thế! Khi nghe nàng nói đến câu: “Đừng hành động nữa, cái đó vô dụng”, y không hiểu ra sao liền hỏi lại: “Cô nương nói sao?” Y nghĩ bụng: “Chắc nàng cho rằng môn Thiên Vương Bổ Tâm Châm của ta không dùng được chăng? Nàng có biết đâu trong cái đùi này có đến mười hai mũi cương châm. Nếu ta phát ra liên tiếp, thì tính mạng lão già đã đi đứt từ lâu rồi. Có điều trước mặt Tư Mã Lâm ta không muốn tiết lộ âm mưu mà thôi.”
Lại nghe Vương Ngữ Yên nói tiếp: “Thiên Vương Bổ Tâm Châm của Chư gia quả là một thứ ám khí cực kỳ bá đạo…” Chư Bảo Côn giật mình đánh thót, kêu “A” lên một tiếng, Tư Mã Lâm và hai cao thủ khác của phái Thanh Thành cũng ngạc nhiên kêu lên: “Cái gì?” Chư Bảo Côn biến sắc, đánh trống lảng: “Cô nương nói sai rồi. Đây không phải là Thiên Vương Bổ Tâm Châm mà là ám khí của phái Thanh Thành chúng tôi, tên là Thanh Phong Đinh, phép đánh thứ tư trong chữ Thanh.”
Vương Ngữ Yên tủm tỉm cười đáp: “Thanh Phong Đinh bề ngoài coi cũng giống thế. Chư gia bắn Thiên Vương Bổ Tâm Châm dùng khí cụ, thủ pháp y hệt như Thanh Phong Đinh. Thế nhưng ám khí bản chất không căn cứ vào hình thức bên ngoài hay tư thế phát xạ mà là ở kình lực và khí thế. Mỗi khi bắn một mũi cương tiêu, phái Thiếu Lâm có thủ kình của phái Thiếu Lâm, phái Côn Lôn có thủ kình của phái Côn Lôn, không thể miễn cưỡng làm cho giống nhau được. Môn này của Chư gia là…”
Đôi mắt Chư Bảo Côn bỗng dưng lộ hung quang, sát khí đằng đằng, chiếc dùi liền đưa lên ngang ngực, chỉ cần lấy búa gõ vào cán một cái thì cương châm ở trong sẽ bắn thẳng vào Ngữ Yên. Trong số người chung quanh có quá nửa kêu toáng lên, mới đây thấy y bắn Diêu Bá Đương, thế đi rất mau, kình lực rất mạnh, trong các loại ám khí hiếm thấy loại nào sánh kịp. Hiển nhiên trong chiếc dùi rỗng đó có đặt máy móc chứ sức người thì không thể nào mạnh đến thế. Huống chi mũi dùi lại cong cong, không ai ngờ rằng lại dùng để bắn ám khí, có biết đâu cái nòng nằm trong dùi lại thẳng tắp. Cũng may Diêu Bá Đương mặt tinh tay lẹ mới thoát được kiếp nạn, còn như bắn vào Vương Ngữ Yên thì một cô gái xinh đẹp liễu yếu đào tơ thế kia làm sao tránh kịp? Thế nhưng Chư Bảo Côn thấy nàng kiều diễm như thế không nỡ ra tay, lại thêm mới đây nàng biện giải cho mình trong lòng cảm kích bèn chỉ quát lên: “Cô nương! Đừng có nhiều lời nữa mà tự mang lấy họa vào thân”.
Ngay lúc đó một người đã vọt lên chặn trước mặt Vương Ngữ Yên, chính là Đoàn Dự.
Vương Ngữ Yên mỉm cười nói: “Đa tạ Đoàn công tử. Chư đại gia, ông không ra tay giết tôi, tôi cũng cảm ơn. Thế nhưng dẫu ông có hạ thủ thì cũng vô ích. Hai phái Thanh Thành, Bồng Lai đời đời cừu thù nhau, cái việc ông âm mưu đồ hơn tám mươi năm trước, chưởng môn đời thứ bảy của quí phái là Hải Phong Tử đạo trưởng đã từng thử qua. Tài năng cũng như võ công ông ta chắc không kém gì Chư gia đâu.” Những cao thủ trong phái Thanh Thành, người nào cũng chằm chặp nhìn vào Chư Bảo Côn, đầy vẻ nghi hoặc, tự hỏi: “Không lẽ y là môn hạ của phái Bồng Lai, kẻ tử thù đối đầu phái Thanh Thành chúng ta, trà trộn được vào trong môn phái mình? Sao giọng y rặt Tứ Xuyên, không để lộ chút khẩu âm Sơn Đông nào?”.
Nguyên phái Bồng Lai ở bán đảo Sơn Đông, hùng cứ cả miền Đông Hải, Phái Thanh Thành thì ở Tứ Xuyên. Tuy một phái ở phía Đông, một phái ở phía Tây. Tuy xa cách riêng biệt nhau, nhưng hơn một trăm năm trước cao thủ hai phái đã gây thù kết oán, từ đó báo thù qua lại, gây nên thảm họa chém giết, không gỡ ra được nữa. Cả hai phái đều có những võ công tuyệt diệu để cùng khắc chế lẫn nhau. Ngày xưa đệ tử trong hai phái hiềm khích ban đầu cũng chỉ vì đàm luận võ công mà nên nỗi. Trước sau mấy chục lần đại chiến, chém giết thê thảm, phái Bồng Lai không thắng được phái Thanh Thành mà phái Thanh Thành cũng không thể nào thắng được phái Bồng Lai. Lần nào tranh chấp cũng mãnh liệt, để rồi cao thủ hai bên đi đến chỗ lưỡng bại câu thương, đồng qui ư tận.
Hải Phong Tử, người mà Vương Ngữ Yên vừa nhắc đến là một nhân tài kiệt xuất của phái Bồng Lai. Ông ta tham khảo, nghiên cứu kỹ càng các chỗ ưu khuyết điểm và sở trường sở đoản của cả hai môn phái, biết rằng với công phu tu luyện của mình, đời này lấn được phái Thanh Thành không phải là chuyện khó.
Thế nhưng sau khi mình qua đời rồi, nếu phái Thanh Thành có được một nhân vật thông minh tài trí thì lại lấn được phái mình. Thành thử muốn mất công một lần mà nhàn hạ muôn đời, thì chỉ có cách gửi tên đồ đệ xuất sắc nhất trà trộn vào phái Thanh Thành để học lén võ công, sau này phái Bồng Lai tất biết mình biết người, trăm trận trăm thắng. Nhưng tên đồ đệ đó chưa học được thành tài đã bại lộ hành tung, rồi bị phái Thanh Thành đem ra xử tử tức khắc. Từ đó trở đi, hai bên cừu oán càng sâu, vấn đề phòng bị đối phương học lén võ công càng thêm cẩn mật.
Mấy chục năm từ đó, phái Thanh Thành qui định không thu học trò là người phương Bắc, chẳng cứ gì là người Sơn Đông, mà dù cho là Hà Bắc, Hà Nam, Sơn Tây, Thiểm Tây chỉ pha giọng miền Bắc một chút cũng không nhận. Gần đây, quy luật lại còn nghiêm ngặt hơn, tức là không thu nhận bất cứ một ai ở các nơi khác ngoài địa hạt Tứ Xuyên.
Thanh Phong Đinh là ám khí độc môn của phái Thanh Thành, còn Thiên Vương Bổ Tâm Châm là của phái Bồng Lai, Chư Bảo Côn rõ ràng bắn Thanh Phong Đinh mà Vương Ngữ Yên lại bảo là Thiên Vương Bổ Tâm Châm khiến cho tất cả những nhân vật phái Thanh Thành ở đây đều kinh sợ vô cùng. Phái Bồng Lai cũng có qui luật nghiêm ngặt không kém phái Thanh Thành, chỉ thu nhận đồ đệ người tỉnh Sơn Đông, mà trong tỉnh này, họ lại chỉ ưu tiên người Lỗ Đông thôi. Người Lỗ Tây và Lỗ Nam muốn vào làm môn hạ phái Bồng Lai thì thiên nan vạn nan. Một người dù giả trang giỏi đến đâu cũng có lúc để lộ sở hở, nói chuyện một nghìn câu thể nào chẳng lọt vào vài tiếng khẩu âm quê mình. Chư Bảo Côn là người họ Chư đất Quán Huyện, là một thế gia đại tộc của đất Tây Xuyên, sao lại có thể là môn hạ của phái Bồng Lai được? Đó là một sự kỳ quặc không ai ngờ đến. Tư Mã Lâm thoạt tiên muốn Vương Ngữ Yên đoán thử lai lịch của Chư Bảo Côn chẳng qua là do bản tính hiếu kỳ muốn thử cô gái, chứ chẳng phải có bụng hoài nghi sư đệ. Ngờ đâu y lại được một câu trả lời kinh tâm động phách đến vậy.
Người kinh hoàng nhất trong bọn lại chính là Chư Bảo Côn. Thì ra sư phụ của y là Đô Linh đạo nhân, lúc còn nhỏ tuổi bị phái Thanh Thành chơi cho một vố đau nên trong bụng chăm chăm chuyện báo thù, đến vùng Tứ Xuyên dò la ngõ ngách để tìm chỗ sơ hở của đối phương. Năm đó ông ta đi đến Quán Huyện trông thấy Chư Bảo Côn, khi đó chỉ mới là một đứa trẻ nhưng căn cốt thật tốt, đúng là một lương tài học võ nên nghĩ ra một kế. Ông sai người giả dạng làm kẻ cướp, lẻn vào trong nhà họ Chư, bắt trói gia chủ, cướp bóc xong rồi toan giết cả nhà để bịt miệng, lại còn định cưỡng hiếp cả hai cô con gái. Đô Linh Tử đợi sẵn bên ngoài, tới lúc nguy cấp như ngàn cân treo sợi tóc mới nhảy vào đánh đuổi hết bọn cướp giả mạo, đoạt lại toàn bộ tài vật, bảo tồn được thanh bạch cho hai nữ lang nhà họ Chư khiến gia chủ thật cảm kích không để đâu cho hết.
Lúc đó Đô Linh Tử mới khuyên nhủ: “Nếu không có võ nghệ cao cường, dù có gia tài trăm vạn cũng khó mà tránh được bọn gian tà hiếp đáp. Bọn đạo tặc kia võ công không phải tầm thường, lần này tuy thất bại nhưng thể nào rồi cũng quay trở lại.” Nhà họ Chư là một thế gia rất tiếng tăm ở địa phương, thấy những võ sư bảo vệ bị bọn cướp đấm đá mấy cái đã ngã lăn quay, lại nghe nói quân cướp còn tới nữa, hồn vía lên mây, hết sức năn nỉ Đô Linh Tử lưu lại. Đô Linh Tử cũng từ chối lấy lệ rồi mới miễn cưỡng nhận lời, chẳng bao lâu đã chính thức nhận Chư Bảo Côn làm đồ đệ.
Ngoại trừ việc dụng ý thâm hiểm để báo thù phái Thanh Thành, Đô Linh Tử cũng không phải là người xấu, về võ công lại rất cao cường. Ông ta dặn nhà họ Chư giữ thật kín, chỉ ngầm luyện võ cho Chư Bảo Côn. Mười năm sau, Chư Bảo Côn đã thành nhân vật đệ nhất đệ nhị trong phái Bồng Lai. Đô Linh Tử là người cực kỳ nhẫn nại. Từ ngày lưu trú ở Chư phủ, ông giả làm người câm thủy chung không nói với ai lấy nửa lời. Trong lúc dạy võ, ông chỉ toàn viết chữ vẽ đồ hình cùng làm điệu bộ, tuyệt nhiên không nói một câu thổ âm Sơn Đông nào cả. Thành thử Chư Bảo Côn tuy cùng ông ta mười năm sớm tối ở cạnh nhau, nhưng không hề nghe một câu nào giọng Sơn Đông.
Đến khi Chư Bảo Côn thành tài rồi, Đô Linh Tử mới kể rõ nguyên ủy những tiền nhân hậu quả giữa phái Thanh Thành và phái Bồng Lai, dĩ nhiên việc sai người giả dạng làm quân cướp thì ông giấu kín không nhắc tới, để tùy đồ đệ tự quyết. Trong lòng Chư Bảo Côn, sư phụ không những là người cứu mạng toàn thể gia đình mình, mà trong hơn mười năm qua ân trạch thâm hậu, dốc túi truyền thụ võ công nên thật là cảm kích. Khi y rõ được ước nguyện của thầy rồi liền không chút do dự, xin gia nhập vào làm môn hạ Tư Mã Vệ ở phái Thanh Thành, Tư Mã Vệ chính là phụ thân của Tư Mã Lâm.
Lúc đó, Chư Bảo Côn đã lớn tuổi, hơn nữa y lại tự giới thiệu là đã học qua mấy đường quyền cước do võ sư ở trong nhà dạy, nên Tư Mã Vệ có ý không muốn thu nhận. Thế nhưng họ Chư là một nhà đại tài chủ đất Xuyên Tây, nhiều tiền lại có thế lực. Thanh Thành tuy là một phái võ nhưng gốc rễ vẫn là ở đây, không muốn mất hòa khí với một hào môn địa phương. Ông ta lại nghĩ nếu thu một đồ đệ người họ Chư thì chỉ có thêm thanh thế cho bản phái, nên sau cùng chấp thuận. Đến khi truyền dạy võ nghệ, ông ta thấy võ công Chư Bảo Côn không phải là kém, căn vặn mấy lần, y cũng chỉ tìm lời chống chế cho xuôi chuyện. Tư Mã Vệ vẫn nể mặt phụ thân y nên không bức bách quá, ông cũng cho là hạng công tử nhà giàu mà học được võ công như thế cũng không phải là chuyện dễ.
Chư Bảo Côn gia nhập phái Thanh Thành rồi lại được Đô Linh Tử dặn bảo kỹ càng là phải gia tâm nghiên cứu võ công phái Thanh Thành. Mỗi năm gặp kỳ tốt nhất, y đem biếu xén sư phụ, sư huynh và các anh em đồng môn lễ vật thật hậu hĩ. Sư phụ cần dùng gì, y đều chiều theo tức khắc, trong nhà lại lắm tiền sẵn bạc thành thử chuyện gì cũng dễ dàng. Tư Mã Vệ yêu quí y vô cùng, đem hết võ công truyền thụ cho không giấu giếm tí gì, vì thế mà Chư Bảo Côn không kém gì Tư Mã Lâm, học được hết tuyệt kỹ phái Thanh Thành.
Mấy năm trước Đô Linh Tử đã từng gọi y du ngoạn đến núi Bồng Lai vùng Sơn Đông, biểu diễn lại võ công của phái Thanh Thành để nghiên cứu những điều bí diệu, hầu sau này đánh một trận là phá tan được đối phương. Song Chư Bảo Côn mấy năm làm môn hạ phái Thanh Thành, cảm thấy Tư Mã Vệ đối với y quả thật chí tình, truyền thụ võ công so với các đệ tử thân tín khác không có gì khác biệt. Bây giờ y nghĩ tới việc mình ra tay tiêu diệt phái Thanh Thành, giết toàn gia Tư Mã Vệ, trong lòng rất là bất nhẫn. Y mới ngấm ngầm quyết định, đợi sau khi Tư Mã Vệ qua đời rồi mới ra tay. Còn Tư Mã Lâm sư huynh đối với y cũng bình thường, giết đi cũng chẳng có gì đáng kể. Vì thế nên y trùng trình thêm mấy năm nữa. Đô Linh Tử đã mấy lần thôi thúc, Chư Bảo Côn đều tìm cách thoái thác rằng: “Chín thế đánh của chữ Thanh hình như chưa đủ, mà mười tám thế phá của chữ Thành tựa hồ còn có bí quyết nào chưa biết.” Đô Linh Tử đã tốn bao nhiêu tâm huyết, khi nào lại không theo đuổi đến cùng, nên cố đợi cho y học hết mới ra tay.
Thế nhưng mùa đông năm ngoái, Tư Mã Vệ bị người ta dùng công phu Phá Nguyệt Trùy giết chết ở gần Bạch Đế Thành, Xuyên Đông. Môn Phá Nguyệt Trùy là một trong mười hai thế phá trong chữ Thành, tuy có chữ Trùy nhưng lại không phải sử dụng dùi sắt mà là chụm đầu ngón tay lại thành hình cái dùi nhọn phóng tới, dùng nội lực hùng hậu đánh thủng màng tai, vào sâu tới óc đối phương.
Tư Mã Lâm và Chư Bảo Côn ở Thành Đô nghe được tin đó liền đi suốt ngày đêm tới nơi, tra xét minh bạch thương thế của Tư Mã Vệ. Hai người vừa kinh hãi, vừa đau lòng, nghĩ thầm trong bản phái ngoài Tư Mã Vệ, chỉ có Tư Mã Lâm, Chư Bảo Côn và hai vị cao thủ kỳ cựu nữa là biết sử dụng công phu Phá Nguyệt Trùy. Nhưng trong lúc biến cố xảy ra thì cả bốn người cùng ở với nhau một chỗ tại Thành Đô, nên họ không hiềm nghi gì nhau cả. Thành ra kẻ giết Tư Mã Vệ ngoài Cô Tô Mộ Dung hay dùng lối gậy ông đập lưng ông ra, không thể nào có người khác được. Thế là phái Thanh Thành chiêu tập tất cả những nhân vật cao thủ kéo tới Cô Tô tìm Mộ Dung để đòi nợ máu.
Trước khi đi, Chư Bảo Côn đã ngầm hỏi Đô Linh Tử về vụ này xem có phải người phái Bồng Lai đã nhúng tay vào không. Đô Linh Tử viết thư trả lời: “Võ công Tư Mã Vệ với ta cũng ngang nhau thôi, một mình ta ra tay ám toán thì chỉ có cách dùng Thiên Vương Bổ Tâm Châm mới lấy mạng y được. Còn nếu nhiều người vây đánh thì phải dùng Thiết Quái Trận của bản phái.” Chư Bảo Côn cho là rất đúng, y đã biết rõ bản lĩnh của hai sư phụ không ai hạ nổi ai. Nếu nói là dùng Phá Nguyệt Trùy để giết Tư Mã Vệ, thì đừng nói là Đô Linh Tử không biết môn công phu này, mà dù có biết chăng nữa cũng không thể thắng được Tư Mã Vệ. Thế là Chư Bảo Côn không còn hoài nghi gì nữa, đi theo Tư Mã Lâm đến Giang Nam để báo thù. Đô Linh Tử cũng không ngăn cản, dặn y việc gì cũng nên cẩn thận, chỉ cần thêm lịch duyệt, rộng kiến văn, chứ đừng vì phái Thanh Thành mà bỏ mạng.
Khi đến Tô Châu, cả bọn chia nhau dò hỏi tin tức mò tới được Thính Hương Thủy Tạ, không ngờ bọn Tần gia trại ở Vân Châu đã đến đó trước. Phái Thanh Thành môn qui rất nghiêm, nếu không có hiệu lệnh của chưởng môn thì không ai dám nói bừa làm ẩu. Chúng thấy bọn đạo tặc bên Tần gia trại quậy phá loạn lên thì không khỏi khinh rẻ, hai bên nói năng chẳng còn nể nang gì nữa. Người bên phái Thanh Thành dốc chí vào việc báo cừu cho nên cây cỏ cũng không đụng đến, tự mang lương khô đi để dùng. Làm như thế cũng có cái lợi là không phải thưởng thức bao nhiêu đờm rãi cùng những chất ô uế ở chân tay của lão Cố.
Không ngờ Vương Ngữ Yên và bọn A Châu đột nhiên về tới nơi, khiến cho sự tình biến diễn một cách kỳ dị ngoài sức tưởng tượng. Chư Bảo Côn dùng thủ pháp của phái Thanh Thành phát xạ Thanh Phong Đinh, ngay cả Tư Mã Vệ nếu còn sống cũng không nghi ngờ gì. Thế mà một cô gái trẻ tuổi như Vương Ngữ Yên lại bất ngờ nhìn ra được. Chư Bảo Côn không kịp phòng bị, toan giết nàng để diệt khấu nhưng vì lòng bất nhẫn không nỡ hạ thủ nên chậm tay một chút, thành ra không kịp nữa rồi. Huống chi năm chữ Thiên Vương Bổ Tâm Châm đã lọt vào tai bọn Tư Mã Lâm, có giết Vương Ngữ Yên cũng vô ích, lại càng tỏ ra là có tật giật mình.
Chư Bảo Côn toàn thân toát mồ hôi lạnh, đầu óc hỗn loạn, quay lại thấy Tư Mã Lâm và mọi người đã thủ hai tay vào trong tay áo, mắt đều trừng trừng nhìn mình. Tư Mã Lâm lạnh lùng nói: “Chư gia, thì ra người là người của phái Bồng Lai đấy ư?” Y không gọi Chư Bảo Côn là sư đệ, đổi thành Chư gia, hiển nhiên không còn coi y là đồng môn nữa.
Chư Bảo Côn thừa nhận cũng không được mà phủ nhận cũng không xong, cảm thấy bối rối, ngượng ngập. Tư Mã Lâm hai mắt trợn tròn, quát:” Ngươi chui vào tận tổ phái Thanh Thành, học được tuyệt chiêu Phá Nguyệt Trùy, thế là dùng ngay để giết cha ta. Ngươi là đứa lòng lang dạ thú, quả thực tàn nhẫn.” Hai tay y vung ra một cái đã cầm hai món Lôi Công Oanh. Tư Mã Lâm cho là bao nhiêu tuyệt kỹ của bản phái bị Chư Bảo Côn học trộm hết, rồi trở về truyền thụ lại cho những tay cao thủ phái Bồng Lai. Khi phụ thân y bị chết, mặc dầu Chư Bảo Côn quả là đang ở Thành Đô, nhưng phải Bồng Lai đã học được thủ pháp rồi nên ai cũng có thể dùng để giết cha y được.
Chư Bảo Côn xám mặt lại. Y tự nghĩ sư phụ Đô Linh Tử sở dĩ cho y trà trộn vào phái Thanh Thành quả là có dụng ý như thế thực. Song mãi tới nay, y chưa hề tiết lộ với ai một chút võ công nào của phái Thanh Thành. Nay sự tình đã xảy ra thế này, dẫu có trăm miệng cũng không biện bạch được nữa. Xem ra chỉ còn một trường ác đấu, đối phương người nhiều thế mạnh, võ công của Tư Mã Lâm và hai vị cao thủ khác nữa đều ngang sức với mình, hôm nay khó mà thoát chết, tự nhủ: “Ta tuy chưa làm việc đó, nhưng lòng phản thầy đã có từ lâu, dù bị phái Thanh Thành giết cũng là đáng tội.” Y nghĩ thế trong lòng lại bình thản, chỉ nói: “Tư Mã sư phụ nhất quyết không phải do ta sát hại…” .
Tư Mã Lâm quát lớn: “Dĩ nhiên không phải chính tay ngươi giết, nhưng ngươi truyền võ công cho kẻ khác giết. Thế thì phỏng khác gì chính tay người hạ sát?” Y quay sang nói với hai lão già gầy gầy cao cao đứng bên cạnh: “Khương sư thúc, Mạnh sư thúc! Đối với tên phản đồ này bất tất phải theo quy luật võ lâm. Chúng ta hợp lực lại để giết y.” Hai ông già kia gật đầu, hai tay từ trong tay áo rút ra, người nào cũng tay trái cầm dùi, tay phải cầm búa, chia ra hai bên vây Chư Bảo Côn lại.
Chư Bảo Côn lùi lại mấy bước, dựa lưng vào một cái cột lớn trong sảnh để tránh khỏi cái thế trước sau đều bị uy hiếp. Tư Mã Lâm hô lớn: “Ta giết đứa phản đồ để báo thù cho cha!” Y xông lên, giơ búa lên đánh xuống đầu Chư Bảo Côn. Chư Bảo Côn nghiêng qua tránh đòn, tay trái đánh trả lại một dùi. Lão già họ Khương quát lớn: “Đứa phản đồ kia! Mi còn mặt mũi nào mà sử dụng võ công của bản phái?” Dùi bên trái liền đâm vào yết hầu y, búa bên phải đập luôn ba cái theo thế Phượng Điểm Đầu.
Bọn Diêu Bá Đương của Tần Gia Trại thấy Khương lão sử dụng cái búa rất thuần thục mà chiêu thế lại quái dị, ai nấy nổi dạ hiếu kỳ, ngầm gật gù khen thầm: “Phái Thanh Thành tiếng tăm lừng lẫy Xuyên Tây, thực xứng đáng lắm.”
Tư Mã Lâm nóng lòng báo thù cho cha, chiêu số cực kỳ hoảng loạn nên Chư Bảo Côn có thể đối phó được. Thế nhưng hai ông già Khương Mạnh vận dụng bốn đại yếu quyết của phái Thanh Thành là Ổn, Ngận, Âm, Độc, dùi đâm búa đánh, mỗi lần ra tay đều nhằm vào những chỗ yếu hại của đối phương khiến cho Chư Bảo Côn đỡ bên trái thì hở bên phải, trong khoảnh khắc đã thấy rõ nguy cơ.
Thế nhưng những chiêu số và binh khí của ba người sử dụng, Chư Bảo Côn đều thuộc lòng cả. Vừa đỡ đòn này, y có thể suy biết ba bốn đòn kế tiếp và biến hóa ra sao rồi, nhờ thế nên một người chống ba mà vẫn còn gắng gượng chịu được. Hai bên chiết giải thêm mươi chiêu nữa, trong lòng Chư Bảo Côn cảm thấy bứt rứt nghĩ thầm: “Tư Mã sư phụ quả thực không bạc đãi mình. Những chiêu thức của Tư Mã Lâm sư huynh và hai vị Khương Mạnh sư thúc ta cũng đều biết cả. Luyện công chiết chiêu còn có thể cố ý giấu giếm chứ lúc giao đấu sinh tử như thế này, ai cũng đem hết sức mình ra, công phu của phái Thanh Thành quả thực chỉ có thế, đúng là sư phụ đã dạy hết cho mình.” Y nghĩ tới đó lại thấy cảm kích ân nghĩa của sư phụ, nhịn không nổi kêu lên: “Tư Mã sư phụ, quyết không phải là tôi sát hại đâu…”
Chư Bảo Côn vừa phân tâm, thì Tư Mã Lâm đã nhảy phắt tới chỉ còn cách có hơn một thước. Binh khí của phái Thanh Thành cực kỳ nhỏ bé, ngắn ngủi, lợi hại là ở chỗ đánh xáp lá cà. Tư Mã Lâm nhập nội được gần như thế, nếu đối thủ là người khác phái, thì hắn đã nắm chắc phần thắng tới tám phần mười rồi. Khốn nỗi võ công của Chư Bảo Côn cùng với hắn hai bên giống nhau, nên hạ nhau rất khó. Dưới ánh nến mọi người thấy hoa cả mắt, Tư Mã Lâm và Chư Bảo Côn thân hình nhanh như điện chớp, hai tay vung múa tít thò lò, chỉ trong chớp mắt đã qua lại bảy tám chiêu. Dùi đâm trên thọc dưới, búa đập dọc đánh ngang, hai người hung hăng quyết liệt như phát điên. Cả hai cùng học một thầy, cùng luyện tập đã quá tinh thục, chiêu số hoàn toàn như một, đánh đỡ không cần suy nghĩ. Tư Mã Lâm tuổi trẻ tráng kiện nhưng Chư Bảo Côn lại nhiều kinh nghiệm hơn. Trong khoảng khắc đã mấy chục chiêu, người ngoài chỉ nghe thấy những tiếng binh khí và chạm loảng xoảng, còn những thế công thủ ra sao thì không ai nhìn rõ được.
Mạnh Khương nhị lão thấy Tư Mã Lâm đánh mãi không hạ được đối phương, đột nhiên cùng hú lên một tiếng, rồi hai người đều lăn xả xuống đất, tấn công vào hạ bàn Chư Bảo Côn.
Phàm những người sử dụng binh khí ngắn đều học địa đường công phu, nằm sát đất lăn qua lăn lại, nhảy vọt lên, khiến cho kẻ địch trở tay không kịp. Công phu Lôi Công Trước Địa Oanh này Chư Bảo Côn vốn cũng thành thục lắm, nhưng hai tay còn bận đối phó với một dùi một búa của Tư Mã Lâm không rảnh chút nào để chống đỡ nhị lão, chỉ còn nước nhảy nhót tránh né. Ông già họ Khương đánh một búa từ trái sang phải, ông già họ Mạnh lại đâm một dùi từ phải sang trái. Chư Bảo Côn giơ chân đá vào cằm Mạnh lão, ông ta cất tiếng chửi: “Quân chó má này! Muốn liều mạng chăng?” Ông ta vừa mắng vừa lùi tránh qua một bên, Khương lão thấy sơ hở xông luôn vào, vung búa đánh tạt ngang, cùng lúc đó Tư Mã Lâm cũng bổ vào giữa hai lông mày Chư Bảo Côn, Chư Bảo Côn trong một nháy mắt phải tính toán cái nào nặng, cái nào nhẹ liền giơ búa lên gạt binh khí của Tư Mã Lâm còn chân trái đành chịu cho ông già họ Khương đánh trúng.
Cái búa đó tuy bé nhỏ nhưng hình lực thật là lợi hại, Chư Bảo Côn đau điếng người, buốt đến tận xương, nhất thời không biết xương đùi có bị gãy chưa. Khương lão đắc thế đâu có chịu nhường, liền đánh tiếp luôn búa thứ hai, Chư Bảo Côn đưa búa ra đỡ, nghe choang một, đốm lửa văng tung tóe. Y lại “A” lên một tiếng, đùi bên trái đã bị ông già họ Mạnh đâm thêm một nhát.
Nhát dùi này đúng ra thì Chư Bảo Côn vẫn có thể tránh được, song y biết rõ nếu tránh qua thì Lôi Công Trước Địa Oanh của Khương Mạnh nhị lão sẽ kết thành Địa Mẫu Lôi Võng không thể nào đối phó nổi. Huống hồ y cũng liệu chừng chân trái đã bị gãy rồi nên có chịu đâm một nhát cũng đành. Chỉ thêm vài chiêu, máu trên đùi y văng tung tóe, lấm tấm khắp bốn bức tường.
Vương Ngữ Yên thấy A Châu chau đôi mày liễu bĩu môi ra, biết rằng nàng chán ghét bọn này đánh nhau lộn ẩu, làm nhơ bẩn căn phòng thanh nhã tinh khiết, nên mỉm cười kêu lên: “Thôi, các người đừng đánh nhau nữa, có gì cứ nói cho ra lẽ, sao lại phải hung hăng vô lý như thế?” Tư Mã Lâm và hai ông già thì quyết tâm giết cho bằng được đứa phản đồ ngay tại đường trường, Chư Bảo Côn dẫu có muốn ngừng tay cũng đâu có làm gì được? Vương Ngữ Yên thấy bốn người vẫn đánh nhau chí mạng không lý gì đến lời nói của mình, mà chủ ý không chịu ngừng tay là ở bọn ba người Tư Mã Lâm, bèn nói tiếp: “Tại tội buột miệng nói một câu Thiên Vương Bổ Tâm Châm nên mới ra cớ sự, tiết lộ bí mật trong môn hộ của Chư gia. Tư Mã chưởng môn, các người mau ngừng lại.” Tư Mã Lâm quát lên: “Thù cha không đội trời chung, lẽ nào không báo? Ngươi léo nhéo cái gì?” Vương Ngữ Yên nói: “Các người không chịu dừng tay, ta sẽ giúp y đó!”
Tư Mã Lâm chột dạ nghĩ thầm: “Nhãn quang của cô gái xinh đẹp này cực kỳ lợi hại, võ công chắc cũng cao cường, nếu như cô ta giúp cho đối phương e rằng bất lợi.” Thế nhưng y lại nghĩ ngay: “Bao nhiêu hảo thủ của phái Thanh Thành hiện ở đây cả, cùng lắm thì tất cả xông lên, không lẽ lại sợ một cô gái yểu điệu như thế?”. Y lại gia thêm hình lực lên tay, múa tít búa với dùi chẳng khác gì gió táp mưa sa.
Vương Ngữ Yên nói: “Chư gia, ông dùng chiêu Lý Tồn Hiếu Đá Hổ rồi đến Trương Quả Lão Đảo Kỵ Lư.” Chư Bảo Côn ngạc nhiên nghĩ thầm: “Chiêu trước là võ công phái Thanh Thành, chiêu sau lại là võ công phái Bồng Lai, hai đằng chiêu số khác nhau làm sao lại có thể sử dụng liên tiếp được?”. Có điều đang lúc tình thế cấp bách, làm gì còn kịp suy nghĩ kỹ càng, nên y cũng theo lời Ngữ Yên xuất ngay chiêu Lý Tồn Hiếu Đả Hổ, nghe keng keng hai tiếng đánh bạt được hai cái búa của Tư Mã Lâm và Khương lão ra. Y lại xiêu vẹo người, đi nghiêng ngả lùi lại ba bước, chính lại vừa tầm tránh khỏi ba đòn phục kích của Mạnh lão. Đòn phục kích này rất là âm độc, hiểm ác, dùng cả dùi lẫn búa đánh luôn ba thế liên hoàn. Ba bước của Chư Bảo Côn bước nào cũng loạng choạng như anh chàng say rượu, chẳng ra đường lối gì nhưng chính nhờ thế mà thoát được độc thủ của đối phương trong đường tơ kẽ tóc, tựa hồ hai bên trước khi giao đấu đã cùng nhau luyện tập rất thuần thục, rồi đem ra biểu diễn trên sân khấu vậy.
Ba đòn phục kích vốn đã cực kỳ tinh xảo, né tránh được lại càng bội phần khéo léo. Những người của Tần Gia Trại ngồi xem sướng mắt, mỗi lần Chư Bảo Côn tránh được lại vỗ tay reo, ba lần thoát hiểm là ba lần hoan hô vang dội. Người bên phái Thanh Thành thì mặt vốn đã hầm hầm, lúc này trông lại càng khó coi hơn.
Đoàn Dự kêu lên: “Hay lắm! Hay lắm! Chư huynh, Vương cô nương bảo sao cứ nghe vậy thì không thể nào thua được.”
Lúc Chư Bảo Côn bước ba bước Trương Quả Lão Đảo Kỵ Lư hoàn toàn không nghĩ tới hậu quả, đầu óc mê man chẳng quan tâm gì tới chuyện sống chết nữa. Y có ngờ đâu võ công hai phái Thanh Thành, Bồng Lai khác nhau như nước với lửa lại có thể sử dụng liền nhau để tránh được ba chiêu tối hiểm độc, Y trong lòng hết sức kinh ngạc, kinh ngạc hơn cả bọn Tần Gia Trại và phái Thanh Thành đứng bên ngoài.
Lại nghe Vương Ngữ Yên hô tiếp: “Chư gia mau xuất chiêu Hàn Tương Tử Tuyết Ủng Lam Quan, kế đó là Khúc Kình Thông U.” Lần này lại sử dụng chiêu của phái Bồng Lai trước rồi tiếp đến chiêu của phái Thanh Thành. Chư Bảo Côn không kịp suy nghĩ, chiếc búa nhỏ và chiếc dùi liền chặn ngay trước ngực, ngay lúc đó hai chiếc dùi của Tư Mã Lâm và ông già họ Mạnh cùng đâm tới. Ba người đồng loạt ra tay nhưng người bên ngoài đứng coi thì tưởng như Chư Bảo Côn đã đoán trước nên bảo vệ trước mặt, Tư Mã Lâm và Mạnh lão thấy đối phương đã phong bế môn hộ không còn sơ hở chút nào, bao nhiêu tính toán đều hóa ra vô ích, hai chiếc dùi đâm luôn vào đầu búa, nghe keng một tiếng bị bật ra. Chư Bảo Côn cũng không nghĩ ngợi gì thêm, lún thấp người xuống, mũi dùi trong tay đâm xéo ra sau.
Khương lão đang xông tới đánh phía sau lưng đối phương, không ngờ mũi dùi bất thình lình đâm ra vừa nhằm đúng chỗ. Khúc Kình Thông U là võ công phái Thanh Thành, Khương lão thuộc nằm lòng nhưng lối đâm như thế hoàn toàn không hợp với qui củ của bản phái, nếu phải lúc bình thời luyện tập thể nào ông già cũng cười ha hả. Thế nhưng cũng vì mũi dùi đâm vô lý như thế, Khương lão lại đang xông tới thành ra đưa người vào mũi dùi như tự sát, lúc biết là nguy thì không tránh kịp nữa. “Phập” một cái, mũi dùi đã đâm trúng vào ngang thắt lưng, Khương lão không gượng được, lảo đảo phục ngay xuống đất. Trong phái Thanh Thành liền có hai người xông ra vực ông ta về.
Tư Mã Lâm cất tiếng chửi: “Chư Bảo Côn! Mi thật là quân chó má. Chính tự tay mi đâm sư thúc thì còn cãi được nữa không?” Ngữ Yên cướp lời: “Khương tiên sinh bị thương là do ta bảo y đâm đó. Các người phải dừng tay ngay!” Tư Mã Lâm giận dữ đáp: “Ngươi có bản lãnh thì bảo y giết ta đi xem nào?” Vương Ngữ Yên mỉm cười nói: “Phỏng có khó gì. Chư gia hãy dùng chiêu Lý Thiết Quài Nguyệt Hạ Quá Động Đình, kế đó là chiêu Lý Thiết Quài Ngọc Động Luận Đạo.”
Chư Bảo Côn đáp lời: “Vâng!” Y nghĩ thầm: “Trong võ công của phái Bồng Lai chỉ có chiêu Là Thuẫn Dương Nguyệt Hạ Quá Động Đình và Hán Chung Ly Ngọc Động Luận Đạo, sao cô nương này lại gọi thành Lý Thiết Quài là sao? Có lẽ nàng nghiên cứu võ công bản phái chưa đến nơi đến chốn, buột miệng nói sai đó thôi”. Song trước tình thế cấp bách, Tư Mã Lâm và Mạnh lão đời nào để y có thì giờ hỏi lại cho chắc, đành cứ đem sở học lúc bình thời xuất chiêu Lã Thuần Dương Nguyệt Hạ Quá Động Đình.
Chiêu này vốn dĩ là phải bước những bước hiên ngang, dáng điệu phiêu hốt như Lã Thuần Dương bay lượn trên không trung. Thế nhưng chân trái Chư Bảo Côn bị hai vết thương nên bước đi khập khiễng, đâu có ra vẻ Lã Thuần Dương mà lại trông giống ông tiên một giò Lý Thiết Quài. Bước chân cà nhắc đó lại có chỗ lợi, Tư Mã Lâm liên tiếp đâm hai dùi đều hụt ra ngoài. Đến chiêu Hán Chung Ly Ngọc Động Luận Đạo thì vì chân trái y đau nên người nghiêng hẳn qua phía trái, chiếc dùi nơi bàn tay phải dùng thay chiếc quạt lá bồ vung vòng ra, Mạnh lão đang lúc húc đầu vào, nghe đốp một cái, cái dùi đó đánh trúng ngay miệng ông ta, gãy luôn mười mấy cái răng rơi xuống đất. Đau quá, Mạnh lão vừa nhảy chồm chồm vừa kêu la ầm ĩ, quẳng binh khí xuống đất, hai tay bịt chặt lấy mồm.
Tư Mã Lâm hoảng vía, không giữ được chủ ý, phân vân chưa biết nên tiếp tục giao đấu hay hãy tạm ngừng tay rồi sẽ tìm cách báo thù sau. Hai thế mà Vương Ngữ Yên vừa chỉ điểm cho Chư Bảo Côn quả thực là xảo diệu tuyệt luân, dự tính rõ ràng sự kiện sẽ diễn biến ra sao. Mạnh lão sau khi đánh luôn ba đường liên hoàn nhất định sẽ nhảy tới hông bên phải Chư Bảo Côn, mà lúc đó Chư Bảo Côn đưa ngang chiếc chùy ra nhất định là đánh trúng vào mồm Mạnh lão. Vì Chư Bảo Côn chân trái tập tễnh, chiêu Hán Chung Ly Ngọc Động Luận Đạo đã biến thành Lý Thiết Quài Ngọc Động Luyện Đạo nên chiếc búa mới đánh xéo ra, chứ nếu như đánh thẳng thì lại hụt mất vài tấc không đánh trúng được. Tính toán chu đáo kỹ càng, liệu địch chuẩn xác như thế quả thực thần diệu tuyệt vời, không chê vào đâu được.
Tư Mã Lâm nghĩ thầm: “Nếu như muốn giết tên khốn kiếp Chư Bảo Côn thì trước hết phải ngăn con nhãi kia chỉ điểm võ công cho y.” Y còn đang nghĩ cách sát hại Vương Ngữ Yên, bỗng nghe nàng nói: “Chư tướng công, ông là đệ tử phái Bồng Lai, trà trộn vào phái Thanh Thành học lén võ công, quả là không phải chút nào. Ta nghĩ lão sư phụ Tư Mã Vệ không phải do ông sát hại. Với sở học như ông, dẫu có đi dạy được cho một hảo thủ nào khác cũng không thể nào dùng chiêu Phá Nguyệt Trùy để giết Tư Mã lão sư phụ được. Thế nhưng đi học trộm võ công của người ta thì cũng là không ra gì, ông phải tạ tội với Tư Mã chưởng môn mới đúng.”
Chư Bảo Côn lấy làm phải, huống chi nàng đối với mình còn có cái ơn cứu mạng, nàng có mách cho mấy đường mới thoát thân được. Bây giờ nàng bảo điều gì, mình chẳng nên trái ý. Nghĩ vậy y bèn xá dài Tư Mã Lâm nói: “Chưởng môn sư huynh! Tiểu đệ thật là đắc tội!” Tư Mã Lâm tránh qua một bên, mặt hầm hầm, hậm hực quát: “Thằng khốn nạn kia, mi còn dám trơ mặt gọi ta là chưởng môn sư huynh ư?”.
Vương Ngữ Yên bỗng thét lên: “Mau, Ngao Du Đông Hải!” Chư Bảo Côn hoảng hốt, nhún người nhảy vọt lên cao đến hơn một trượng, chợt nghe thấy tiếng “vo vo…” không ngớt, có đến hơn chục mũi Thanh Phong Đinh bay sát dưới gót chân y, thật chỉ thoát trong đường tơ kẽ tóc. Giả tỷ Vương Ngữ Yên không thét lên Ngao Du Đông Hải mà chỉ bảo đề phòng ám khí, thì y ắt còn chăm chăm nhìn vào địch nhân, tụ tiễn Tư Mã Lâm bắn từ tay áo ra hẳn không thể nào né tránh kịp.
Công phu Tụ Lý Càn Khôn để phóng ám khí của Tư Mã Lâm là tuyệt kỹ của họ Tư Mã phái Thanh Thành chỉ truyền cho con cháu, không truyền cho đồ đệ. Ngay cả hai lão Mạnh Khương cũng không biết đến. Tư Mã Vệ không dạy cho Chư Bảo Côn chẳng qua là vì tuân theo lời di huấn của tổ tiên, chứ không phải có ý giấu riêng cho mình. Có ai ngờ đâu Tư Mã Lâm nét mặt vẫn thản nhiên, chỉ ngấm ngầm rung động trong tay áo, vận chuyển cơ quan bắn Thanh Phong Đinh mà lại bị Vương Ngữ Yên phát giác, mách nước cho họ Chư sử chiêu Ngao Du Đông Hải của phái Bồng Lai phá được công phu này.
Tư Mã Lâm dùng hết sở học bình sinh phóng ám khí chắc trúng mười mươi mà lại sểnh mất, y thật chẳng khác gì gặp phải ma quỉ, giơ tay chỉ vào Vương Ngữ Yên kêu lớn: “Ngươi chẳng phải là người, ngươi là quỉ, ngươi là quỉ!” .
Ông già họ Mạnh trong mồm còn mười mấy cái răng bị búa đánh gãy hết, trong cơn hoảng hốt ba cái răng tuột luôn vào bụng. Ông ta tuổi đã cao nhưng mắt sáng tóc đen, răng còn chắc, xưa nay vẫn lấy làm tự hào, bây giờ mất cái nào là tiêu cái ấy, làm gì có răng giả thay vào, vừa đau vừa tiếc, miệng phều phào kêu lên: “Bắt lấy con nhãi kia! Bắt lấy con nhãi kia!”
Phái Thanh Thành môn qui rất nghiêm, Mạnh lão tuy đứng vào hàng tiền bối nhưng không phải là chưởng môn nhân. Các đệ tử ai nấy đưa mắt nhìn Tư Mã Lâm, đợi y ra lệnh một tiếng là sẽ cùng xông vào bắt giữ Vương Ngữ Yên. Tư Mã Lâm lạnh lùng nói: “Vương cô nương! Sao cô lại thuộc làu võ công của bản phái?” Vương Ngữ Yên đáp: “Ta chỉ xem sách mà biết. Phái Thanh Thành lấy trá ngụy làm chủ trương, sở trường về âm hiểm, còn về phần biến hóa không có gì phức tạp lắm nên cũng dễ nhớ.” Tư Mã Lâm lại hỏi: “Có nương xem sách gì vậy?” Vương Ngữ Yên đáp: “Ồ, cũng chẳng phải là sách gì khó kiếm. Viết về võ công phái Thanh Thành có hai bộ, một bộ là Thanh Tự Cửu Đả, còn bộ kia là Thành Tự Thập Bát Phá, ông là chưởng môn phái Thanh Thành thì còn lạ gì sách đó?”
Tư Mã Lâm lẩm bẩm: “Thật là bẽ mặt!” Gã nhớ lại hồi nhỏ phụ thân truyền dạy có bảo cho biết: chữ Thanh nguyên trước có chín thế đánh, chữ Thành có mười tám thế phá, nhưng rất tiếc vì khiếm khuyết mất mấy thế thành ra võ công kém sút, phải chịu giằng co bất phân thắng bại với phái Bồng Lai. Giả tỷ có ai tìm lại được cho đầy đủ thì võ công bản phái không những chỉ ăn đứt phái Bồng Lai mà còn có thể xưng hùng thiên hạ một cách dễ dàng. Đến bây giờ nghe Vương Ngữ Yên nói đã đọc qua hai cuốn sách đó, ngực y không khỏi nóng ran lên, nói: “Cô nương cho tại hạ mượn sách liếc qua một chút xem có gì bất đồng với sở học của bản phái, được chăng?”
Vương Ngữ Yên chưa kịp trả lời, Diêu Bá Đương đã cười ha hả nói: “Cô nương chớ để cho gã tiểu tử đó lừa bịp. Võ công phái Thanh Thành nhà y còn nông cạn lắm, chữ Thanh còn độ ba bốn miếng, chữ Thành cũng chỉ mười một, mười hai cách phá thôi. Gã toan lừa lấy bộ kỳ thư của cô nương để về học thêm. Cô nương nhất định đừng cho gã mượn.”
Tư Mã Lâm bị Diêu Bá Đương thọc gậy bánh xe, khuôn mặt xanh xao của y lập tức tím bầm lại, hỏi: “Ta mượn sách của Vương cô nương có liên quan gì đến Tần gia trại nhà các ngươi? “ Diêu Bá Đương cười hà hà đáp: “Sao lại không? Việc này quan hệ đến Tần gia trại ta lắm chứ. Bụng dạ Vương cô nương đây thuộc lòng biết bao nhiêu võ công kỳ diệu. Ai rước được cô nương thì người đó sẽ trở thành thiên hạ vô địch. Họ Diêu này thấy bạc vàng châu báu hay trai thanh gái lịch, là muốn thò tay lấy ngay, của báu nghìn năm một thuở như Vương cô nương thế này, lẽ nào lại để sểnh mất? Tư Mã huynh đệ, phái Thanh Thành các ngươi muốn mượn sách thì phải hỏi ta đây xem ta có chịu không đã. Ha ha! Ha ha! Ngươi thử đoán xem liệu Diêu mỗ có bằng lòng chăng?”
Diêu Bá Đương nói mấy câu vô lý này cực kỳ ngạo mạn, thế nhưng Tư Mã Lâm và Khương Mạnh nhị lão nghe xong không khỏi thấp thỏm trong lòng: “Kiến thức võ học của cô bé này uyên thâm không biết đến đâu mà lường. Điệu bộ nàng ẻo lả như gió thổi bay, tự mình đánh ai thì chắc không thắng nổi, nhưng đã đọc qua đủ các loại võ học kỳ thư rồi, đã thuộc nằm lòng lại có thể vận dụng thành một chuỗi. Nếu như mình mời được cô ta đem về phái Thanh Thành thì sẽ học được hết Thanh Thành cửu đả, Thanh Thành thập bát phá. Nhưng bọn Tần gia trại đã có dạ bất lương, hôm nay chỉ còn cách đánh nhau một trận.”
Lại nghe Diêu Bá Đương nói: “Vương cô nương, bọn chúng ta vốn đến đây tìm nhà Mộ Dung để đòi nợ, xem chừng cô cũng là người họ Mộ Dung…” Vương Ngữ Yên nghe y bảo “cô cũng là người họ Mộ Dung” thì nửa mừng nửa thẹn, hai má ửng hồng. Nàng chép miệng hỏi lại: “Mộ Dung công tử là biểu huynh tôi, trại chủ tìm có việc gì? Biểu huynh tôi có điều chủ đắc tội với trại chủ?” Diêu Bá Đương cười hà hà nói: “Cô nương là biểu muội của Mộ Dung Phục thì thật tốt quá. Ông cố tổ nhà Mộ Dung có thiếu nhà họ Diêu ta một trăm vạn lạng vàng, một nghìn vạn lạng bạc, tới nay đã mấy trăm năm. Cả vốn lẫn lãi tính sao đây?” Vương Ngữ Yên ngạc nhiên hỏi: “Sao lại có chuyện lạ thế được? Cữu phụ tôi vốn là một nhà hào phú, sao lại thiếu nợ trại chủ?” Diêu Bá Đương đáp: “Thiếu hay không thiếu, cô nương còn nhỏ nên chưa hiểu rõ. Ta đi kiếm Mộ Dung Bác để đòi nợ, y bằng lòng trả rồi, thế nhưng chưa lấy được xu nào y đã lăn đùng ra chết. Bố chết thì đòi con, ai ngờ Mộ Dung Phục thấy chủ nợ đến lại chuồn đi mất. Ta chẳng biết làm thế nào, đành kiếm cái gì đem về trừ bớt.” Vương Ngữ Yên nói: “Biểu huynh tôi là người khẳng khái hào sảng, nếu quả có nợ trại chủ thì thế nào biểu huynh tôi cũng trả. Giả tỷ không nợ, mà trại chủ cần chút ít tiền tiêu xài đến hỏi, biểu huynh tôi cũng chả cự tuyệt đâu. Có lý nào sợ ông đòi nợ mà lẩn tránh bao giờ?”
Diêu Bá Đường chau mày nói: “Việc này không thể một lúc mà nói rành mạch được. Bây giờ cô nương hãy tạm theo ta về bắc, ở chơi Tần gia trại một năm hay dăm bảy tháng, người Tần gia trại quyết không động đến chân lông cô nương đâu. Mụ vợ Diêu mỗ ghen tuông nổi tiếng là con hổ cái dữ nhất vùng Hà Sóc nên đối với nữ sắc Diêu mô rất giữ gìn, cô nương cứ yên chí đừng lo ngại gì. Cô nương cũng chẳng cần thu xếp hành trang gì thêm nữa, chúng ta chỉ vỗ tay một cái là đi ngay. Bao giờ biểu huynh cô nương kiếm đủ tiền, đem lên thanh toán hết món nợ cũ, tự nhiên ta sẽ hộ tống cô nương về Cô Tô để vẹn mối lương duyên cùng biểu huynh. Ngoài ra Tần gia trại còn đưa hậu lễ để Diêu mỗ đi uống mừng hai họ.” Y nói xong ngoác miệng cười ha hả.
Lời y nói rặt giọng đểu cáng, mấy câu sau cùng thuận mồm bịa ra, thế nhưng Vương Ngữ Yên nghe đến đâu lọt tai mát ruột đến đó, mỉm cười nói: “Ông này chỉ nói ngang thôi. Tôi đến Tần gia trại làm chi? Nếu cữu phụ tôi quả có thiếu ông tiền, thì cũng đã lâu lắm rồi, biểu huynh tôi làm sao biết được? Ông tìm chứng cớ rõ ràng rồi biểu huynh tôi sẽ trả cho ông.”
Bản ý Diêu Bá Đương chỉ muốn cướp Vương Ngữ Yên đi để ép nàng phải thổ lộ võ công chứ một trăm vạn lạng vàng, một ngàn vạn lạng bạc chỉ là chuyện tầm phào, bây giờ nghe nàng nói năng thơ ngây dường như lại tin là chuyện thật, y bèn nói: “Cô nương cứ đi với ta nhé, Tần gia trại đẹp lắm. Bọn ta nuôi nào là báo đen, diều hâu, mai hoa lộc, đủ thứ, cô có ở cả năm cũng không chán. Biểu huynh có được tin lập tức sẽ tìm đến nơi hội diện. Thế rồi có tiền trả hay không cũng được, ta vẫn để cô nương cùng chàng về Cô Tô thành hôn. Cô nương nghe có được chăng?” Mấy câu nối đó quả thực khiến Vương Ngữ Yên phải xao xuyến trong lòng.
Thấy nàng khóe mắt long lanh, vẻ mặt e ấp, Tư Mã Lâm nghĩ thầm: “Nếu không sớm can ngăn, để nàng mở miệng bằng lòng đi đến Tần gia trại ở Vân Châu thì hết phương cứu vãn. Phải chặn trước đi là hơn.” Y không đợi Vương Ngữ Yên trả lời đã nói ngay: “Vân Châu ở tận ngoài ải bắc là đất khỉ ho cò gáy, rét lạnh thấu xương. Vương cô nương là một tiểu thư cành vàng lá ngọc sinh trưởng ở Giang Nam, ai lại ra đó chịu khổ bao giờ? Đất Thành Đô của ta được gọi là Cấm Quan Thành, gấm vóc đẹp nhất thiên hạ, phong cảnh tốt tươi, danh lam thắng cảnh nhiều gấp mười Vân Châu. Một người xinh đẹp như Vương cô nương đến Thành Đô mua gấm vóc mặc vào càng nổi bật lên, quả đúng là lúa tốt thêm phân, đã đẹp lại càng thêm đẹp. Mộ Dung công tử tài mạo song toàn dĩ nhiên ưa người đẹp mặc đồ gấm vóc.” Y cho rằng phụ thân đã bị phái Bồng Lai gia hại nên không còn thù hận gì Mộ Dung Cô Tô nữa.
Diêu Bá Đương quát lên: “Thối lắm! Cô Tô đây thiếu gì gấm đoạn, lượt là? Mi mở to mắt chó ra mà nhìn ba vị cô nương trước mắt, ai dám bảo là không biết cách ăn diện?” Tư Mã Lâm lạnh lùng nói: “Thối thật! Quả là thối thật!” Diêu Bá Đương cả giận hỏi “Có phải mi nói ta đó không?” Tư Mã Lâm đáp: “Không dám! Ta nói là rắm thối quá!”
Soạt một tiếng, Diêu Bá Đương rút đao ở sau lưng ra quát hỏi: “Tư Mã Lâm! Tần gia trại ta với phái Thanh Thành nhà mi, đại khái một bên tám lạng, một đằng nửa cân. Thế nhưng Tần gia trại mà liên thủ với phái Bồng Lai liệu có diệt nổi phái Thanh Thành không?”.
Tư Mã Lâm mặt biến sắc, nghĩ thầm: “Lời lão nói quả đúng sự thực. Phụ thân ta qua đời rồi, lực lượng phái Thanh Thành đã kém trước, lại bị tên gian tặc Chư Bảo Côn đến học trộm võ công. Nếu như Tần gia trại lại đối đầu với mình thì thật đáng lo. Người đời có nói: Tiên hạ thủ vi cường. Việc đã đến thế này chỉ còn cách nhân khi chúng chưa chuẩn bị mà giết bớt một tên.” Gã nghĩ vậy rồi lạnh lùng buông thõng một câu: “Chưa chắc!”
Diêu Bá Đương thấy Tư Mã Lâm hai tay thủ vào trong áo, biết lúc nào y cũng có thể bắn ám khí ra giết mình nên hết sức cảnh giác nói: “Ta mời Vương cô nương lên Vân Châu chơi mấy hôm, đợi Mộ Dung công tử đến đón về. Mi muốn chõ mồm vào ngăn trở chăng?”. Tư Mã Lâm đáp: “Đất Vân Châu nhà ngươi không xứng đáng chút nào, không thể khuất giá Vương cô nương được. Ta muốn mời Vương cô nương qua Thành Đô một chuyến” Diêu Bá Đương đáp: “Hay lắm! Bây giờ hai bên lấy binh khí ra so tài cao thấp một phen đã. Ai thắng sẽ được làm chủ nhân mời Vương cô nương.” Tư Mã Lâm nói: “Phải đó! Người nào thua mà muốn mời Vương cô nương thì chỉ có nước mời xuống chơi âm cung thôi.” Nói như thế là đã rõ ràng, đây không phải là cuộc tỷ thí để phân thắng bại, mà là chiến đấu sinh tử, kẻ bại tất phải vong mạng. Diêu Bá Đương cười ha hả nói: “Diêu mỗ suốt đời sống bằng nghề nhuộm máu lưỡi đao. Tư Mã chưởng môn muốn đem cái chết hăm dọa ta đó chăng? Ta đâu có sợ!” Tư Mã Lâm hỏi: “Thế thì đấu cách nào đây? Ta với người một chọi một hay tất cả cùng xông lên? “Diêu Bá Đương đáp: “Cứ để lão phu tiếp Tư Mã chưởng môn chơi ít hiệp…” Y mới nói đến đây, Tư Mã Lâm đột nhiên quay sang bên trái, mặt mày kinh hoàng, dường như phát sinh biến cố gì vô cùng kỳ lạ. Diêu Bá Đương mắt vốn không rời gã đề phòng ám toán bất ngờ, lúc này không nhịn được cũng nhìn sang bên trái. Chỉ nghe “veo veo veo” ba tiếng nhỏ, y giật mình thì ám khí đã bay tới trước ngực chỉ còn cách chừng ba thước, y thất vọng tự biết không thể thoát chết được.
Giữa lúc tính mạng Diêu Bá Đương lâm vào tình trạng ngàn cân treo sợi tóc, đột nhiên có vật gì vọt ra chắn ngang ngực y. Mấy tiếng “keng keng” bật lên, mấy mùi độc châm đụng vào rồi rớt xuống đất. Những mũi độc châm này nhanh vun vút, Diêu Bá Đương tuy là người lâm địch đã nhiều cũng đành chịu thúc thủ không tránh kịp nữa, thế thì cái vật kia phải nhanh gấp mấy lần mới có thể phóng ra sau mà tới đích trước để đón độc châm. Vật đó là cái gì thì cả Diêu Bá Đương lẫn Tư Mã Lâm đều chưa trông thấy.
Vương Ngữ Yên vui mừng kêu lên: “Bao thúc thúc đến đấy ư?” Bỗng nghe một giọng cổ quái đáp lại: “Sai bét, sai bét, không phải Bao thúc thúc đâu !” Vương Ngữ Yên cười nói: “Lại còn chẳng phải Bao thúc thúc ư? Người chưa thấy đã nghe lè nhè cái câu sai bét, sai bét.” Vẫn cái giọng lè nhè đáp lại: “Sai bét, sai bét! Không phải Bao thúc thúc đâu.” Vương Ngữ Yên hỏi lại: “Sai bét, sai bét? Thế thì ai đó?” Giọng kia lại đáp: “Mộ Dung huynh đệ gọi ta là tam ca, ngươi lại gọi ta là thúc thúc. Sai bét, sai bét! Ngươi gọi thế là sai bét.” Vương Ngữ Yên mặt nóng bừng lên hỏi: “Sao tam ca không xuất đầu lộ diện?” Hồi lâu không nghe tiếng đáp, Vương Ngữ Yên lại gọi: “Này này! Tam ca ra đi, giúp tiểu muội ngăn chặn những kẻ đến đây phá rối.” Bốn bề vẫn lặng ngắt như tờ, hiển nhiên gã họ Bao đã đi xa rồi. Vương Ngữ Yên hơi thất vọng hỏi A Châu: “Y đi đâu rồi?” A Châu mỉm cười đáp: “Bao tam ca tỉnh vốn vẫn thế, ông ta đang định ra mặt, nghe cô nương gọi, ông ấy lại nhất định không ra nữa. E rằng hôm nay không ra nữa đâu.”
Tính mạng Diêu Bá Đương mười phần chết chín, được người họ Bao kia ra tay cứu độ, trong lòng thật là cảm kích, Y với phái Thanh Thành vốn không thù không oán, nhưng bây giờ lại quyết giết Tư Mã Lâm, vung đao lên nói: “Quân vô liêm sỉ bắn trộm hại người, mi tưởng giết được lão phu sao?” Y múa đao nhắm ngay đầu Tư Mã Lâm chém xuống. Tư Mã Lâm hai tay vung ra, tay trái cầm dùi sắt, tay phải cầm búa, xông lên tiếp chiến.
Diêu Bá Đương sức lực hung mãnh ra tay tàn nhẫn, còn Tư Mã Lâm thì lấy nhẹ nhàng khéo léo làm chính. Phái Thanh Thành và Tần gia trại hôm nay đánh nhau lần đầu, hai vị thủ lĩnh thân ra ứng chiến. Cuộc thắng bại sẽ đưa đến sự tồn vong cùng vinh nhục cho bổn phái, thành thử cả hai không ai dám sơ sểnh chút nào.
Hai bên trao đổi đến hơn bảy mươi chiêu rồi, Vương Ngữ Yên bỗng quay sang nói Với A Châu: “Ngươi xem kìa, Ngũ Hổ Đoạn Môn Đao của Tần gia trại xem ra không phải chỉ mất có năm chiêu. Hai chiêu Phụ Tử Độ Hà và Trọng Tiết Thủ Nghĩa sao không thấy Diêu lão gia dùng đến?” A Châu nào có biết võ công gia số của Tần gia trại thế nào nên chỉ ậm ừ.
Diêu Bá Đương đánh nhau đang hăng, chợt nghe lời Vương Ngữ Yên cả kinh nghĩ thầm: “Nhãn quang cô bé này ghê gớm thật. Sáu mươi tư chiêu của Ngũ Hổ Đoạn Môn Đao mất đi năm chiêu từ mấy chục năm nay, chỉ còn có năm mươi chín chiêu. Đến đời sư phụ ta, tư chất kém cỏi, ngộ tính tầm thường nên không học đúng hai chiêu Phụ Tử Độ Hà và Trọng Tiết Thủ Nghĩa, từ đó hai thế này lại bị thất truyền. Vì muốn bảo toàn thể diện, ta đã phải biến cải vài thế bổ sung vào để cho đủ số năm mươi chín chiêu, ngờ đâu cô ta vẫn nhìn ra được.”
Hầu hết lục lâm sơn trại đều là bọn ô hợp, bao nhiêu môn phái võ công cũng tụ lại một chỗ rủ nhau đi ăn cướp, riêng có Tần gia trại thì các đầu lĩnh đều là đệ tử của Ngũ Hổ Đoạn Môn Đao. Chẳng có môn phái nào coi Tần gia trại bằng vai phải lứa, cũng chẳng ai đến gia nhập với chúng. Sư phụ của Diêu Bá Đương họ Tần, là thủ lĩnh Tần gia trại cũng là chưởng môn Ngũ Hổ Đoạn Môn Đao, có đứa con ruột là Tần Bá Khởi võ công tài cán thật tầm thường nên mới truyền ngôi vị đó cho đại đệ tử Diêu Bá Đương. Mấy tháng trước, Tần Bá Khởi ở Thiểm Tây bị người ta chém chết bằng chiêu Tam Hoành Nhất Trực, tức là ba nhát ngang một nhát dọc chém vào mặt thành hình chữ vương. Đó chính là tuyệt chiêu tối cương mãnh của Ngũ Hổ Đoạn Môn Đao nên ai ai cũng nghi rằng chắc do Cô Tô Mộ Dung hạ thủ. Diêu Bá Đương nghĩ đến ân tình của sự phụ bèn dắt hết hảo thủ của bản trại đến Tô Châu báo thù cho sư đệ. Ngờ đâu chưa gặp chủ nhân đã suýt táng mạng vì Thanh Phong Đinh của phái Thanh Thành, may được bằng hữu của Mộ Dung Phục cứu cho thoát chết.
Y hận Tư Mã Lâm ám toán âm độc, lại nghe thấy Vương Ngữ Yên vạch ra chỗ khiếm khuyết của võ công mình nên cũng hơi hổ thẹn, càng muốn đánh bại ngay Tư Mã Lâm để gỡ lại uy thế với bản trại. Lão nóng ruột thành ra liên tiếp sử dụng những đòn hiểm hóc một cách hời hợt, khiến cho Tư Mã Lâm tránh được dễ dàng. Diêu Bá Đương tức mình quát lên một tiếng, khoa đao chém xéo xuống, chờ cho Tư Mã Lâm nhảy tránh sang mé tả, bất thình lình lão co chân hữu đá phốc ra. Tư Mã Lâm người còn lơ lửng chưa chấm đất không có cách gì tránh né, nhưng gã ứng biến cực lẹ, hạ mũi dùi xuống thấp, để Diêu Bá Đương đá vào sẽ bị thủng chân. Ngọn cước của Diêu Bá Đương quả nhiên phải rút về, chân trái liền sử Uyên Ương Liên Hoàn, đá vào cạnh sườn bên phải Tư Mã Lâm.
Tư Mã Lâm vung búa đánh xéo lại, nghe chát một tiếng, đúng sống mũi Diêu Bá Đương, lập tức máu chảy ra lênh láng. Lúc đó chân trái lão cũng đá trúng lưng Tư Mã Lâm. Nhưng vì mặt lão bị đánh trước một chút, trong lòng hoảng sợ, lực đạo ngọn cước so ra chỉ được độ hai thành lúc bình thường. Tư Mã Lâm tuy bị đá nhưng chỉ hơi đau, chưa đến nỗi bị thương. Hai bên trúng đòn nhau trước sau khoảnh khắc nhưng thắng bại coi như đã xong. Diêu Bá Đương gầm lên một tiếng, cầm đao toan xông lên chém tiếp, nhưng đầu nhức như búa bổ, chân bước loạng choạng không đứng vững được.
Tư Mã Lâm may mà thắng được một đòn, biết rằng nếu để cho đối phương sống sót tất hậu hoạn khôn lường. Y quyết tâm tiêu diệt đối phương, búa nhỏ bên tay phải vung lên đợi cho Diêu Bá Đương vung đao lên gạt, lập tức mũi dùi bên tay trái đâm luôn vào giữa ngực. Phó trại chủ của Tần gia trại thấy tình thế nguy ngập, hú lên một tiếng, thanh đơn đao đột nhiên lìa khỏi tay, nhằm Tư Mã Lâm ném tới. Chớp mắt trong đại sảnh gió rít vù vù, hơn mười lưỡi đơn đao vun vút nhất tề nhằm vào Tư Mã Lâm.
Thì ra trong võ công của Tần gia trại có tuyệt kỹ ném đơn đao. Mỗi thanh đao đều nặng từ bảy tám cân đến ngoài mười cân, dùng sức ném ra, thế mạnh ghê gớm. Huống chi hơn mười lưỡi đơn đao phóng ra một lượt, Tư Mã Lâm đã không đỡ được, tránh cũng hết đường. Ai cũng thấy y sắp bị loạn đao phân thây, đột nhiên ánh đuốc lập lòe, một người nhảy vọt tới bên cạnh Tư Mã Lâm, đưa tay chộp bên đông đón bên tây, bắt hết hơn chục thanh đơn đao. Đoạn một chuỗi cười ha hả vang lên, trên ghế giữa sảnh đường, đã thêm một người ngồi trông rất oai nghiêm. Tiếp đó loảng xoảng loảng xoảng liên tiếp, người đó vứt bó đao trên tay xuống đất.
Mọi người kinh hãi nhìn, thấy đó là một hán tử trung niên mặc trường bào sắc tro, thân hình ốm o lại cao lêu nghêu, thần sắc có vẻ ngang bướng gàn dở. Ai thấy thủ đoạn chụp đao của y cũng đều bội phục, không dám nói câu gì. Chỉ có mình Đoàn Dự mỉm cười lên tiếng hỏi: “Huynh đài xuất thủ cực kỳ mau lẹ, võ công hẳn cao cường tuyệt đỉnh. Tôn tính đại danh là gì, có thể cho biết được chăng?”.
Hán tử cao gầy kia chưa kịp trả lời thì Vương Ngữ Yên đã tiến lên cười nói: “Bao tam ca, tiểu muội tưởng tam ca không trở lại, cứ khắc khoải trong lòng, ngờ đâu tạm ca lại đến. Hay quá! Tuyệt quá!” Đoàn Dự nói: “Ồ, thì ra là Bao tam tiên sinh.” Gã Bao tam tiên sinh kia đưa mắt liếc chàng một cái, khinh khỉnh nói: “Gã tiểu tử này là ai mà dám liến thoắng trước mặt ta?” Đoàn Dự đáp: “Tại hạ họ Đoàn tên Dự, không biết quyền cước võ công chi hết, ngờ đâu lạc vào chốn giang hồ mà đến nay chưa chết, kể cũng là một việc lạ trên đời.” Bao tam tiên sinh trợn mắt nhìn chàng một hồi, nhất thời không biết phải trả lời sao.
Tư Mã Lâm tiến lên vái một cái thật sâu nói: “Tư Mã Lâm này ở phái Thanh Thành được tiên sinh bắt đao cứu mạng, ơn đức ấy không bao giờ dám quên. Xin Bao tiên sinh cho biết đại danh để ghi vào tâm khảm.” Bao tam tiên sinh đảo mắt một cái, tung chân ra, nghe bình một tiếng đá y lộn đi mấy vòng, quát lớn: “Mặt ngươi mà dám hỏi đến tên ta sao? Không phải ta định cứu ngươi đâu, chỉ vì đây là trang viện của A Châu muội tử. Nếu để cái thân thể hôi thối của ngươi bị loạn đao phân thây há chẳng ô uế cái Thính Hương Thủy Tạ này ư? Thôi cút đi cho mau!”
Tư Mã Lâm thấy Bao tam tiên sinh phòng cước ra, toan né tránh thì đã không kịp. Y bị ngã khá đau, lại nghe đối phương ăn nói khinh bạc như thế, cứ theo qui củ giang hồ nếu không lập tức ra tay liều mạng thì cũng phải ước hẹn ngày sau gặp lại, không thể cam tâm chịu nhục trước mặt mọi người mà nín đi cho xong được. Y ra vẻ cứng cỏi nói: “Bao tam tiên sinh! Tư Mã Lâm này hôm nay bị người ta vây đánh, quả bất địch chúng tưởng chừng táng mạng nơi đây, may được tiên sinh cứu cho thoát chết. Tư Mã Lâm này ân oán phân minh, có ơn trả ơn, có oán báo oán, xin mời!” Y tự biết mình dù có luyện tập thêm mấy chục năm nữa cũng không thể nào đạt tới mức của Bao tam tiên sinh, mấy tiếng “có ơn trả ơn, có oán báo oán” chẳng qua là câu nói hàm hồ để gỡ lại chút thể diện mà thôi.
Bao tam tiên sinh cứ mặc y muốn nói thế nào thì nói, không thèm để vào tai, quay sang nói với Vương Ngữ Yên: “Vương cô nương, thái thái vì cớ gì mà lại để cho cô qua tận đây?” Vương Ngữ Yên cười nói: “Tam ca thử đoán xem là vì duyên cớ gì?” Bao tam tiên sinh trầm ngâm rồi nói: “Cái này quả là khó nghĩ cho ra.”
Tư Mã Lâm thấy Bao tam tiên sinh mải mê nói chuyện cùng Vương Ngữ Yên không thèm đếm xỉa đến mình, lại nghĩ đến y đá mình một cái ngã chỏng gọng nên sinh lòng ghét cay ghét đắng, quên luôn cả cái ơn cứu mạng vừa rồi, liền vẫy tay một cái dẫn đám đệ tử phái Thanh Thành đi ra. Bao tam tiên sinh gọi theo: “Khoan đã, ta có điều muốn nói cho ngươi hay.” Tư Mã Lâm quay đầu lại hỏi: “Sao?” Bao tam tiên sinh nói: “Nghe nói người đến Cô Tô để báo thù cho phụ thân ngươi. Người lầm rồi, phụ thân người không phải do Mộ Dung công tử hạ sát đâu!” Tư Mã Lâm hỏi: “Sao lại thế? Làm sao tiên sinh biết được?” Bao tam tiên sinh tức mình nói: “Ta đã bảo không phải Mộ Dung công tử giết, thì nhất định là không phải y giết. Mà dẫu có thực là y giết, ta đã bảo không, thì cũng phải coi là không. Người dám coi lời của ta chẳng ra gì hay sao?”
Tư Mã Lâm nghĩ thầm: “Thằng cha này ăn nói ngang ngược thật”, liền đáp: “Thù cha không đội trời chung. Tư Mã Lâm này tuy võ công kém cỏi, nhưng dẫu có tan xương nát thịt cũng phải trả mối thâm cừu. Tiên phụ bị ai sát hại, xin tiên sinh chỉ bảo cho.” Bao tam tiên sinh cười khanh khách nói: “Phụ thân ngươi có phải là con ta đâu, hắn bị ai giết có liên quan đếch gì đến ta? Ta chỉ nói không phải Mộ Dung công tử ra tay giết hắn, ngươi còn ra vẻ không tin. Thế thì chính ta giết y đấy. Ngươi muốn báo thù thì cứ xông vào!” Tư Mã Lâm mặt giận xám xanh, nói: “Cái thù giết cha há phải trò đùa? Bao tam tiên sinh, ta tự biết sức mình không địch nổi người. Ngươi muốn giết ta thì giết, chứ làm nhục ta thế này không được.” Bao tam tiên sinh cười nói: “Ta không muốn giết mà chỉ muốn làm nhục ngươi thôi. Ngươi làm gì được ta nào?”
Tư Mã Lâm tức khí xông lên tận cổ, muốn liều thân thí mạng với y nhưng lại không dám, đành đứng chết sững tại chỗ như trời trồng, tiến thoái lưỡng nan. Bao tam tiên sinh cười nói: “Võ công kém cỏi như Tư Mã Vệ cha ngươi, cần gì phải đến Mộ Dung công tử nhọc lòng? Mộ Dung công tử võ công gấp mười ta, ngươi thử nghĩ mà xem, Tư Mã Vệ liệu có xứng để y phải ra tay hay không?”
Tư Mã Lâm chưa kịp trả lời, Chư Bảo Côn đã rút phăng khí giới, lớn tiếng nói: “Bao tam tiên sinh! Tư Mã Vệ lão tiên sinh là ân sư truyền nghề cho ta. Ta cấm ngươi không được nhục mạ thanh danh người đã khuất.” Bao tam tiên sinh cười nói: “Ngươi là đứa gian tế trà trộn vào phái Thanh Thành lừa thầy học trộm võ công, còn rỗi hơi chen vào chuyện người khác làm gì?” Chư Bảo Côn lớn tiếng đáp: “Tư Mã sư phụ đãi ta ân thâm nghĩa trọng, Chư Bảo Côn này thẹn chưa bảo đáp được gì, hôm nay mong được vì bảo tồn thanh danh cho tiên sư mà chết, để chuộc lại phần nào cái lỗi lừa thầy. Bao tam tiên sinh, ngươi mau xin lỗi Tư Mã chưởng môn đi.”
Bao tam tiên sinh cười nói: “Bao tam tiên sinh này xưa nay chưa bao giờ nhận lỗi, cũng chẳng xin lỗi ai, dẫu có biết mình sai cũng cãi cho bằng được. Tư Mã Vệ lúc sống cũng có thanh danh cái quái gì đâu, hắn chết rồi thì thanh danh lại càng nát ra như cám. Những người như thế đáng giết lắm, giết sớm đi càng tốt!” Chư Bảo Côn quát lên: “Mau lấy binh khí ra!” Bao tam tiên sinh lại cười: “Bọn con cái học trò Tư Mã Vệ toàn là phường bị thịt, trừ việc bắn trộm hại người còn biết cái quái gì nữa đâu!”
Chư Bảo Côn kêu lớn: “Coi đây!” Y sử chiêu Thượng Thiên Hạ Địa, tay trái dùi sắt, tay phải cầm búa cùng tấn công. Bao tam tiên sinh không thèm đứng dậy, phất tay áo bên trái ra một luồng kình phong quật thẳng vào mặt địch thủ, Chư Bảo Côn dường như bị nghẹt thở, nghiêng người né tránh. Bao tam liền đưa chân phải ra móc một cái ngã lăn xuống đất, tiện đà đá luôn vào mông y, bắn ra ngoài cửa sảnh đường. Chư Bảo Côn ở trên không xoay mình một cái, vai vừa đụng đất liền uốn mình đứng dậy, khập khiễng quay vào, lại vung dùi xông tới. Bao tam tiên sinh chộp luôn cổ tay y, không hiểu hất thế nào mà khiến cho người y tung lên cao, đụng mạnh vào xà nhà đánh rầm một tiếng, đau ê ẩm cả người. Y vừa rơi xuống lại trở mình đứng dậy xông vào lần thứ ba. Bao tam tiên sinh chau mày nói: “Mi thật là đứa không biết gì. Mi tưởng ta không giết được mi chăng?” Chư Bảo Côn kêu lên: “Ngươi giết ta quách đi cho xong.”
Bao tam tiên sinh vung hai tay ra, nắm tay y tung mạnh một cái, nghe kêu lách cách, xương hai cánh tay Chư Bảo Côn đã gãy lìa, dùi liền đâm vào vai trái, còn búa cũng đập vào vai phải, hai vai máu chảy ròng ròng. Lần này y bị thương rất nặng, tuy vẫn muốn tiếp tục liều mạng, nhưng kiệt lực mất rồi. Người của phái Thanh Thành ngơ ngác nhìn nhau, phân vân không biết có nên vào giúp Chư Bảo Côn hay không. Thế nhưng thấy y vì bảo tồn thanh danh cho tiên sư mà không kể gì sống chết, quả không có gì là giả dối, thù hận trong lòng đã giảm đi quá nửa.
A Châu từ nãy vẫn đứng một bên không nói lời nào, đột nhiên xen vào: “Tư Mã đại gia, nhà Mộ Dung Cô Tô nếu như đã giết Tư Mã lão tiên sinh thì lẽ nào bây giờ để cho các ông sống sót? Nếu như Bao tam ca muốn giết hết tất cả, e rằng cũng chẳng khó lắm đâu, ít nhất cũng không cứu tính mạng Tư Mã đại gia mà Vương cô nương cũng chẳng cứu Chư đại gia làm gì. Thực sự là ai ra tay hại Tư Mã lão tiên sinh, các vị nên trở về tìm hiểu cho minh bạch.”
Tư Mã Lâm nghĩ lời nàng quả thực có lý, toan mở miệng nói vài câu đãi bôi. Bao tam tiên sinh giận dữ quát: “Đây là trang viện của A Châu muội tử, chủ nhân đã lên tiếng đuổi khách rồi, sao người còn lần khân chưa chịu đi?” Tư Mã Lâm đáp: “Được rồi, sau này gặp lại.” Y hơi gật đầu, đi ra ngoài. Bọn Chư Bảo Côn cũng lục tục đi theo.
Diêu Bá Đương thấy Bao tam tiên sinh võ công cao cường, hành sự quái dị, có ý muốn làm quen vị giang hồ kỳ nhân này, huống chi thấy Vương Ngữ Yên trong bụng chứa biết bao nhiêu là võ học, lòng tham nổi lên muốn chiếm đoạt cho bằng được, liền đứng lên định mở lời. Bao tam tiên sinh lớn tiếng nói: “Diêu Bá Đương, ta nói cho nghe, tên sư đệ ăn hại Tần Bá Khởi của ngươi dù có luyện thêm ba chục năm cũng chẳng đáng cho Mộ Dung Công tử chém một đao, muốn được Mộ Dung công tử chém bốn đao thì phải luyện thêm hơn một trăm hai chục năm. Ta không thèm nói chuyện với ngươi, mau mau lăn ra khỏi nơi đây.” Diêu Bá Đương sửng sốt nhưng lập tức mặt tím lại, giơ tay cầm lấy chuôi đao. Bao tam tiên sinh nói: “Võ công hạng bét như người mà cũng toan múa rìu qua mắt thợ hay sao? Ta bảo người mau lăn ra, không lẽ còn phải nói đến lần thứ hai chăng?”
Bọn Tần gia trại hồi nãy bao nhiêu đao ném vào Tư Mã Lâm, rồi bị Bao tam tiên sinh bắt hết được vứt dưới chân, thấy y làm nhục Diêu Bá Đương như thế người nào cũng sôi gan, nhưng có điều ai nấy tay không chẳng khác gì hổ mất hết nanh vuốt. Bao tam tiên sinh cười ha hả, chân phải liên tiếp đá ra, hơn chục thanh đao vùn vụt tung lên, bay thẳng vào bọn Tần gia trại. Những thanh đạo đó đi thật chậm, ai nấy đều thuận tay bắt được. Nắm được binh khí trong tay rồi, chúng mới thấy kinh hãi. Rõ ràng nếu Bao tam tiên sinh muốn phóng đao giết hết bọn chúng e còn dễ hơn nhiều. Mọi người trong tay đã có đao mà vẫn luống cuống không biết làm sao cho phải. Bao tam tiên sinh nói: “Diêu Bá Đương, người có chịu lăn ra không?” Diêu Bá Đương cười gượng: “Tiên sinh đối với họ Diêu này có ơn cứu mạng, cái thân này do các hạ ban cho. Các hạ đã ra lệnh dĩ nhiên phải tuân theo, xin cáo biệt.” Nói xong khom lưng hành lễ, tay phất một cái nói: “Thôi, tất cả đi ra!”.
Bao tam tiên sinh nói: “Ta bảo ngươi lăn ra chứ có bảo ngươi đi ra đâu?” Diêu Bá Đương ngạc nhiên nói: “Tại hạ chưa hiểu.” Bao tam tiên sinh nói: “Muốn lăn thì phải nằm xuống đất, ngươi có lăn không thì bảo?” Diêu Bá Đương nghĩ thầm người này tính tình thật điên khùng cổ quái, không muốn dây dưa liền rảo bước đi ra cửa sảnh. Bao tam tiên sinh quát lên: “Sai bét, sai bét. Đó là đi, là bước, là cúp đuôi chạy trốn chứ nào có phải là lăn đâu?” Y thân hình rung động đã vọt tới sau lưng Diêu Bá Đượng, tay trái thò ra nắm ngay ót, Diêu Bá Đương thúc cùi chỏ ngược về sau, Bao tam tiên sinh nhấc tay lên, người của Diêu Bá Đương như bơi giữa khoảng không khiến cho khuỷu tay của y thúc vào chỗ trống.
Bao tam tiên sinh tay phải liền nằm ngay mông y, lớn tiếng quát: “Trang viện của A Châu muội tử đâu phải ngươi muốn đến là đến, muốn đi là đi dễ như thế? Con mẹ ngươi, có lăn ra không nào?” Y thuận tay phong bế huyệt đạo rồi hất tay một cái. Thân hình to béo của Diêu Bá Đương chẳng khác gì một khúc gỗ lục cục lăn đến cửa, cũng may cửa sảnh rộng rãi nên y không bị va vào đâu, lăn thẳng ra ngoài. Bọn Tần Gia Trại hoảng hốt vội túa ra đỡ y dậy, Diêu Bá Đương thần trí hồ đồ, lại tưởng mình đang đi ăn cướp bị đuổi bắt, liền dùng tiếng lóng ra lệnh: “Gió lớn! Gió lớn!” Cả bọn như bầy ong vỡ tổ chen nhau chạy mất.
Bao tam tiên sinh nhìn Đoàn Dự mấy cái, không đoán nổi chàng là hạng người nào, hỏi Vương Ngữ Yên: “Gã này thuộc bọn nào? Tống cổ nốt y đi chăng?” Vương Ngữ Yên đáp: “Tiểu muội và A Châu, A Bích đều bị Nghiêm má má bắt giữ, tình thế cực kỳ nguy hiểm, may được Đoàn công tử đây ra tay cứu. Hơn nữa, anh ta biết chuyện Huyền Bi hòa thượng bị người ta dùng Vi Đà Chử đánh chết, mình còn phải hỏi lại cho rõ ràng.” Bao tam tiên sinh nói: “Cô nói thế là muốn giữ y lại chứ gì?” Vương Ngữ Yên đáp: “Đúng vậy!” Bao tam tiên sinh mỉm cười: “Cô không sợ Mộ Dung huynh đệ ghen hay sao?” Vương Ngữ Yên mở tròn đôi mắt: “Ghen cái gì?” Bao tam tiên sinh chỉ Đoàn Dự nói: “Gã này mặt trơ tràn bóng, mồm miệng trơn tuột như bôi mỡ, cô đừng bị dụ dỗ!” Vương Ngữ Yên không hiểu, hỏi lại: “Tiểu muội có gì mà y dụ dỗ? Tam ca bảo y đặt điều nói láo tin tức về chùa Thiếu Lâm ư? Tiểu muội không sao hiểu nổi.”
Bao tam tiên sinh nghe nàng nói chuyện thơ ngây, không tiện hỏi thêm, quay sang Đoàn Dự cười khẩy mấy tiếng nói: “Nghe nói Huyền Bi hòa thượng của chùa Thiếu Lâm bị người ta dùng công phu Vi Đà Chử đánh chết ở Đại Lý, lại có một bọn hồ đồ đổ tội cho nhà Mộ Dung chúng ta. Chuyện đó như thế nào, ngươi kể lại đầu đuôi ta nghe.”
Đoàn Dự bực mình, cười nhạt nói: “Ngươi thẩm vấn tù phạm đó chăng? Nếu như ta không nói ngươi sẽ tra khảo hay sao?” Bao tam tiên sinh ngạc nhiên, không nổi giận mà lại bật cười lẩm bẩm: “Tiểu tử lớn mật! Tiểu tử lớn mật!” Đột nhiên y tiến lên nắm lấy cánh tay chàng, hơi dùng sức, Đoàn Dự đau đến thấu xương kêu lên: “Ối, ngươi làm gì thế?” Bao tam tiên sinh đáp: “Ta dùng nghiêm hình tra khảo, hỏi cung tù phạm đó.” Đoàn Dự bèn mặc kệ coi như không phải tay mình, mỉm cười nói: “Ngươi càng khảo đả ta, ta càng không thèm nhìn tới ngươi.” Bao tam tiên sinh tăng gia kình lực đến nỗi xương tay Đoàn Dự kêu lên lách cách dường như muốn gãy. Đoàn Dự cố nhịn đau, không để ý gì tới. A Bích vội nói: “Vị Đoàn công tử đây tính khí cao ngạo lắm, lại là ân nhân cứu mạng của bọn tiểu muội, tam ca đừng làm chàng bị thương.” Bao tam tiên sinh gật đầu nói: “Được lắm, được lắm! Tính khí cao ngạo thật hợp với ta.” Nói xong y từ từ thả tay Đoàn Dự ra.
A Châu cười nói: “Chắc bọn mình ai cũng đói rồi. Lão Cố ơi! Lão Cố!” Nàng cao giọng gọi lớn mấy tiếng. Lão Cố từ cửa hông thò đầu vào thấy bọn đạo tặc cùng ma quái không còn ai ở đó, mừng rỡ lật đật chạy vào. A Châu nói: “Lão đi súc miệng hai lần, rửa mặt hai lần, rửa tay ba lần sau đó hãy đi làm cho chúng ta mấy món thật tinh khiết. Nếu có chỗ nào không sạch sẽ, Bao tam gia sẽ không tha cho lão đâu.” Lão Cô mỉm cười gật đầu, luôn mồm nói: “Sạch sẽ lắm, sạch sẽ lắm chứ!”
Các tì bộc trong Thính Hương Thủy Tạ liền dọn tiệc tại một hoa sảnh. A Châu mời Bao tam tiên sinh ngồi đầu tiệc, Đoàn Dự ngồi thứ hai, Vương Ngữ Yên ngôi thứ ba còn nàng và A Bích ngồi phía dưới tiếp khách. Vương Ngữ Yên chưa cầm đũa đã nóng ruột hỏi: “Tam ca, biểu huynh… biểu huynh…”
Bao tam tiên sinh trừng mắt nhìn Đoàn Dự nói: “Vương cô nương, nơi đây có người ngoài, mọi chuyện không nên nói ra. Huống chi cái thứ mặt trơ trán bóng, ta chẳng đời nào tin nổi…” Đoàn Dự nghe thế tức khí đùng đùng, đứng phắt dậy, định bỏ bàn tiệc đi ra ngoài.
A Bích vội nói: “Đoàn công tử đừng nổi giận, Bao tam ca chúng tôi trước nay vẫn ăn nói không cần giữ miệng. Đại hiệu của ông ta là Bao Bất Đồng, gặp ai cũng phải gây gổ mấy câu mới ăn được cơm. Họa chăng chỉ có khi nào mặt trời mọc ở phương tây thì tam ca mới không mích lòng ai. Xin công tử ngồi nán lại một chút đã.”.
Đoàn Dự nhìn Vương Ngữ Yên, thấy mặt nàng dường như cũng muốn mình ở lại, tuy không chắc lắm nhưng không đành bỏ qua cơ hội ngồi bên cạnh nàng, nên lại ngồi xuống nói: “Bao tam tiên sinh bảo tôi mặt trơ trán bóng quả thực không sao chịu nổi. Tướng mạo Mộ Dùng công tử của các cô có tương tự Bao tam tiên sinh không?”
Bao Bất Đồng cười ha hả nói: “Hỏi hay lắm. Công tử của bọn ta so với Đoàn công tử còn anh tuấn hơn nhiều…” Vương Ngữ Yên nghe nói mặt mày rạng rỡ. Bao Bất Đồng nói tiếp: “Công tử chúng ta hiên ngang anh tuấn, tuy đẹp trai thực, nhưng so với cái đẹp kiểu giá áo túi cơm như Đoàn công tử thì hoàn toàn khác hẳn, khác hẳn. Còn như tại hạ thì có anh mà không tuấn, tuy cũng hiên ngang nhưng mặt mũi xấu xí, phải gọi là anh xú.” Cả bọn cười ồ.
Bao Bất Đồng cạn chén rượu nói: “Công tử sai ta đến Phúc Kiến làm một việc, cốt để ngầm giúp chùa Thiếu Lâm một tay, còn như làm việc gì thì đợi bao giờ vị Đoàn công tử này đi khỏi rồi ta sẽ nói. Bọn ta đang muốn kết giao với phái Thiếu Lâm thì không thể nào tự nhiên lại giết hòa thượng, huống chi công tử đã tới Đại Lý bao giờ đâu. Cô Tô Mộ Dung võ công tuy cao thật nhưng e rằng chưa tới mức có thể dùng Vi Đà Chử để giết người ngoài vạn dặm.”
Đoàn Dự gật đầu: “Bao huynh nói vậy cũng có lý.”
Bao Bất Đồng lắc đầu nói: “Sai bét, sai bét!” Đoàn Dự ngạc nhiên nghĩ thầm: “Ta bảo người nói có lý, sao ngươi lại bảo ta nói sai?”. Lại nghe Bao Bất Đồng nói: “Không phải là ta nói có lý, mà là sự thực rành rành. Đoàn công tử cho rằng ta nói có lý, phải hiểu ngầm rằng sự thực không phải vậy, chỉ vì ta mồm miệng khéo léo, biện luận cho có lý đấy thôi. Lời của ngươi thật là sai bét, sai bét.” Đoàn Dự mỉm cười không trả lời, nghĩ bụng chớ nên cãi lẫy với y làm gì. Bao Bất Đồng nói: “Hôm qua ta quay trở lại Tô Châu gặp Phong tứ đệ, hai anh em trao đổi mới hay có bọn chó má nào đó ngầm gây chuyện hại người để cho thiên hạ đổ tội lên đầu Cô Tô Mộ Dung. Chuyện đó đáng lẽ là hảo sự, ai kiếm chuyện là mình đánh, còn gì thú vị cho bằng?” A Châu cười nói: “Tứ ca hẳn là mở cờ trong bụng, chuyện đó y cầu còn chưa được.” Bao Bất Đồng lắc đầu: “Sai bét, sai bét. Tứ đệ muốn đánh nhau thì không cầu mà vẫn được, đi khắp thiên hạ thể nào cũng có lúc đánh nhau.” Đoàn Dự thấy y bắt bẻ cả A Châu mới hay lời của A Bích không sai, lão này chỉ thích cãi lộn làm vui.
Vương Ngữ Yên nói: “Thế tam ca với tứ ca bàn bạc những gì?” Bao Bất Đồng đáp: “Thứ nhất là hung thủ không phải ở phái Thiếu Lâm. Thứ hai, cũng không phải ở Cái Bang vì phó bang chủ của họ là Mã Đại Nguyên bị người ta dùng Tỏa Hầu Công giết. Tỏa Hầu Công là tuyệt kỹ thành danh của Mã Đại Nguyên, y có bị giết cũng chẳng có gì là lớn chuyện, nhưng dùng Tỏa Hầu Công giết Mã Đại Nguyên thì đúng là giá họa cho Cô Tô Mộ Dung rồi.” Đoàn Dự gật đầu. Bao Bất Đồng nói: “Đoàn công tử gật đầu liên tiếp, hẳn là trong bụng nghĩ mấy câu nói của ta có lý chứ gì?” Đoàn Dự đáp: “Sai bét, sai bét: Thứ nhất, ta chỉ gật đầu có một cái chớ không phải gật đầu liên tiếp. Thứ hai, ta thực tình thấy là đúng, chứ không phải chỉ vì Bao huynh nói có lý”.
Bao Bất Động cười ha hả nói: “Nhà người học cái thuật gậy ông đập lưng ông, định gia nhập dưới trướng Cô Tô Mộ Dung chăng? Có ý gì đây? Hay là phải lòng A Bích muội tử rồi?” A Bích e thẹn mặt đỏ bừng, phụng phịu nói: “Tam ca lại ăn nói lung tung rồi. Tiểu muội có đắc tội gì với tam ca đâu?” Bao Bất Đồng nói: “Sai bét, sai bét! Ngươi vừa dịu dàng, vừa dễ thương rất vừa mắt ta. Ta nói như thế chính vì ngươi không có lỗi lầm gì, còn như nếu ngươi đắc tội với ta thì ta sẽ nói là người phải lòng tên mặt trắng chứ tên mặt trắng đó chẳng có tư tưởng gì ngươi đâu.” A Bích càng thêm luống cuống. A Châu nói: “Tam ca đừng có bắt nạt A Bích muội tử. Nếu tam ca còn ăn hiếp cô ấy là tiểu muội sẽ ăn hiếp bé Tịnh Tịnh cho mà xem.”
Bao Bất Đồng cười sằng sặc nói: “Con gái ta khuê danh là Bao Bất Tịnh, người gọi nó là Tịnh Tịnh thì quả là tâng bốc nó chứ có phải là ăn hiếp nó đâu. Mà này A Bích tiểu muội, ta có bắt nạt ngươi gì đâu?” Nghe y đấu dịu, dường như nghe người ta dọa hiếp đáp con gái mình liền có phần kiêng nể.
Y quay sang nói với Vương Ngữ Yên: “Đám khốn kiếp kia có mưu toan gì thì bọn mình từ từ rồi cũng tìm ra. Phong tứ đệ vừa ở Giang Tây về điều tra chưa được rõ ràng, bọn mình phải đi Thanh Vân Trang mới được. Đặng đại tẩu được tin các hảo thủ Cái Bang cùng kéo xuống Giang Nam, xem chừng muốn kiếm chuyện. Tứ đệ nghe thế liền muốn đi đánh nhau ngay, may nhờ đại tẩu khuyên nhủ mới chịu thôi.” A Châu mỉm cười nói: “Đại tẩu quả nhiên có uy thật, khuyên được cả tứ ca đừng đi đánh nhau.” Bao Bất Đồng nói: “Sai bét, sai bét! Chẳng phải đại tẩu có uy mà là nói nghe có lý. Đại tẩu bảo là: phải lấy lại đại sự của công tử là trọng, không nên gây thù chuốc oán thêm.”
Y nói mấy câu đó, Vương Ngữ Yên, A Châu, A Bích ba người nhìn nhau, vẻ mặt ai nấy đều có vẻ nghiêm trang. Đoàn Dự giả vờ như không để ý, giơ đũa gắp một miếng thịt gà quay bỏ vào mồm, nói: “Lão Cố nấu ăn không tệ, thế nhưng so với A Châu, A Bích hai vị tỉ tỉ thì vẫn còn kém xa.” A Bích mỉm cười đáp: “Tài nấu ăn của lão Cố so với chị A Châu thì kém thật nhưng so với muội đây thì lại hơn nhiều.” Bao Bất Đồng nói: “Sai bét, sai bét. Hai người các ngươi mỗi người một vẻ, ai cũng có chỗ hay riêng.” A Châu cười: “Tam ca, bữa nay tiểu muột không vào bếp tự tay làm mấy món cho tam ca ăn, lần sau sẽ bù lại…” Nàng vừa nói tới đây bỗng nghe có tiếng lục lạc leng keng từ trên cao vọng xuống.
Bao Bất Đồng và A Châu, A Bích cùng reo lên: “Nhị ca đưa tin đến kìa.” Ba người rời chỗ ngồi chạy ra trước nhà, ngẩng đầu lên thấy một con bồ câu trắng bay lượn trên không rồi đáp xuống đậu vào tay A Châu. A Bích đưa tay tháo chiếc ống trúc nhỏ buộc nơi chân con chim, lấy ra một tờ giấy mỏng. Bao Bất Đồng cầm lấy đọc qua rồi nói: “Thế này thì mình phải đi ngay!” Y quay sang nói với Vương Ngữ Yên: “Này, cô có đi theo không?” Vương Ngữ Yên hỏi lại: “Đi đâu? Có chuyện gì thế?” Bao Bất Đồng xòe tay giơ tờ giấy ra nói: “Nhị ca đưa tin một đám hảo thủ của Nhất Phẩm Đường nước Tây Hạ đến Giang Nam, không hiểu có ý gì, sai ta và hai cô A Châu, A Bích đi tra xét xem sao.” Vương Ngữ Yên đáp: “Dĩ nhiên tiểu muội phải đi theo rồi. Người của Nhất Phẩm Đường nước Tây Hạ cũng muốn gây sự với mình ư? Xem ra kẻ đối đầu mỗi lúc một nhiều.” Nàng nói tới đây lại chau mày. Bao Bất Đồng nói: “Chưa chắc đã là đối đầu, nhưng hẳn họ tới Giang Nam chẳng phải để du sơn ngoạn thủy hay viếng chùa lễ Phật đâu. Đã lâu mình chưa gặp cao thủ, nay lại có Cái Bang, rồi Nhất Phẩm Đường. Ha ha! Lần này chắc là nhộn nhịp lắm.” Y mặt mày phấn khởi, xem ra hứng chỉ sắp được đánh nhau.
Vương Ngữ Yên đi tới gần, có vẻ muốn xem thư viết gì. Bao Bất Đồng liền đưa cho nàng tờ giấy, thấy trên đó viết bảy tám hàng, nét bút thanh nhã lại có kình lực, tuy chữ nào nàng cũng biết nhưng đọc lên chẳng ra câu cú gì. Nàng đọc sách đã nhiều nhưng viết kiểu này thì mới thấy lần đầu, nên nhíu mày hỏi: “Cái này nghĩa là gì?” A Châu mỉm cười: “Đây là trò nghịch ngợm của Công Dã nhị ca, dùng thi vận và thiết âm biến ra, bình thanh đọc thành nhập thanh, nhập thanh đọc thành thượng thanh, nhất giản đọc thành tam giang, đảo qua đảo lại. Bọn tiểu muội đọc quen rồi hiểu ngay, người ngoài nhìn vào thì mù tịt.”
Vương Ngữ Yên nghe hai tiếng “người ngoài” vẻ mặt hơi xìu xuống, A Bích thấy vậy vội dỗ: “Vương cô nương không phải người ngoài. Nếu như cô muốn biết tiểu tì sẽ nói hết cho cô nghe.” Vương Ngữ Yên nghe thế mặt mới tươi trở lại.
Bao Bất Đồng nói: “Ta từng nghe Nhất Phẩm Đường của Tây Hạ hảo thủ rất đông, có đủ cả các môn phái ở Trung Nguyên, Tây Vực. Có Vương cô nương đi cùng thì chỉ nhìn qua là biết ngay họ gốc gác ra sao. Để xong việc này rồi mình sẽ cùng đi Hà Nam gặp công tử gia.” Vương Ngữ Yên cả mừng, vỗ tay reo lên: “Hay lắm! Hay lắm! Thế ta cũng đi.”.
A Bích nói: “Mình phải làm việc này cho sớm để đến Hà Nam cho kịp, kẻo công tử lại quay về, trên đường có khi lỡ dịp gặp nhau. Lại còn nhà sư Thổ Phồn không biết còn quấy phá gì bên nhà muội nữa không.” Bao Bất Đồng đáp: “Công Dã nhị tẩu đã sai người qua xem, gã hòa thượng đó đi rồi. Ngươi yên tâm, lần sau tam ca sẽ giúp người đánh gã trọc đó.” Đoàn Dự nghĩ thầm: “Tam ca đánh sao lại gã trọc, gã trọc không đánh tam ca đã là phúc cho tam ca lắm rồi”.
Bao Bất Đồng lại nói: “Chỉ ngại Vương cô nương mà đi theo chúng ta, lần sau Vương phu nhân gặp mình thế nào cũng mắng mỏ một chập..” Đột nhiên y quay lại nói với Đoàn Dự: “Ngươi cứ ngồi đây nghe chuyện của bọn ta, chán chết đi được. Họ Đoàn kia biến đâu thì biến đi, bọn ta nói chuyện riêng, ngươi đừng có vểnh tai chõ mồm vào làm gì. Bọn ta đi tỉ võ với người khác, cũng chẳng cần đến người đứng xem reo hò đâu.”
Đoàn Dự biết mình còn ngồi tiếp không khỏi bị coi rẻ, lúc này Bao Bất Đồng công nhiên xua đuổi, ăn nói cực kỳ xấc xược. Tuy chàng thật chẳng muốn rời xa Vương Ngữ Yên nhưng không mặt mũi nào ở lại, bèn nghiến răng đứng phắt dậy nói: “Vương cô nương, A Châu, A Bích hai vị cô nương, tại hạ xin cáo từ, sau này có dịp sẽ gặp lại.”
Vương Ngữ Yên nói: “Đêm hôm khuya khoắt, công tử đi đâu bây giờ? Thủy đạo trên Thái Hồ công tử lại không quen, chi bằng nghỉ lại qua đêm, sáng mai đi cũng không muộn.” Lời nàng thì lưu khách mà vẻ mặt lại lạnh tanh, hiển nhiên tâm hồn đã bay bổng đến bên Mộ Dung công tử, Đoàn Dự không khỏi bực dọc, càng thêm chán chường. Chàng là con vua cháu chúa, từ bé vốn được nuông chiều, gần đây tuy có chịu nhiều đau khổ giày vò nhưng chưa bao giờ bị ai đối xử lạnh nhạt đến thế, liền đáp ngay: “Hôm nay đi hay ngày mai đi thì cũng chẳng khác bao nhiêu, xin cáo từ.” A Châu nói: “Nếu đã thế, để tiểu tì cho người đưa công tử ra khỏi hồ.”
Đoàn Dự thấy A Châu cũng chẳng chèo kéo, càng thêm mất vui, nghĩ bụng: “Gã Mộ Dung công tử kia có cái gì ghê gớm mà sao ai cũng coi y như con phượng hoàng. Họ chẳng coi Thiếu Lâm Tự, Cái Bang, Tây Hạ Nhất Phẩm Đường vào đâu, chỉ mong sớm gặp được Mộ Dung công tử”. Chàng bèn đáp: “Chẳng cần phải thế, cô nương chỉ cần cho mượn một chiếc thuyền, một mái chèo, tại hạ tự kiếm đường ra.” A Bích trầm ngâm nói: “Công tử không quen đường thủy trong này, e rằng sẽ gặp rắc rối. Nhớ cẩn thận đừng để đụng đầu gã hòa thượng kia.” Đoàn Dự nổi khùng nói: “Các người cứ lo chuyện đi gặp Mộ Dung công tử đi. Ta mà đụng phải nhà sư kia, quá lắm thì cũng để cho y thiêu sống. Ta nào có phải biểu huynh biểu đệ, công tử thiếu gia gì của các người, hơi đâu mà lo?” Chàng nói xong hầm hầm đi ra ngoài cửa, còn nghe Bao Bất Đồng nói: “Nhà sư Thổ Phồn kia không biết lai lịch ra sao, cần phải tìm hiểu cho rõ ràng.” Vương Ngữ Yên đáp: “Chắc biểu huynh biết, chỉ cần gặp được y…”
A Châu và A Bích tiễn Đoàn Dự đi ra. A Bích nói: “Đoàn công tử, sau này công tử và công tử gia chúng tôi gặp nhau, không chừng sẽ thành đôi bạn tốt. Công tử chúng tôi thích kết bạn lắm.” Đoàn Dự cười nhạt nói: “Tại hạ không dám với cao đến thế.” A Bích nghe giọng chàng bực bội, liền lạ lùng hỏi lại: “Đoàn công tử, sao công tử có vẻ không vui? Hay là tại chúng tôi tiếp đãi quá sơ sài?” A Châu nói: “Bao tam ca chúng tôi tính vốn thế, xin công tử đừng để tâm làm chi. Tiểu nữ và A Bích muội tử xin lỗi vậy.” Nói xong cười hì hì cúi xuống hành lễ, A Bích cũng làm theo.
Đoàn Dự tạ lễ rồi đứng lên, rảo bước đến bờ nước, nhảy xuống chiếc thuyền con chèo thẳng ra giữa hồ. Chàng thấy nghèn nghẹn trong cổ, nhưng vì nguyên do gì thì chính mình cũng chưa hiểu, chỉ biết nếu còn trên bờ thêm một chốc nữa sẽ mất bình tĩnh, nước mắt tuôn rơi không chừng. Loáng thoáng có tiếng A Bích nói: “A Châu tỉ tỉ, quần áo lót của công tử đã đủ chưa? Đêm nay chị em mình mỗi người khâu thêm một cái, liệu có nên chăng?” A Châu đáp: “Nên lắm! Nhà ngươi quả là chu đáo”.