Thiên Long Bát Bộ

Hồi 45: Đáy giếng khô hai lòng hòa nhịp, chốn bùn lầy hẹn ước chung thân

trước
tiếp

Ba Thiên Thạch cùng Chu Đan Thần cũng đã tới, gặp Mộc Uyển Thanh, bèn giới thiệu nàng với Tiêu Phong, Hư Trúc. Hai người Ba, Chu tuy đã biết nàng là con gái của Trấn Nam Vương, nhưng chưa tổ chức nghi lễ nhìn nhận chính thức, nên vẫn gọi nàng là Mộc cô nương.

Đoàn người đi được mấy dặm thì trời đã xế chiều, bỗng nghe phía bên trái có tiếng kêu gào rất lớn, chính là thanh âm Nam Hải Ngạc Thần. Dường như hắn đang gặp phải chuyện gì nguy hiểm. Đoàn Dự nói: “Là đồ đệ ta đó!” Chung Linh cũng la lên: “Chúng ta mau tới đó xem sao. Đồ đệ công tử rất tốt!” Hư Trúc cũng nói: “Phải đó! Mẫu thân đệ là Diệp Nhị Nương, tỉ muội với Nam Hải Ngạc Thần nên đệ không khỏi có chút tình hương hỏa.”

Mọi người giục ngựa lao về phía có tiếng hét, vòng vèo qua mấy góc núi thì đến một khu rừng rậm, bỗng thấy trên bờ vực thẳm một cảnh tượng kinh hồn động phách.

Bờ vực có một cây tùng đơn độc. Trên một cành cây mọc ngang ra, có người lấy gậy đâm vào rồi đứng lên đó. Người này mình mặc áo xanh chính là Đoàn Diên Khánh. Tay trái lão nắm gậy, tay mặt cũng cầm một cây gậy nữa, đầu cây gậy này có một người nắm lấy, chính là Nam Hải Ngạc Thần. Tay kia của Nam Hải Ngạc Thần lại túm lấy đầu tóc của Cùng Hung Cực Ác Vân Trung Hạc. Hai tay Vân Trung Hạc nắm giữ hai cổ tay một thiếu nữ. Cả bốn người nối thành một sợi đây dài lơ lửng trên không, ở vào tình trạng nguy hiểm vô cùng! Bất luận ai sểnh tay một chút là mấy người cùng rơi xuống vực thẳm. Dưới khe núi này đá tai mèo chi chít tựa cây rừng, nhiều mỏm đá nhọn hoắt như mũi dao chĩa thẳng lên, ai rớt xuống chắc chắn phải tan xác. Lúc ấy một cơn gió thổi qua, Nam Hải Ngạc Thần, Vân Trung Hạc và thiếu nữ lắc lư thành vòng cung. Thiếu nữ lúc trước xoay lưng về phía mọi người, bây giờ quay nghiêng mặt lại. Đoàn Dự vừa trông thấy đã la hoảng: “Trời ơi!” rồi suýt nữa chàng lọt từ trên lưng ngựa xuống.

Thiếu nữ này chẳng phải ai xa lạ, chính là Vương Ngữ Yên mà chàng ngày đêm thương nhớ. Đoàn Dự định thần lại, ngẩng đầu nhìn lên thì thấy sườn núi cực kỳ hiểm hóc, không có cách nào phi ngựa lên được. Chàng vội vàng xuống ngựa, chạy lại trước cây tùng thì thấy một người vừa lùn vừa béo mập đang cầm búa lớn chặt gốc cây tùng này. Đoàn Dự kinh hãi quá, la lên: “Ôi chao! Ngươi làm gì vậy?” Người béo lùn lờ đi như không nghe thấy, giơ búa tiếp tục chặt cây. Đoàn Dự trỏ ngón tay ra vận chân khí, muốn phát Lục Mạch Thần Kiếm tấn công hắn. Nhưng chàng sử Lục Mạch Thần Kiếm chưa được linh hoạt, không phải lúc nào muốn phát huy cũng được ngay, chỉ trỏ luôn mấy cái mà vẫn chẳng thấy kiếm khí vọt ra. Đoàn Dự lại càng sợ hãi đến cuống cuồng, lớn tiếng hô hoán: “Đại ca! Nhị ca! Hai vị hảo muội tử! Bốn vị hảo cô nương! Lại đây! Mau lại đây cứu người!”

Tiêu Phong, Hư Trúc vội chạy lại. Người lùn kia vốn khuất sau một tảng đá lớn nên ở dưới nhìn lên không thấy, gió núi lại thổi mạnh, tiếng chặt cây cũng không nghe rõ, nên không ai phát giác từ xa. May mà cây tùng này rất lớn, hắn không chặt đứt ngay được.

Bọn Tiêu Phong thấy tình trạng này đều vô cùng kinh hãi, không biết tại sao cơ sự lại như thế. Hư Trúc kêu lên: “Lão huynh mập kia, đừng chặt cây nữa!” Lão lùn mập nói: “Cây này do ta trồng, bây giờ ta muốn chặt về làm quan tài, ngươi cấm được ta ư?” Hắn vừa nói, vừa tiếp tục chặt cây. Nam Hải Ngạc Thần vẫn lớn tiếng la hoảng không ngớt. Đoàn Dự nói: “Nhị ca! Không thể nói chuyện phải trái với y được. Nhị ca hãy kiềm chế y trước rồi sẽ nói sau!” Hư Trúc đáp: “Đúng thế!”

Hư Trúc toan chạy tới thì bỗng thấy một người chống gậy lướt qua mặt mọi người mau lẹ phi thường, chỉ nhô lên hụp xuống mấy cái đã đến trước mặt gã béo lùn. Người này lướt đi mau quá nhìn không rõ, lúc hắn dừng lại mới biết là Du Thản Chi. Không biết gã đã chui từ trong xe lừa ra lúc nào.

Du Thản Chi chống một gậy xuống đất, một gậy giơ lên, lạnh lùng nói: “Không ai được lại đây!” Mộc Uyển Thanh chưa biết mặt gã, đột nhiên thấy dung mạo hắn xấu xí khủng khiếp, nàng cả kinh thất sắc, khẽ la lên một tiếng: “Úi chao!”

Đoàn Dự vội nói: “Trang Bang chủ! Bang chủ mau ngăn trở vị nhân huynh béo mập kia, đừng để y chặt đứt cây tùng.” Du Thản Chi lạnh lùng hỏi lại: “Ta ngăn trở y để làm chi, được ích lợi gì?” Đoàn Dự đáp: “Cây tùng mà đổ xuống thì mấy người kia đều chết hết.”

Hư Trúc thấy tình thế cực kỳ nguy hiểm liền tung mình nhảy vọt ra để ngăn trở không cho gã béo mập chặt cây, đồng thời cứu bọn Đoàn Diên Khánh, Nam Hải Ngạc Thần xuống. Ngày trước Hư Trúc giải được thế cờ Trân Lung bí hiểm, cũng đã nhờ Đoàn Diên Khánh chỉ điểm cho. Sau này y học được bản lĩnh đầy mình, cũng chính mở đầu từ ngày đó. Tuy những sự việc này là phúc hay là họa của y thì cũng khó nói, nhưng Đoàn Diên Khánh đối với y thì dĩ nhiên chỉ có hảo ý mà thôi.

Tay phải Du Thản Chi cắm cây trượng gỗ xuống đất, tay trái phóng ra một chưởng. Một luồng khí âm hàn theo chưởng phong xô ra. Hư Trúc không sợ âm hàn độc chưởng, nhưng biết rằng chưởng lực đối phương thâm hậu, không dám coi thường, phải định thần phóng chưởng chống lại. Du Thản Chi lại phóng phát chưởng thứ hai đánh vào cây tùng. Một cành cây rơi xuống, những cành khác lung lay không ngớt, bốn người đang treo lơ lửng cũng lắc lư theo.

Đoàn Dự vội la lên: “Nhị ca! Đừng tới gần nữa. Chúng ta nói chuyện tử tế hay hơn, hà tất phải động thủ? Trang Bang chủ! Ngươi có thù với ai? Sao lại hại người như thế?” Du Thản Chi hỏi: “Đoàn công tử! Ngươi muốn ta ngăn trở lão béo này thì chẳng có chi là khó. Nhưng ngươi có làm chuyện gì tốt cho ta không?” Đoàn Dự nói: “Bang chủ… muốn gì… ta cũng đồng ý. Ngươi muốn sao thì cứ nói ra, lẹ lên, lẹ lên! Đừng chần chừ nữa!” Du Thản Chi đáp: “Ta ngăn trở gã mập này xong, muốn cùng A Tử cô nương lập tức rời khỏi nơi đây. Ngươi cùng bọn Tiêu Phong, Hư Trúc không ai được ngăn trở. Các vị có ưng thuận như vậy không?”

Đoàn Dự vội đáp: “A Tử đang muốn nhị ca của ta chữa mắt cho sáng lại. Nếu A Tử đi theo ngươi thì làm sao chữa mắt?” Du Thản Chi đáp: “Hư Trúc tiên sinh đã có thể chữa mắt cho nàng, thì ta cũng có thể tìm cách chữa trị.” Đoàn Dự ngập ngừng nói: “Cái đó… cái đó…” Chàng thấy gã béo lùn vẫn đang tiếp tục chặt cây, nghĩ rằng cứu người là gấp, liền đáp: “Ta ưng thuận lời ngươi. Ngươi… ngươi… nhanh…”

Du Thản Chi vung chưởng đánh vào gã lùn mập. Gã này cười khì khì, quẳng búa xuống, đứng thủ thế, quát lên một tiếng rồi vung song chưởng lên chống đỡ phát chưởng của Du Thản Chi. Chưởng phong của gã rít lên veo véo, thanh thế cực kỳ mãnh liệt, còn phát chưởng của Du Thản Chi lại không một tiếng động.

Đột nhiên sắc mặt gã béo lùn biến đổi. Gã đang tỏ vẻ kiêu ngạo khinh người, bỗng ra chiều kinh hãi, dường như thấy một quái sự không ngờ nổi. Rồi khóe miệng gã ứa máu tươi, thân thể co rúm lại như một quả bóng, từ trên sườn núi lăn xuống vực thẳm. Một lát sau nghe “ầm” một tiếng, người gã đã đập vào những tảng đá lởm chởm dưới đáy hang. Mọi người nghe tiếng động, tưởng tượng ra thảm trạng gã béo lùn bị vỡ tan đầu óc, thân thể nát nhừ, đều không khỏi rùng mình.

Hư Trúc tung người nhảy vọt lên cành tùng, thấy cây cương trượng của Đoàn Diên Khánh cắm sâu vào cành cây. Nội lực lão cực kỳ ghê gớm, mới có thể đeo được cả bốn người nặng như thế lơ lửng mà không tuột trượng ra. Hư Trúc cực kỳ khâm phục, đưa tay ra nắm lấy cầy cương trượng kéo lên.

Nam Hải Ngạc Thần oang oang khen ngợi: “Tiểu hòa thượng! Ta đã sớm biết ngươi là người tốt! Ngươi là con của nhị tỉ ta, dĩ nhiên là tiểu điệt của Nhạc lão nhị. Ngươi đã là tiểu điệt, dĩ nhiên thấy Nhạc lão nhị bị nguy hiểm thì phải ra tay giúp đỡ. Hôm nay, nếu không được ngươi đến cứu mạng thì thật là nguy quá. Chúng ta bị treo ở đây đã ba ngày ba đêm rồi, không muốn nếm mùi cay đắng này nữa.” Vân Trung Hạc nói: “Thôi thôi! Đừng nói khoác nữa! Làm gì mà bị treo những ba ngày ba đêm.” Nam Hải Ngạc Thần tức giận nói: “Lúc nãy ta mà không gượng nổi, thả đầu tóc ngươi ra thì còn chi là mạng? Bây giờ ngươi có muốn ta thử buông tay không?” Hai người này tuy gặp lúc nguy hiểm mà vẫn gây gổ nhau.

Chỉ trong nháy mắt, Hư Trúc đã kéo được Đoàn Diên Khánh lên, rồi tiếp tục kéo đến Nam Hải Ngạc Thần cùng Vân Trung Hạc, sau cùng là Vương Ngữ Yên. Hai mắt nàng nhắm nghiền, hơi thở yếu ớt, dường như ngất đi đã lâu.

Đoàn Dự thấy cứu được nàng thì hết sức hoan hỉ, sau đó lại nổi lòng thương xót. Hai cổ tay nàng đều có quầng đen vì bị ngón tay Vân Trung Hạc nắm chặt. Chàng nghĩ tới Vân Trung Hạc là con người hung tàn hiếu sắc, đã mấy lần toan xúc phạm đến Mộc Uyển Thanh và Chung Linh, mà lần nào cũng nhờ Nam Hải Ngạc Thần cứu gỡ. Hôm nay lại diễn ra tấn kịch này, chàng tức giận đến cực điểm, liền nói: “Đại ca! Nhị ca! Gã Vân Trung Hạc này thật là khả ố! Chúng ta giết quách gã đi thôi!”

Nam Hải Ngạc Thần vội la lên: “Không nên! Không nên! Đoàn… sư phụ! Hôm nay hoàn toàn nhờ ở lão tứ mới cứu được… sư nương… Nếu không có y thì tính mạng sư nương đã… ô hô ai tai rồi.”

Lão nói mấy câu này ngắc ngứ tới ba bốn chỗ, mọi người nghe không rõ. Mộc Uyển Thanh thấy Đoàn Dự vì Vương Ngữ Yên mà nóng nảy hoảng hốt, đã rầu rầu nét mặt tự thương thân mình. Bây giờ nàng thấy dung mạo Vương Ngữ Yên tuyệt thế vô song thì trong lòng có một cảm giác kỳ dị khó mà tả được. Vương Ngữ Yên từ từ mở mắt ra, la lên một tiếng rồi hỏi: “Đây có phải là âm phủ không? Ta… chết rồi ư?”

Nam Hải Ngạc Thần nói: “Cô này ăn nói thật là hồ đồ! Nếu đây là âm phủ thì chẳng lẽ mọi người chúng ta đều chết cả rồi ư? Bây giờ cô chưa là vợ sư phụ ta, ta nói mấy câu vô lễ, cô đừng cho là phạm thượng. Theo chỗ ta biết thì sớm muộn gì cô cũng là sư nương ta. Ngày giờ thấm thoát qua nhanh lắm, may còn cơ hội này, ta gọi cô mấy tiếng cô nương tưởng cũng chẳng có chi quá đáng! Ta xin hỏi: Cô nương đang bình yên, sao lại đi tìm cái chết? Cô chết thì thỏa nguyện vọng của cô cũng đành, nhưng suýt nữa chết lây cả đến tứ đệ Vân Trung Hạc. Vân lão tứ có chết cũng không sao, nhưng còn liên can đến đại ca Đoàn Diên Khánh. Đoàn lão đại mà chết thì thật là đáng tiếc, nhưng hãy còn là việc nhỏ. Nhạc lão nhị bị liên can chết theo mới là việc nguy hiểm hơn hết.”

Đoàn Dự nói: “Vương cô nương! Vụ này là thế nào? Cô nương một phen kinh hãi, khiến tại hạ áy náy vô cùng! Thôi, cô nương hãy ngồi tựa vào gốc cây mà nghỉ một lúc.” Chàng dịu dàng an ủi, nhưng Vương Ngữ Yên lại rú lên một tiếng rồi khóc ròng, hai tay ôm đầu khẽ nói: “Các vị đừng nghĩ đến ta nữa! Ta không thể sống nữa đâu!” Đoàn Dự giật mình kinh hãi nghĩ thầm: “Té ra nàng muốn tự tử thật! Nhưng không hiểu tại sao? Chẳng lẽ…” Chàng liếc mắt nhìn Vân Trung Hạc thấy vẻ mặt gã rất đỗi hung tàn bạo ngược, thì la thầm: “Trời ơi! Phải chăng Vương cô nương đã bị gã này làm ô nhục nên định tự tử?”

Chung Linh tiến lên một bước, cất tiếng chào hỏi: “Nhạc lão tam! Mạnh khỏe chứ?” Nam Hải Ngạc Thần nhìn thấy Chung Linh, cả mừng đáp: “Tiểu sư nương! Sư nương vẫn mạnh giỏi chứ? Bây giờ ta là Nhạc lão nhị chứ không phải Nhạc lão tam nữa.” Chung Linh cũng nói: “Lão nhị cũng đừng kêu ta bằng tiểu nọ, tiểu kia nữa, khó nghe lắm! Nhạc lão nhị, ta hỏi ngươi: Vị cô nương kia tại sao lại toan tự tử? Phải chăng thằng cha giống như cây tre kia đã gây ra tai vạ? Ta phải giáo huấn hắn một phen.” Nàng úp hai tay lên miệng, phà hơi cho nóng. Vân Trung Hạc biến sắc mặt, lùi lại hai bước.

Nam Hải Ngạc Thần vội xua tay đáp: “Không phải! Không phải! Lần này không hiểu tại sao hắn đột nhiên biến tính trở thành người tốt. Bọn ta còn ba người, thiếu mất Diệp Nhị Nương, ai nấy đều đau buồn mới đi tản bộ lên đây. Bỗng nhiên thấy cô nương này đâm đầu nhảy xuống vực thẳm, Vân lão tứ đại phát từ tâm, nhảy xuống nắm theo được tay cô. Nhưng cô bé kia nhảy mạnh quá, lại kéo theo Vân lão tứ rớt xuống! Trời đất ơi! Hắn là một tên Cùng Hung Cực Ác, đột nhiên biến đổi tính nết làm việc thiện, mà lại không biết tự lượng sức mình.”

Vân Trung Hạc tức mình nói: “Con mẹ nó! Khi nào Vân mỗ lại đại phát từ tâm làm việc thiện? Vân mỗ thấy cô nương đây chim sa cá lặn mà lại đâm đầu xuống vực thẳm để tự tử, nên tiếc không muốn bỏ qua, mới nhảy theo để bắt nàng về làm phu nhân.”

Nam Hải Ngạc Thần tức giận quát lên như sấm, trỏ tay vào mặt Vân Trung Hạc mắng: “Quân khốn kiếp! Nhạc lão nhị tưởng mi đổi tính thành người tốt, ra tay cứu người, mới nghĩ tình huynh đệ mà nhảy theo nắm lấy tóc mi định lôi lên. Nếu Nhạc lão nhị sớm biết mi lòng lang dạ thú, thì đã để mi chết quách cho xong.”

Chung Linh cười nói: “Nhạc lão nhị! Lão có ngoại hiệu là Hung Thần Ác Sát, chuyên làm việc hung ác, không làm việc tốt. Lão biến đổi tính nết tự bao giờ, có phải là được sư phụ dạy dỗ không?” Nam Hải Ngạc Thần vò đầu bứt tai đáp: “Không đổi tính! Lão nhị không đổi tính, nhưng Tứ Đại Ác Nhân thiếu đi một người thì sức mạnh lại bớt đi một phần, nên ta mới nắm đầu lão tứ định lôi lên. Không ngờ chẳng lôi được hắn mà chính mình cũng bị té nhào. May nhờ Đoàn lão đại bản lĩnh phi thường, phóng đầu gậy xuống cho ta nắm lấy. Nhưng ba người nặng tới trên dưới bốn trăm cân, kéo cả Đoàn lão đại xuống theo. Lão đại liền phóng một cây trượng lên đâm lấy cành tùng, đang tìm cách trèo lên. Không ngờ lại có thằng cha lùn mập người nước Thổ Phồn xách búa đến chặt cây.”

Chung Linh hỏi: “Gã lùn mập đó là người nước Thổ Phồn ư? Sao gã lại toan ám hại các vị?” Nam Hải Ngạc Thần phun một bãi nước bọt rồi đáp: ” Mọi việc đều do lão tứ chẳng ra gì. Hắn lẻn vào hoàng cung nước Tây Hạ để nhìn trộm công chúa, không ngờ sau đó lại khua chiêng đánh trống, lớn tiếng huyên thuyên với mọi người, nào khen công chúa đẹp tựa thiên tiên, nào ca ngợi dáng điệu nàng như chim sa cá lặn. Vụ này đến tai Vương tử nước Thổ Phồn, bọn ta lại phải một phen chiến đấu, đánh chết mười mấy tên võ sĩ Thổ Phồn. Vì thế mà bọn đại ác chúng ta thành ra cừu địch với bọn Thổ Phồn.”

Mọi người nghe lão nói vậy thì đã hơi hiểu manh mối, nhưng vẫn chưa hiểu tại sao tại sao Vương Ngữ Yên định tự tử.

Nam Hải Ngạc Thần lại nói: “Vương cô nương! Sư phụ ta đã đến đây. Hai người biết nhau từ lâu rồi, kết nghĩa phu thê quách đi, đừng tự tử làm chi cho uổng!” Vương Ngữ Yên ngẩng đầu lên nghẹn ngào nói: “Ngươi còn nói nhăng nói càn khinh mạn, ta… ta sẽ đập đầu vào đây mà chết đi cho xong.” Đoàn Dự vội nói: “Không được! Cô hương không được làm thế!” Rồi chàng quay lại bảo Nam Hải Ngạc Thần: “Nhạc lão tam! Ngươi không được…” Nam Hải Ngạc Thần vội ngắt lời: “Nhạc lão nhị chứ!” Đoàn Dự nói: “Ừ, thì Nhạc lão nhị! Ngươi không được nói nhăng nữa. Nhưng ngươi đã có công cứu người, ta cảm kích vô cùng.”

Nam Hải Ngạc Thần giương cặp mắt ti hí lên nhìn Vương Ngữ Yên nói: “Cô không chịu làm sư nương ta, thì cũng chẳng thiếu gì người muốn làm. Vị này là đại sư nương, vị kia là tiểu sư nương, ta cứ kêu bằng sư nương hết.” Lão vừa nói vừa trỏ Mộc Uyển Thanh, rồi lại trỏ sang Chung Linh.

Mộc Uyển Thanh đỏ mặt lên, bĩu môi nói: “Hừ! Lão này say rượu nói càn!” Từ lúc mọi người chú ý nhìn Hư Trúc cứu người, bây giờ mới nhìn lại, phát giác Du Thản Chi cùng A Tử đã đi đâu mất rồi. Đoàn Đự hỏi Tiêu Phong: “Đại ca! Họ đi cả rồi ư?”

Tiêu Phong đáp: “Họ đi cả rồi. Tam đệ đã nhận lời gã, nên ta không ngăn trở nữa.” Chàng nói vậy mà trong lòng không khỏi bâng khuâng, không hiểu A Tử theo Du Thản Chi rồi về sau số phận nàng sẽ ra sao.

Nam Hải Ngạc Thần bỗng la lên: “Lão đại! Lão tứ! Chúng ta về thôi chứ?” Lão thấy Đoàn Diên Khánh cùng Vân Trung Hạc nhằm hướng Linh Châu trở gót, liền quay lại nói với Đoàn Dự: “Nhạc lão nhị cũng đi thôi!” Lão vừa nói vừa xoay mình lẹ bước đi theo bọn Đoàn Diên Khánh.

Chung Linh nói: “Vương cô nương! Chúng ta ngồi xe cùng đi.” Rồi nàng đỡ Vương Ngữ Yên lên ngồi vào chỗ A Tử trên cỗ xe lừa. Đoàn người lại nhằm đường Linh Châu thẳng tiến. Vào lúc xế chiều, mọi người đến nội thành Linh Châu.

***

Thời bấy giờ, thế lực nước Tây Hạ đang cường thịnh, có tới hai mươi hai châu. Khu vực nam sông Hoàng Hà có Linh Châu, Hồng Châu, Ngân Châu, Hạ Châu. Khu Hà Tây có Hưng Châu, Lương Châu, Cam Châu, Túc Châu nay là Cam Túc Ninh Hạ, Tuy Viễn. Vùng đất này có lợi thế ở nguồn nước sông Hoàng Hà nên lương thực rất dồi dào. Người ta thường nói “Hoàng Hà trăm thứ hại, chỉ có một thứ lợi”, thế mà Tây Hạ chiếm trọn vùng đất quanh con sông này. Tây Hạ binh cường mã tráng, có tới năm mươi vạn giáp binh, quân sĩ vừa kiêu dũng vừa thiện chiến. Tống sử chép rằng: “Người Tây Hạ dùng binh phần nhiều đứng ở núi hoang, đặt quân mai phục để bao vây địch, dùng thiết kỵ làm tiền quần xung phong. Đội thiết kỵ này cưỡi ngựa và mặc hai lần áo giáp, đao thương đâm không thủng, ngựa lại dùng xích sắt kết chặt vào nhau nên dù chết cũng không ngã xuống. Lúc giao tranh, đội thiết kỵ xông lên đột phá trước, khi trận địch rối loạn rồi đại quân mới tiến lên, quân bộ xen giữa kỵ binh mà tấn công. Quốc vương nước Tây Hạ vốn là người rợ Hồ ở họ Thát Bạt, đến đời Đường Thái Tông mới được ban cho họ Lý. Người Tây Hạ đánh nhau khắp bốn phương, vì vậy mà biên giới nước này biến đổi hoài, kinh đô cũng tùy lúc mà dời đi. Linh Châu tuy là kinh thành nước Tây Hạ nhưng so với các đô thị lớn ở Trung Nguyên thì còn kém xa lắm.”

Tối hôm ấy bọn Tiêu Phong không sao tìm được quán trọ. Linh Châu vốn đã chẳng phồn hoa đô hội gì, lại đã gần đến Trung Thu, hảo hán bốn phương tới đây không biết bao nhiêu mà kể, những khách sạn lớn đều chật ních những người. Bọn Tiêu Phong đành ra khỏi thành, tìm mãi mới được một tòa miếu cũ làm chỗ nghỉ đêm. Nam nhân tụ tập ở gian phía đông, còn nữ nhân ngủ ở phòng phía tây.

Từ lúc Đoàn Dự gặp Vương Ngữ Yên, trong lòng chàng vừa hoan hỉ lại vừa lo âu, đêm ấy chàng trằn trọc không sao ngủ được. Chàng tự hỏi: “Tại sao Vương cô nương lại toan tự tử? Ta phải tìm cách khuyên giải nàng mới được. Nhưng ta không biết nguyên nhân thì làm sao mà khụyên giải?”

Lúc đó, trăng đang lấp ló bên song cửa sổ, phủ xuống mặt đất một vùng ánh sáng trong trẻo. Đoàn Dự không sao ngủ được, rón rén đứng dậy ra sân. Chàng thấy bên góc tường có hai cây ngô đồng, mảnh trăng khuyết từ từ ló lên khỏi ngọn cây. Tiết đại thử vừa qua, đêm ở vùng Cam Lương này đã lạnh. Đoàn Dự quanh quẩn dưới gốc cây ngô đồng một lúc, thấy vết thương trước ngực ngâm ngẩm đau, thì biết rằng ban ngày đi nhiều quá làm động đến vết thương. Bất giác chàng lại tự hỏi: “Tại sao Vương cô nương lại muốn tự tử? Chuyện này thật khó mà hiểu được.”

Chàng thơ thẩn bước ra cửa miếu, dưới ánh trăng, xa xa bên bờ hồ bỗng thấy bóng người thấp thoáng. Dường như đó là một nữ lang áo trắng, mà bộ dạng lại hao hao giống Vương Ngữ Yên. Đoàn Dự kinh hãi la thầm: “Nguy rồi… Chắc nàng lại đi tự tử…” Chàng liền thi triển Lăng Ba Vi Bộ lướt đi rất nhanh mà không một tiếng động, chẳng khác mỹ nhân đạp trên mặt sóng, chỉ chớp mắt, chàng đã đến sau lưng nữ lang áo trắng. Nước hồ trong suốt như gương, phản chiếu dung mạo nữ lang, quả nhiên chính là Vương Ngữ Yên.

Đoàn Dự rụt rè chưa dám tiến lại. Chàng nghĩ thầm: “Khi ở núi Thiếu Thất, nàng đã căm hận ta, lần này gặp lại thì nàng vẫn chưa lộ vẻ gì, nhưng chắc hẳn chưa nguôi giận. Nàng tự tử, biết đâu chẳng vì giận ta mà ra? Than ôi! Đoàn Dự ơi là Đoàn Dự, ngươi đã mạo phạm giai nhân để nàng buồn thảm mà toan tự tử! Dù người có chết trăm lần cũng không đủ chuộc tội.” Chàng nấp vào sau một gốc cây lớn, tự than tự oán, càng nghĩ càng thấy tội mình thâm trọng.

Bỗng thấy mặt hồ trong như ngọc biếc, tự nhiên lăn tăn sóng gợn. Mấy vòng tròn trước còn nhỏ, sau lan rộng ra trên mặt nước. Đoàn Dự chú ý nhìn kỹ, thấy mấy giọt như hạt châu rớt xuống mặt hồ, thì ra là nước mắt Vương Ngữ Yên. Đoàn Dự càng nghĩ càng xót thương cho người ngọc. Chàng lắng tai, nghe nàng thở dài mấy tiếng rồi nghẹn ngào lẩm bẩm: “Ta chết cho xong, để khỏi phải chịu đau khổ hành hạ giày vò.”

Đoàn Dự không nhịn được nữa, ở sau gốc cây chạy ra nói: “Vương cô nương! Ngàn điều lỗi, vạn điều lỗi, cũng chỉ là tại hạ lỗi lầm, xin cô nương để tại hạ gánh chịu hết. Nếu có nương… mà nổi giận thì tại hạ xin quỳ xuống đây!” Chàng nói xong, quả nhiên quỳ xuống thật.

Vương Ngữ Yên giật mình kinh hãi hỏi: “Công tử! Công tử làm gì vậy? Công tử đứng lên đi. Nếu để người ngoài trông thấy thì còn ra thể thống gì?” Đoàn Dự nói: “Cô nương có tha thứ thì tại hạ mới dám đứng dậy.” Vương Ngữ Yên gắt lên: “Ta tha thứ công tử cái gì? Việc của ta có can dự gì đến công tử?” Đoàn Dự đáp: “Tại hạ thấy cô nương thương tâm, thì chắc rằng đang lúc cô nương yên vui thì tại hạ đắc tội với Mộ Dung công tử, để y buồn bực rồi gây phiền não cho cô nương. Lần sau gặp y, dù có bị y đánh giết, tại hạ nhất định chạy trốn, quyết không trả đòn.” Vương Ngữ Yên giậm chân nói: “Trời ơi! Chuyện đau lòng của ta không liên can gì đến công tử.” Đoàn Dự nói: “Thế cô nương không trách tại hạ ư?” Vương Ngữ Yên nói: “Dĩ nhiên là không!” Đoàn Dự nói: “Có thế tại hạ mới yên tâm.” Chàng đứng lên mà trong dạ ngậm ngùi. Giả tỉ Vương Ngữ Yên vì chàng mà thương tâm đến muốn tự tận, thì dù nàng có đánh mắng hay đâm chém, chàng còn thấy dễ chịu hơn. Nhưng nàng chỉ nói vẻn vẹn một câu: “Chuyện đau lòng của ta không liên can gì đến công tử”, khiến chàng chán ngán vô cùng.

Bỗng Vương Ngữ Yên lại cúi đầu xuống, dòng châu nhỏ giọt. Tay áo của nàng không thấm nước, những giọt lệ rớt vào lại lăn xuống mặt hồ. Đoàn Dự ruột nóng như lửa đốt, vội nói: ” Cô nương! Cô nương có điều gì khó giải quyết thì xin cứ nói ra. Tại hạ nhất định sẽ tận tâm tận lực, làm cho cô nương đổi giận thành vui.”

Vương Ngữ Yên từ từ ngẩng đầu lên. Dưới ánh trăng tỏ, đôi mắt nàng lóng lánh như ngọc, vẻ mặt buồn rười rượi, cất tiếng nói: “Đoàn công tử! Công tử thật đã hết lòng hết dạ với ta, lòng ta xiết bao cảm kích! Nhưng việc này công tử muốn giúp ta cũng không được đâu.”

Đoàn Dự đáp: “Thật ra tại hạ chẳng có bản lĩnh gì, nhưng Tiêu đại ca và Hư Trúc nhị ca của tại hạ đều là những cao thủ vào bậc nhất võ lâm. Hiện giờ, hai người cũng ở đây, đối với tại hạ như tình cốt nhục. Tại hạ nhờ đến việc gì thì hai vị đó nhất định không từ chối. Cô nương có điều chi phiền muộn cứ nói cho tại hạ nghe. Dù cho địch thủ ghê gớm quá không làm gì được, nhưng cô nương đã nói ra thì u uất trong lòng cũng nhẹ đi được vài phần.”

Sắc mặt Vương Ngữ Yên đang nhợt nhạt bỗng nhiên ửng hồng. Nàng quay đi phía khác, không dám nhìn thẳng Đoàn Dự, nói lí nhí trong cổ họng: “Y… muốn đi làm phò mã nước Tây Hạ. Công Dã nhị ca đến khuyên giải ta, nói là vì… vì việc… phục hưng nước Đại Yên gì gì đó, nên y không thể nghĩ đến chuyện nhi nữ tư tình được.” Nàng nói dứt lời, bất giác gục mặt vào vai Đoàn Dự khóc thút thít.

Đoàn Dự cảm thấy như được ban một ân huệ vô cùng vinh dự, người chàng không nhúc nhích. Nhưng chàng hiểu được tâm sự vương Ngữ Yên thì không khỏi thẫn thờ, chẳng hiểu mình nên vui mừng hay nên đau khổ. Mối thương tâm của Vương Ngữ Yên là vì Mộ Dung Phục. Y muốn sang cưới công chúa Tây Hạ để làm phò mã, tất nhiên sẽ không ngó ngàng gì đến nàng nữa. Đoàn Dự nghĩ thầm: “Khi nàng không thỏa nguyện với biểu huynh, biết đâu lại chẳng đoái hoài đến mình đôi chút. Mình chẳng dám nghĩ tới chuyện nàng hạ cố thành thân, mà chỉ cầu được nàng thỉnh thoảng vui vẻ nhìn mình cũng là thỏa mãn lắm rồi. Nếu nàng ưa thanh tịnh, mình sẽ theo hầu nàng ở nơi rừng sâu núi thẳm, hoặc ngoài hoang đảo xa khơi không vết chân người, sớm tối có nhau. Được thế thì quả không uổng một đời.” Nghĩ tới đây, chàng mừng quá bất giác khoa chân múa tay.

Vương Ngữ Yên run lên, lui lại một bước. Nàng thấy Đoàn Dự hớn hở tươi cười thì buồn bã nói: “Ta tưởng công tử là người tốt nên mới nói ra, té ra công tử thấy ta gặp tai họa lại lấy làm vui sướng.” Đoàn Dự hốt hoảng nói: “Không! Không! Cô nương! Trên có hoàng thiên, dưới có hậu thổ, chứng minh cho tấm lòng Đoàn Dự này. Nếu tại hạ thấy Vương cô nương gặp tai họa mà lại lấy làm vui sướng, thì xin sét đánh xuống đỉnh đầu, vạn mũi tên bắn vào thân thể.”

Vương Ngữ Yên vội nói: “Công tử đã không phải là người ác tâm thì thôi, phát thệ làm gì? Nhưng tại sao công tử lại vui sướng?” Nàng vừa hỏi xong, trong lòng cũng đã tự đáp được rồi, dĩ nhiên Đoàn Dự vui sướng là vì Mộ Dung Phục đi lấy công chúa Tây Hạ, chàng sẽ loại bỏ được một tình địch ghê gớm. Kể ra thì Đoàn Dự yêu thương Vương Ngữ Yên hết lòng hết dạ, có lý nào nàng lại không hay biết? Nhưng từ nhỏ nàng đã dành hết tình cảm cho biểu huynh, còn mối si tình của Đoàn Dự cũng thỉnh thoảng có lúc nàng nghĩ tới, nhưng không tài nào lay chuyển được mối tình đầu. Vương Ngữ Yên vừa hiểu vì sao Đoàn Dự vui mừng, nàng lập tức vừa tức giận vừa hổ thẹn, mặt đỏ bừng lên nói: “Tuy công tử không cười ta, nhưng cũng có tâm địa không tốt… Ta… ta…”

Đoàn Dự trong lòng kinh hãi, lẩm bẩm: “Đoàn Dự ơi là Đoàn Dự! Sao ngươi lại nảy ra ý nghĩ đê hèn, muốn thừa cơ cháy nhà để cướp của? Ngươi thật là một kẻ tiểu nhân vô sỉ!” Chàng thấy Vương Ngữ Yên mặt buồn rười rượi thì vô cùng đau xót, lòng hào hiệp lại nổi lên, nghĩ thầm: “Vừa rồi mình ước mơ được sớm tối ở cùng nàng tại hoang sơn dã đảo cho vui thú một đời, nhưng cái vui của Đoàn Dự lại không phải là cái vui của Vương Ngữ Yên, mà lại là nỗi đau lòng của nàng. Cái vui chân chính của ta là phải làm thế nào cho nàng được vui lòng, có thế mới là yêu thương nàng một cách chân thành.”

Vương Ngữ Yên nhìn xuống, khẽ hỏi: “Hay là ta nói sai? Công tử giận ta phải không?” Đoàn Dự đáp: “Không, không! Tại hạ có giận cô nương gì đâu?” Vương Ngữ Yên lại hỏi: “Thế sao công tử không nói gì?” Đoàn Dự đáp: “Tại hạ đang suy nghĩ một điều.”

Trong lòng chàng đang suy tính: “So với Mộ Dung Phục thì văn tài vỗ nghệ mình đều kém y, nhân phẩm phong độ cũng không bằng, thanh danh oai vọng lại càng không thể so sánh được. Mình đã thua kém cả mọi mặt, huống chi hai người còn thân cận từ thuở nhỏ, thâm tình ràng buộc đã lâu. Mình chỉ có một điều hơn Mộ Dung Phục xa, đó là tấm lòng chân thật của mình đối với nàng, cần phải cho nàng biết. Giả tỉ mấy chục năm sau, Vương cô nương ăn ở với Mộ Dung công tử có con có cháu rồi, mà trong lòng nàng thỉnh thoảng vẫn còn nhớ tới Đoàn mỗ là người hết lòng với nàng nhất trên đời, thế là ta thỏa nguyện.”

Đoàn Dự quyết định chủ ý xong, liền nói: “Vương cô nương! Cô nương bất tất phải phiền lòng. Tại hạ sẽ tìm cách khuyến cáo Mộ Dung công tử đừng đi làm phò mã nước Tây Hạ, phải hoàn thành hôn sự với cô nương!”

Vương Ngữ Yên giật mình, kinh hãi nói: “Không được! Biểu huynh ta căm hận công tử đến chết, nhất định y không nghe công tử khuyên can đâu.” Đoàn Dự nói: “Tại hạ sẽ lấy đại nghĩa mà nói. Trên thế gian này, mối tình phu phụ quan trọng nhất là phải tâm đầu ý hợp. Y chưa quen biết công chúa Tây Hạ, nàng xấu hay đẹp, tính thiện hay ác, y cũng chưa hiểu. Vừa nhìn thấy mặt đã nên đạo vợ chồng thì không thể nào thương yêu nhau được. Tại hạ lại nói cho y hiểu, Vương cô nương nhân phẩm khác thường trên đời có một, ôn nhu yểu điệu dưới thể không hai. Huống chi cô nương một lòng thiết tha với y, lẽ nào y lại là con người bạc bẽo để hảo hán thế gian thóa mạ, anh hùng thiên hạ chê cười?

Vương Ngữ Yên nghe Đoàn Dự nói một hồi, trong lòng cực kỳ xúc động, ngậm ngùi nói: “Đoàn công tử! Công tử nói như vậy là cố ý quá khen để ta được vui lòng.” Đoàn Dự vội nói: “Sai bét, sai bét!” Chàng vô tình bắt chước câu nói cửa miệng của Bao Bất Đồng, không nhịn được, bật cười nói tiếp: “Tại hạ một lòng thành thực, nói toàn lời gan ruột.” Vương Ngữ Yên cũng bị câu “Sai bét, sai bét” làm phải bật cười, rồi nói: “Công tử chẳng học cái gì hay tốt, lại đi học cái giọng lè nhè của Bao tam ca.”

Đoàn Dự thấy Vương Ngữ Yên bật cười thì trong lòng khoan khoái vô cùng. Chàng nói: “Tại hạ còn nhiều phương pháp để khuyên can, khiến cho Mộ Dung công tử chẳng những bỏ ý nghĩ sang Tây Hạ làm phò mã mà còn gấp rút thành hôn với cô nương!” Vương Ngữ Yên nói: “Công tử hành động như thế để làm chi? Có ích lợi gì cho công tử đâu?” Đoàn Dự đáp: “Chỉ cần được thấy cô nương nói cười vui vẻ, là tại hạ mãn nguyện lắm rồi.”

Vương Ngữ Yên bất giác rung động, câu nói của Đoàn Dự tuy hời hợt mà đã biểu lộ một mối chân tình khôn tả. Nhưng nàng không tài nào quên được Mộ Dung Phục, lại thở đài nói: “Công tử chưa hiểu tâm sự của biểu huynh ta. Y coi việc phục hưng nước Đại Yên là trọng đại nhất trong đời. Y từng nói: tấm thân nam tử phải lấy việc mở mang cơ nghiệp là lớn, chuyện nhi nữ thường tình là nhỏ, anh hùng khí đoản thì không phải anh hùng. Y còn bảo: công chúa Tây Hạ xấu xí như Chung Vô Diệm cũng được, có kiêu ngạo lăng loàn thì cũng chẳng sao. Y chỉ mong tìm được phương tiện để khôi phục lại nước Đại Yên là đủ.”

Đoàn Dự trầm ngâm rồi đáp: “Quả là như thế. Họ Mộ Dung vẫn chuyên tâm trí vào việc lên ngôi hoàng đế, nếu Tây Hạ khởi binh giúp y phục quốc thì… Việc này… Việc này thật khó mà ngăn cản được.” Chàng thấy Vương Ngữ Yên nước mắt chảy quanh, liền ưỡn ngực ra nói: “Cô nương cứ yên tâm. Để tại hạ sang tranh đoạt ngôi phò ma nước Tây Hạ, hất Mộ Dung công tử ra ngoài, nhất định y phải thành hôn với cô nương!”

Vương Ngữ Yên vừa kinh ngạc vừa hoan hỉ, vội hỏi lại: “Công tử nói gì?” Đoàn Dự đáp: ” Tại hạ nhất định sang tranh ngôi, phò mã nước Tây Hạ.” Khi ở núi Thiếu Thất, Vương Ngữ Yên đã chứng kiến Đoàn Dự thi triển Lục Mạch Thần Kiếm đả bại Mộ Dung Phục, biết rằng võ công chàng cao cường hơn biểu huynh mình, nếu chàng quyết tâm đi làm phò mã thì biểu huynh khó mà tranh giành được. Nàng nghĩ vậy, hạ thấp giọng xuống nói: “Đoàn công tử thật hết lòng vì ta, nhưng làm như thế thì biểu huynh ta phải căm hận công tử đến chết chưa thôi.” Đoàn Dự đáp: “Chuyện đó cũng chẳng quan hệ gì, vả lại đằng nào y cũng căm hận tại hạ rồi!” Vương Ngữ Yên lại nói: “Chính công tử vừa nói chưa hiểu công chúa đẹp hay xấu, thiện hay ác, thế mà lại đi thành thân cùng nàng, hóa ra… ta lạm dụng công tử nhiều quá ư?”

Đoàn Dự không ngần ngừ gì, đáp ngay: “Miễn sao được việc cho cô nương, còn đối với tại hạ thì khuất tất một chút phỏng có chi đáng kể.” Câu nói vừa ra khỏi miệng, chàng lại nghĩ: “Giả tỉ mình kể công với nàng thì đâu phải hành vi của người quân tử?” Nghĩ vậy, chàng liền nói tiếp: “Không phải tại hạ vì cô nương mà chịu khuất tất đâu. Gia gia đã ra lệnh cho tại hạ là phải cưới cho bằng được công chúa nước Tây Hạ. Đạo làm con phải tận hiếu với song thân, việc này không can dự gì đến cô nương.”

Vương Ngữ Yên là người thông tuệ phi thường, lẽ nào không hiểu mối thâm tình của Đoàn Dự? Nàng nghĩ tới chàng vì mình mà cam tâm đi lấy một cô gái chưa quen biết, cắn răng ép lòng mà ngoài miệng lại không chịu nhận, thật là người quân tử. Nàng cảm động vô cùng, đột nhiên đưa tay ra nắm lấy tay Đoàn Dự nói: “Đoàn công tử! Kiếp này… ta không thể báo đáp cho công tử được, xin hẹn kiếp sau.” Rồi nàng nghẹn ngào, không nói thêm được nữa.

Hai người đã mấy phen qua cơn hoạn nạn, khi ôm cõng, khi nâng đỡ, đụng chạm nhau không phải một lần. Nhưng trước kia đều là những trường hợp bất đắc dĩ, chỉ có lần này mới là cố ý, Vương Ngữ Yên vì cảm động mà tự nắm lấy tay chàng. Đoàn Dự cảm thấy bàn tay mềm mại nắm lấy tay mình mà tưởng như trời sắp sập, sung sướng quá, miệng lẩm bẩm: “Nàng đối đãi với mình thế này thì đừng nói phải lấy một công chúa Tây Hạ, dù có phải lấy công chúa Đại Tống, công chúa Đại Liêu, công chúa Thổ Phồn hay công chúa Cao Ly gì gì nữa, mình cũng nhất định lấy hết.” Chàng bị trọng thương chưa khỏi, vì vui mừng quá độ mà nhiệt huyết bốc lên không chống nổi, đột nhiên tưởng chừng như trời đất quay cuồng, đầu nhức mắt hoa. Người chàng lảo đảo, rồi “ùm” một tiếng, chàng đã ngã xuống hồ.

Vương Ngữ Yên cả kinh la gọi: “Đoàn công tử! Đoàn công tử!” Rồi đưa tay ra kéo chàng lên. May mà hồ nước không sâu, Đoàn Dự chỉ bị ướt. Nước lạnh thấm vào, đầu óc chàng tỉnh táo lại bèn bò lên bờ, người lem luốc bùn sình.

Tiếng la hoảng của Vương Ngữ Yên vừa rồi đã làm cho nhiều người trong miếu tỉnh giấc. Bọn Tiêu Phong, Hư Trúc, Ba Thiên Thạch, Chu Đan Thần hốt hoảng chạy ra, thấy Đoàn Dự hoang mang cùng Vương Ngữ Yên bẽn lẽn đứng bên nhau, đều cho là hai người ra bờ hồ tình tự lúc đêm khuya, bất giác cùng nghĩ là không nên hỏi nhiều. Đoàn Dự muốn tìm lời giải thích nhưng chẳng biết nói sao.

***

Hôm sau đã là mười hai tháng tám, còn ba ngày nữa là đến tiết Trung Thu. Ba Thiên Thạch từ sáng sớm đã vào thành Linh Châu để thăm dò tin tức. Khoảng giờ Tỵ, y lật đật chạy về miếu nói với Đoàn Dự:”Công tử! Tại hạ đã tới bộ Lễ, đưa thư của Vương gia về việc cầu thân với công chúa Tây Hạ. Thượng thư bộ Lễ xem thư xong, tỏ vẻ rất lịch sự. Y nói: Công tử đến cầu thân, thật là một vịnh dự lớn cho nước Tây Hạ, tin rằng công tử sẽ được như nguyện.”

Một lúc sau, ngoài cửa miếu bỗng có tiếng người ngựa nhộn nhịp rồi tiếng âm nhạc nổi lên. Ba Thiên Thạch cùng Chu Đan Thần chạy ra nghênh tiếp. Thì ra đây là Đào thị lang bộ Lễ nước Tây Hạ thống lĩnh nhân viên đến đón Đoàn Dự vào quán dịch để khoản đãi. Tiêu Phong làm Nam Viện Đại Vương nước Liêu, một nước lớn còn phồn thịnh hơn Đại Lý. Giả tỉ người Tây Hạ biết chàng tới đây thì cuộc nghênh tiếp còn long trọng hơn, nhưng Tiêu Phong đã căn dặn mọi người đừng tiết lộ hành tung của chàng. Tiêu Phong, Hư Trúc cùng mọi người đều tự nhận là tùy tùng của Đoàn Dự, cùng đến quán dịch.

Mọi người vừa thu xếp xong, bỗng nghe ngoài sân có tiếng ồm ồm quát mắng: “Các ngươi là cái thá gì mà dám đến dòm ngó công chúa Tây Hạ? Ngôi phò mã Tây Hạ dĩ nhiên là tiểu Vương tử chúng ta nắm chắc rồi. Ta khuyên bọn ngươi nên cúp đuôi chạy trốn sớm đi là hơn.” Bọn Ba Thiên Thạch nghe thấy, nổi giận bừng bừng, tự hỏi: “Bọn này là ai mà ăn nói vô lễ thế?” Lúc họ mở cửa quán dịch ra coi thì thấy bảy tám đại hán cao lớn đang đứng trong sân, la ó om sòm.

Ba Thiên Thạch cùng Chu Đan Thần đều là trọng thần nước Đại Lý, hành động cực kỳ tinh tế, nhưng Chu Đan Thần hơn mấy phần nho nhã, còn Ba Thiên Thạch hơn mấy phần uy võ. Hai người đều không lên tiếng, chỉ đứng tựa cửa nhìn ra. Mấy tên đại hán mỗi lúc một lớn tiếng thóa mạ, thỉnh thoảnh lại xen tiếng Phiên vào nghe không hiểu. Miệng chúng cứ lặp đi lặp lại: “tiểu Vương tử chúng ta, tiểu Vương tử chúng ta…” Dường như bọn này là thuộc hạ của Vương tử nước Thổ Phồn.

Ba Thiên Thạch đang nghĩ cách để dẹp chúng di, thì đột nhiên cánh cửa một gian nhà bên trái mở ra đánh “ầm” một tiếng. Hai người ở bèn trong nhảy xổ ra, một người áo vàng, một người áo đen, tay đấm chân đá. Chỉ trong chớp mắt ba gã đại hán nằm thẳng cẳng dưới đất kêu oai oái không ngớt, còn mấy gã kia đã bị liệng ra khỏi cửa hết. Hán tử áo đen nói: “Thú quá! Thú quá!” Hán tử áo vàng lại nói: “Sai bét, sai bét! Đã lấy gì làm thú?” Thì ra hai người này chính là Phong Ba Ác và Bao Bất Đồng.

Mấy tên võ sĩ Thổ Phồn đứng ngoài cửa lớn tiếng la hét: “Gã Mộ Dung kia! Ta khuyên ngươi sớm về Cô Tô là hơn. Ngươi âm mưu kiếm chuyện với tiểu Vương tử bọn ta, định lấy công chúa Tây Hạ làm vợ, thì Vương tử sẽ thi triển kỹ thuật Gậy ngươi đập lưng ngươi, bắt biểu muội ngươi về làm tì thiếp.” Phong Ba Ác nghe bọn chúng thóa mạ mỗi lúc một thô tục, liền nhảy xổ ra vung chưởng đánh. Tiếp theo là những tiếng la hét ầm ĩ, mấy tên võ sĩ Thổ Phồn chạy trốn mỗi lúc một xa, tiếng thóa mạ cũng dần dần không nghe thấy nữa.

Vương Ngữ Yên ngồi trong phòng đã nghe thanh âm hai gã Bao Phong, nhưng nàng chưa quyết định được có nên gặp họ hay không.

Bao Bất Đồng nhìn Ba Thiên Thạch, Chu Đan Thần chắp tay hỏi: “Ba huynh! Chu huynh! Các vị đến Tây Hạ để xem cuộc náo nhiệt hay còn có mưu đồ chuyện khác?” Ba Thiên Thach đáp: “Hai vị Bao, Phong đến với mục đích gì, hai huynh đệ tại hạ cũng đến với mục đích ấy.” Bao Bất Đồng biến sắc hỏi: “Đoàn công tử nước Đại Lý cùng đến đây cầu thân hay sao?” Ba Thiên Thạch đáp: “Chính thế! Công tử bọn tại hạ là Thế tử, con Hoàng Thái đệ Trấn Nam Vương nước Đại Lý. Ngày sau công tử lên ngôi đại bảo, làm vua nước Đại Lý, thế thì công tử thành hôn với công chúa Tây Hạ là môn đăng hộ đối. Còn Mộ Dung công tử tuy nhân phẩm không kém, nhưng chỉ là một gã bạch đinh thì xứng đôi thế nào được?” Bao Bất Đồng biến sắc nói: “Sai bét, sai bét! Ngươi chỉ biết có một mà không biết hai. Công tử ta là rồng là phượng trong loài người, tên ngốc họ Đoàn ví với công tử ta thế nào được?” Phong Ba Ác đi xồng xộc trở vào nhà nói: “Tam ca! Tranh hơi với hắn làm gì cho mệt! Hôm đó vào điện Kim Loan thi triển bản lĩnh sẽ biết!” Bao Bất Đồng nói: “Sai bét, sai bét! Cuộc tỉ thí ở Kim Loan Điện là mấy vị công tử so tài cao thấp, còn việc tranh hơi mới là việc của chúng ta.”

Ba Thiên Thạch cười nói: “Nếu nói về việc dùng lời lẽ tranh hơi, thì Bao huynh là đệ nhất, tự cổ chí kim không ai bì kịp, tiểu đệ phải chịu thua thôi.” Đoạn gã vẫy Chu Đan Thần cùng đi vào phòng, rồi nói: “Chu hiền đệ! Nghe Bao Bất Đồng nói thì dường như công tử phải tham dự một cuộc tỉ thí gì đó ở Kim Loan Điện. Thế mà công tử bị trọng thương chưa khỏi, võ công lại chỉ trông vào môn Lục Mạch Thần Kiếm lúc linh nghiệm lúc không. Nếu lúc tỉ thí mà Lục Mạch Thần Kiếm của công tử thi triển không linh nghiệm, thì chẳng những mất ngôi phò mã mà còn nguy đến tính mạng.” Chu Đan Thần cũng đành chiu bó tay, không có mưu chước gì khác. Hai người liền đi tìm Tiêu Phong và Hư Trúc để thương nghị.

Tiêu Phong hỏi: “Không hiểu luật lệ tỉ thí ở điện Kim Loan như thế nào? Hai người đơn đả độc đấu hay là cho cả thuộc hạ xuất trận? Nếu người ngoài cũng được tham gia tỉ thí thì chẳng có gì đáng lo hết.” Ba Thiên Thạch nói: “Chu hiền đệ! Chúng ta đi hỏi Đào thị lang cho biết rõ luật lệ tỉ thí, để chuẩn bị kế hoạch.”

Hai người đi rồi, ba anh em Tiêu Phong, Hư Trúc cùng Đoàn Dự ngồi quây quần uống rượu, chén chú chén anh thật là khoan khoái. Tiêu Phong hỏi Đoàn Dự về Lục Mạch Thần Kiếm, chàng muốn dạy nghĩa đệ cách vận khí để lúc nào muốn phát ra kiếm khí cũng được ngay. Ngờ đâu Đoàn Dự chẳng hiểu chút gì về nội công, ngoại công. Tiêu Phong không biết làm thế nào, chỉ lắc đầu lia lịa, rồi uống cạn hết chén này đến chén khác. Hư Trúc cùng Đoàn Dự tửu lượng kém xa, mới năm sáu chén đã say mèm ngã lăn ra, chẳng còn biết trời đất gì nữa.

***

Lúc chàng mơ màng tỉnh dậy, mở mắt ra nhìn thì thấy bóng trăng chênh chếch nhòm song, biết là đêm đã khuya rồi. Đoàn Dự giật mình nghĩ thầm: “Đêm qua mình cùng Vương cô nương nói chuyện chưa xong, thì mình đã vô ý té xuống hồ. Chẳng biết nàng còn muốn nói gì với mình nữa không? Hiện giờ nàng có chờ đợi ngoài kia không? Trời ơi! Nếu để nàng đợi lâu không nhẫn nại được, về phòng ngủ rồi thì há chẳng đáng tiếc ư?” Đoàn Dự nghĩ tới đó thì trong lòng nóng nảy, đứng phắt dậy, rón rén ra khỏi phòng. Chàng đi qua sân toan rút then cài cổng thì đột nhiên phía sau có tiếng người khẽ bảo: “Đoàn công tử! Công tử lại đây, ta có lời muốn nói.”

Đoàn Dự trong lúc không để ý, giật bắn người lên. Nghe giọng nói dường như không có hảo ý, Đoàn Dự toan quay đầu lại, thì đột nhiên thấy huyệt Thân Trụ ở sau lưng đã bị người ta nắm chặt. Chàng nghe thanh âm đã biết là ai, liền cất tiếng hỏi: “Có phải Mộ Dung công tử đấy không?” Người kia đáp: “Không dám! Chính là tại hạ! Tại hạ mời Đoàn huynh lại đằng kia nói chuyện.” Đoàn Dự thấy đúng là Mộ Dung Phục thì trong lòng hồi hộp đáp: “Mộ Dung công tử đã có lệnh, tại hạ lẽ nào chẳng tuân theo? Xin công tử buông tay ra.” Mộ Dung Phục đáp: “Bất tất phải buông tay.” Đoàn Dự đột nhiên thấy người nhẹ bỗng, rồi bay đi như người đằng vân giá vũ, thì ra Mộ Dung Phục nắm lưng chàng nhảy lên nóc nhà.

Chàng nghĩ: “Nếu mình la lên một tiếng, đại ca cùng nhị ca nghe mà chạy ra cứu viện thì có cơ thoát nạn.” Nhưng chàng lại tự nhủ: “Nếu mình la lên thì Vương cô nương cũng nghe rõ. Nàng thấy hai người lại tranh đấu, tất phải phiền lòng, nhưng chẳng bao giờ oán trách biểu huynh, mà cứ đổ tội cho mình. Thôi, mình chẳng để nàng phải buồn nữa là hơn.” Thế là chàng lẳng lặng để mặc cho Mộ Dung Phục xách mình chạy đi.

Đã sắp đến Trung Thu, ánh trăng vằng vặc tỏa sáng khắp một vùng, trông rõ mọi vật xung quanh. Lúc đầu Đoàn Dự thấy Mộ Dung Phục chạy nhanh trên đường lát đá xanh, lát sau rẽ vào con đường nhỏ đất vàng, hai bên đường cỏ dại mọc đầy, nửa xanh nửa úa.

Mộ Dung Phục chạy một lúc nữa rồi đột nhiên dừng bước, quăng Đoàn Dự xuống đánh “binh” một tiếng. Lưng và vai Đoàn Dự đập xuống đất đau đớn vô cùng. Chàng nghĩ thầm: “Thằng cha này ngoài mặt nho nhã mà hành vi lại dã man.” Chàng hắng giọng một tiếng rồi lồm cồm bò dậy, nói: “Mộ Dung huynh có gì thì cứ nói đi, giở thói thô lỗ làm gì?”

Mộ Dung Phục cười gằn hỏi: “Đêm qua ngươi cùng biểu muội ta đã nói những gì?” Đoàn Dự đỏ mặt lên đáp: “Có chuyện gì đâu? Tiểu đệ chỉ gặp cô nương, nói mấy câu chuyện tầm thường.” Mộ Dung Phục lại hỏi: “Đoàn công tử là nam tử hán, là đại trượng phu. Người quang minh lỗi lạc không làm điều ám muội, đã làm gì, nói gì cũng không giấu giếm.”

Đoàn Dự bị Mộ Dung Phục nói khích, bực tức đáp: “Dĩ nhiên là tiểu đệ chẳng cần phải giấu giếm Mộ Dung huynh. Tiểu đệ hứa với Vương cô nương là sẽ tìm Mộ Dung huynh để khuyên giải.” Mộ Dung Phục cười nhạt nói: “Phải chăng ngươi muốn khuyên ta: “Trên thế gian này, mối tình phu phụ quan trọng nhất là phải tâm đầu ý hợp. Ngươi còn nói: ta chưa quen biết công chúa Tây Hạ, nàng xấu hay đẹp, tính thiện hay ác ta cũng chưa hiểu, vừa nhìn thấy mặt đã nên đạo vợ chồng thì không thể nào thương yêu nhau được.” Có đúng thế không? Ngươi còn bình phẩm: “ta phụ rẫy tình cảm thiết tha của Vương cô nương thì sẽ là con người bạc bẽo để hảo hán thế gian thóa mạ, anh hừng thiên hạ chê cười.” Có đúng thế không?”

Mỗi câu nói của Mộ Dung Phục làm Đoàn Dự giật mình một cái. Chàng chờ y dứt lời, rồi ấp úng nói lại: “Phải chăng… Vương cô nương đã kể với Mộ Dung huynh như vậy?” Mộ Dung Phục đáp: “Khi nào nàng lại kể với ta?” Đoàn Dự hỏi: “Thế thì… Mộ Dung huynh đã đứng nấp một bên để nghe hay sao?” Mộ Dung Phục cười nhạt, đáp: “Ngươi lừa gạt một cô gái chẳng hiểu chuyện đời thì được, chứ lừa gạt ta sao nổi?” Đoàn Dự ngạc nhiên hỏi: “Tiểu đệ lừa gạt Mộ Dung huynh chuyện gì?”

Mộ Dung Phục cười đáp: “Sự tình đã rõ lắm rồi! Chính ngươi muốn làm phò mã nước Tây Hạ, sợ ta đến tranh nên bày trò, chỉ muốn ta mắc bẫy. Ha ha! Mộ Dung Phục này đâu phải đứa con nít lên ba, sao lại để kẻ khác lừa bịp một cách dễ dàng? Ngươi đừng mơ mộng nữa.” Đoàn Dự thở dài đáp: “Tiểu đệ hết sức chân thành, chỉ mong Vương cô nương cùng Mộ Dung huynh bén duyên cầm sắt, nâng án ngang mày, bách niên giai lão.” Mộ Dung Phục nói: “Đa tạ những lời vàng ngọc của Đoàn công tử. Nhà Mộ Dung ở Cô Tô cùng họ Đoàn nước Đại Lý vốn không thân thuộc lại không quen biết, sao ngươi phải bận tâm như vậy? Nếu ta bị Ngữ Yên quấn quít không nỡ buông ra, thì thật là dịp tốt cho ngươi qua làm phò mã Tây Hạ đấy nhỉ?”

Đoàn Dự tức giận nói: “Mộ Dung huynh nói vậy thì càn rỡ quá rồi. Tiểu đệ là Vương tử một nước, tuy Đại Lý là nước nhỏ, nhưng cũng chẳng coi hai chữ phò mã to như trời biển đâu, Mộ Dung huynh! Tại hạ chỉ thực tình khuyên nhủ: vinh hoa phú quý rồi cũng trở về không. Mộ Dung huynh muốn làm phò mã Tây Hạ thì còn dễ, nhưng muốn làm hoàng đế Đại Yên thì còn phải giết biết bao là người? Mộ Dung huynh có giết người Trung Nguyên đến máu chảy thành sông, thây chất thành núi cũng chưa chắc đã khôi phục được Đại Yên.”

Mộ Dung Phục không tức giận gì, lạnh lùng đáp: “Ngoài miệng ngươi thì nói nhân nghĩa đạo đức, mà lòng dạ chẳng khác gì rắn rết.” Đoàn Dự vội nói: “Mộ Dung huynh không tin lòng tốt của tiểu đệ thì tùy ý, nhưng tiểu đệ không nhường cho huynh lấy công chúa Tây Hạ đâu! Tiểu đệ không thể nhìn Vương cô nương vì Mộ Dung huynh mà tan ruột nát lòng, tìm cách tự tử.” Mộ Dung Phục cười gàn, hỏi: “Ha ha! Ngươi không cho ta lấy, nhưng ta nhất định lấy thì ngươi tính sao?” Đoàn Dự thản nhiên đáp: “Tiểu đệ nhất định hết sức ngăn trở. Nếu tự mình không đủ sức, thì nhờ bằng hữu giúp đỡ.”

Mộ Dung Phục không khỏi kinh hãi. Một mình Đoàn Dự thi triển Lục Mạch Thần Kiếm, y cũng không địch nổi, may mà kiếm pháp của chàng lúc linh nghiệm lúc không, nên y còn có thể nhân lúc sơ hở mà công kích. Còn bản lĩnh Tiêu Phong cùng Hư Trúc thế nào y đã rõ rồi. Mộ Dung Phục bỗng ngẩng đầu lên, lớn tiếng gọi: “Biểu muội! Biểu muội lại đây, ta có chuyện muốn nói!”

Đoàn Dự vừa kinh ngạc vừa hoan hỉ, vội quay đầu nhìn lại, nhưng dưới ánh trăng có thấy bóng người nào đâu? Chàng đang cố nhìn kỹ vào trong rừng, thì đột nhiên thấy huyệt Thiên Trụ sau lưng bị siết chặt, thân thể lại bị nhấc bổng lên. Bây giờ chàng mới biết là bị mắc lừa, liền gượng cười nói: “Mộ Dung huynh lại nổi nóng rồi! Thật không phải là hành động của người quân tử!”

Mộ Dung Phục cười nhạt đáp: “Đối với hạng tiểu nhân như ngươi, thì quân tử để làm gì?” Y xách chàng chạy đến cái giếng khô cách đấy chừng mấy trượng, liệng chàng xuống. Đoàn Dự chỉ kịp kêu lên một tiếng “Úi chao!” thì người đã rớt tõm tới đáy giếng rồi.

Mộ Dung Phục đang định tìm mấy khối đá lớn đậy miệng giếng lại để Đoàn Dự phải chết đói, thì bỗng nghe thanh âm một cô gái gọi: “Biểu huynh! Biểu huynh đã nhìn thấy muội rồi ư? Biểu huynh có việc gì sao không nói đi? Trời ơi! Biểu huynh làm gì Đoàn công tử vậy?” Người nói chính là Vương Ngữ Yên. Mộ Dung Phục ngẩn người ra, lông mày nhăn tít lại. Vừa rồi y nhìn về phía sau Đoàn Dự mà kêu biểu muội, là để cho chàng ngoảnh đầu nhìn lại, rồi nắm lấy yếu huyệt sau lưng chàng quăng xuống giếng. Không ngờ Vương Ngữ Yên đang nấp ở gần đó thật.

Thì ra Vương Ngữ Yên đêm ngày sầu thảm, lo lắng triền miên, ngủ không yên giấc. Nàng đang tựa cửa ngắm trăng, bỗng thấy Mộ Dung Phục xách Đoàn Dự chạy qua, sợ hai người lại đánh nhau. Nàng lo Mộ Dung Phục không địch nổi Lục Mạch Thần Kiếm của Đoàn Dự, nên lập tức theo sau. Hai người đối đáp ra sao, nàng đều nghe rõ hết, rõ ràng Đoàn Dự đem lời phế phủ ra khuyên Mộ Dung Phục, nhưng hắn lại nghĩ chàng có dụng ý khác. Đến khi Mộ Dung Phục kiếm chuyện lừa gạt Đoàn Dự, Vương Ngữ Yên lại tin rằng hắn đã thấy mình thật, liền bước ra.

Vương Ngữ Yên chạy đến bên miệng giếng cúi xuống nhìn, la gọi: “Đoàn công tử! Đoàn công tử! Công tử có bị thương không?” Lúc Đoàn Dự bị liệng xuống, đầu chàng đập xuống đáy giếng, chân giơ lên trời. Chàng đang bất tỉnh, không nghe tiếng Vương Ngữ Yên gọi. Vương Ngữ Yên gọi thêm mấy tiếng mà vẫn không thấy Đoàn Dự trả lời, bèn nghĩ rằng chàng đã chết rồi. Nàng nhớ lại Đoàn Dự đối với mình lúc nào cũng hết lòng hết dạ, phen này lại vì mình mà mất mạng, không cầm lòng được liền khóc rống lên: “Đoàn công tử!… Công tử… không thể chết được!”

Mộ Dung Phục cười gằn nói: “Biểu muội quả đã nặng tình với gã lắm rồi.” Vương Ngữ Yên nghẹn ngào nói: “Y đem lời nói thẳng mà khuyên biểu huynh, sao biểu huynh lại hại mạng y?” Mộ Dung Phục đáp: “Gã là địch thủ của ta. Vừa rồi biểu muội không nghe gã nói ư, gã tận tâm tận lực phá hoại kế hoạch của ta. Hôm trước trên núi Thiếu Thất, gã đã làm cho ta phảị mất thể diện, khiến Mộ Dung Phục này không còn đất đứng trên chốn giang hồ nữa. Gã đã như vậy, dĩ nhiên ta không thể khoan dung được.” Vương Ngữ Yên nói: “Chuyện trên núi Thiếu Thất đúng là y đã sai lầm. Muội đã thống trách y, và y đã chịu nhận lỗi.” Mộ Dung Phục cười nhạt nói: “Chà chà! Y đã chịu nhận lỗi. Chỉ một câu hời hợt như vậy là đủ ư? Biểu muội có biết Mộ Dung Phục này đi lại giang hồ sẽ bị người ta chỉ trỏ, đàm tiếu là ta đã bị bại dưới phép Lục Mạch Thần Kiếm của gã không? Biểu muội thử nghĩ xem, ta sống ở nhân gian còn có gì là lạc thú nữa?”

Vương Ngữ Yên dịu dàng nói: “Biểu huynh! Chuyện thắng bại chỉ nhất thời, có đáng gì mà biểu huynh phải để tâm như thế? Hôm tỉ kiếm trên núi Thiếu Thất, cữu phụ đã mở đường cho biểu huynh rồi. Việc đã qua còn nhắc lại làm chi?” Nàng không hiểu Đoàn Dự ở dưới đáy giếng còn sống hay chết, lại cúi xuống gọi: “Đoàn công tử! Đoàn công tử!…” Nhưng thủy chung vẫn không có tiếng đáp lại.

Mộ Dung Phục nói: “Biểu muội đã nặng tình với gã thì cứ lấy quách gã cho xong, hà tất phải giả vờ quấn quít với ta?” Vương Ngữ Yên chua xót đáp: “Biểu huynh! Muội đối với biểu huynh một lòng thành thực. Chẳng lẽ… chẳng lẽ biểu huynh còn không tin hay sao?” Mộ Dung Phục cười gằn đáp: “Ha ha! Ngươi đối với ta một dạ chân thành ư? Thế thì ở trong nhà giã gạo gần Thái Hồ ngày nọ, ngươi lõa lồ thân thể cùng gã họ Đoàn chui vào đống rơm để làm gì? Đó là việc chính mắt ta trông thấy, còn giả được sao? Khi ấy ta chỉ muốn chém thằng lỏi họ Đoàn một nhát rồi đời, thế mà ngươi lại chỉ điểm cho gã làm khó dễ ta. Ha ha! Ngươi chân tâm vì ta như thế ư? Thật ta không hiểu lòng dạ ngươi ra sao cả.”

Mộ Dung Phục nói đến đây rồi cười khẩy. Vương Ngữ Yên ngẩn người ra, run lên hỏi: “Trong nhà giã gạo bên Thái Hồ… Người che mặt… tự xưng là võ sĩ Tây Hạ…” Mộ Dung Phục ngắt lời: “Đúng thế! Người giả trang làm Lý Diên Tông, võ sĩ nước Tây Hạ, chính là ta đó.” Vương Ngữ Yên khẽ nói: “Thảo nào. Khi đó muội đã đèm lòng nghi hoặc. Cái câu: “Một ngày kia ta làm hoàng đế đất Trung Nguyên…” chính là khẩu khí của biểu huynh. Muội đã sớm biết mà!” Mộ Dung Phục cười nhạt nói: “Ngay lúc ấy mà ngươi biết thì hay hơn, nhưng bây giờ mới biết cũng chưa muộn.” Ngữ Yên đáp: “Biểu huynh! Hôm đó muội bị người Tây Hạ hạ độc, rồi được Đoàn công tử cứu cho, để lên lưng ngựa chạy trốn. Dọc đường gặp mưa lớn, quần áo ướt hết, mới phải chạy vào nhà giã gạo để trú mưa. Biểu huynh… bất tất phải đa nghi.”

Mộ Dung Phục nói: “Thật là một chỗ trú mưa tuyệt diệu! Khi ta đến nơi thì hai người vẫn thủ thỉ với nhau, tên họ Đoàn đưa tay ra sờ má ngươi, ngươi cũng không né tránh. Khi đó ta nói câu gì ngươi còn nhớ không? Ta e rằng bao nhiêu tâm trí ngươi để cả vào gã họ Đoàn, ta có nói gì thì ngươi cũng để ngoài tai”.

Vương Ngữ Yên run lên, hồi tưởng lại chuyện trong nhà giã gạo, câu nói của tên võ sĩ Tây Hạ Lý Diên Tông, lại hiện ra trong đầu nàng rất rõ ràng. Nàng ấp úng đáp: “Khi đó… Khi đó… biểu huynh cười nhạt, hỏi: “Ngươi tự phụ quá. Xem ra ngươi đã nặng tình với gã họ Đoàn này lắm nhỉ?”

Mộ Dung Phục nói: “Ngày ấy ngươi còn nói, nếu ta giết chết thằng lỏi họ Đoàn thì ngươi quyết giết ta để báo thù cho gã. Vương cô nương! Tại hạ nghe cô nương nói câu đó nên mới tha mạng cho gã. Không ngờ nuôi ong tay áo, sau này lên núi Thiếu Thất bị gã làm nhục trước bao nhiêu anh hùng hảo hán.”

Vương Ngữ Yên thấy Mộ Dung Phục không gọi minh là biểu muội, mà lại gọi là Vương cô nương, rồi tự xưng là tại hạ thì lòng nàng se lại. Nhưng nàng bản tính ôn nhu, không muốn cãi nhau với vị biểu huynh kính ái. Nàng chậm rãi đáp: “Biểu huynh! Nếu ngày đó muội nhận ra biểu huynh thì không đời nào lại nói vậy.” Mộ Dung Phục hỏi: “Ngươi có thể không nhận ra mặt ta, vì ta đeo mặt nạ, nhung chẳng lẽ ta đổi giọng nói, ngươi cũng không biết ư? Ngươi không nhận được khẩu âm thì còn được, chẳng lẽ ngươi lại không nhận ra võ công của ta ư? Ha ha! Ngươi hiểu biết võ học rất sâu rộng, bất luận ai ra một chiêu thức nào, ngươi cũng gọi ngay ra được tên chiêu thức cùng môn phái đó. Ta cùng thằng lỏi qua lại hơn trăm chiêu, chẳng lẽ ngươi không nhận ra được hay sao?” Vương Ngữ Yên rụt rè đáp: “Sự thực thì lúc ấy muội cũng đã sinh nghi, nhưng… biểu huynh! Lần đó do chúng ta mấy năm chưa được gặp mặt một lần. Thành ra võ công của biểu huynh, muội không hiểu được đến nơi đến chốn…”

Mộ Dung Phục nghe Vương Ngữ Yên nói thế, lại cho rằng nàng bảo mình võ công tiến bộ rất chậm, không được như dự kiến. Y không nhịn nổi, lại nói: “Ngày ấy, ngươi còn bảo: “Lúc đầu ta thấy đao pháp ngươi phức tạp quả có lấy làm kinh dị, nhưng coi độ năm chục chiêu đã hiểu, nếu gọi là con lừa chỉ biết đá hậu thì hơi ác khẩu, nhưng nói nghiêm chỉnh thì hiểu biết của ngươi còn kém xa ta.” Ngươi nói câu này là khinh bạc ta quá. Vương cô nương! Hiểu biết của ta quả không bằng cô nương, thì cô nương còn theo ta làm chi? Cô nương coi thường ta, nhưng Mộ Dung Phục này đường đường là kẻ trượng phu, không để cô nương coi thường đâu!”

Vương Ngữ Yên tiến lại mấy bước, mở miệng xin lỗi: “Biểu huynh! Ngày đó muội nói năng mạo phạm, bây giờ xin lỗi biểu huynh!” Nói xong, nàng cúi xuống hành lễ rồi nói tiếp: “Thực tình khi đó muội không biết là biểu huynh… Biểu huynh là người đại nhân đại lượng, xin đừng để vào lòng. Muội kính trọng biểu huynh ngay từ thuở nhỏ. Lúc chúng ta chơi đùa với nhau, biểu huynh bảo điều gì, muội cũng nghe theo, có bao giờ dám trái ý đâu? Lúc đó muội không biết mà nói nhăng nói càn, mong biểu huynh nghĩ tới tình cảm đằm thắm ngày xưa mà lượng thứ cho muội một phen.”

Hôm ấy, Vương Ngữ Yên nói mấy câu chạm tự ái Mộ Dung Phục. Y là con người cao ngạo, đã nghe vào tai thì như chôn vào ruột, hết sức tức giận Vương Ngữ Yên. Sau đó hai người có nhiều cơ hội gặp nhau, nhưng trong lòng Mộ Dung Phục vẫn chưa hết hờn giận, nỗi tị hiềm vẫn canh cánh trong lòng. Lúc này y nghe Vương Ngữ Yên nói năng dịu nhẹ, lại thấy nàng dung nhan thoát tục, ánh mắt đằm thắm, thì cũng tin là giữa nàng cùng Đoàn Dự chưa có gì ám muội, những câu nói ngày trước chẳng qua vì vô tâm, chứ không có ý khinh mạn. Y không khỏi động lòng, đưa tay ra nắm lấy tay nàng khẽ gọi: “Biểu muội!”

Vương Ngữ Yên cả mừng, biết biểu huynh đã lượng thứ cho mình. Nàng gục đầu xuống vai y, khẽ nói: “Khi nào biểu huynh tức giận muội điều chi, cứ việc đánh mắng, đừng để trong lòng không nói ra. Biểu huynh! Biểu huynh đừng đi làm phò mã nước Tây Hạ nữa nhé!”

Mộ Dung Phục ôm con người mềm mại trong lòng, tai nghe những lời thánh thót, mũi ngửi hơi thở thơm như hoa lan, bất giác bâng khuâng trong dạ. Nhưng y bỗng nghe nàng nhắc tới việc làm phò mã nước Tây Hạ thì toàn thân lại run lên, bụng bảo dạ: “Hỏng bét! Mộ Dung Phục kia! Ngươi lại mắc vào vòng nhi nữ tình trường, anh hùng khí đoản để lầm lỡ đại sự ư? Ngươi không dứt nổi mối tư tình nhỏ xíu này, thì còn nói gì đến đại sự tranh giành thiên hạ nữa?” Y vội đẩy nàng ra, nói một câu dứt khoát: “Biểu muội! Duyên phận của biểu muội với ta đến đây là hết! Những lời nói, những việc làm của biểu muội, ta không thể quên được!”

Vương Ngữ Yên thê thảm hỏi: “Vừa rồi biểu huynh đã nói là không giận muội.” Mộ Dung Phục đáp: “Ta không giận biểu muội, nhưng… nhưng suốt cuộc đời này thì danh phận của chúng ta chỉ là biểu huynh biểu muội mà thôi” Vương Ngữ Yên lại hỏi: “Thế là biểu huynh không chịu tha lỗi cho muội rồi.”

Trong lòng Mộ Dung Phục, hai ý niệm “tư tình” và “đại nghiệp” đang xung đột nhau rất dữ, y ngẩn người ra một lúc, sau cùng cũng lắc đầu. Vương Ngữ Yên tuyệt vọng hỏi: “Biểu huynh định đi lấy công chúa Tây Hạ, từ đây không nghĩ gì đến tiểu muội nữa ư?” Mộ Dung Phục cố gật đầu mấy cái.

Vương Ngữ Yên trước kia đã nghe Công Dã Càn nói cho biết biểu huynh muốn đi cưới công chúa Tây Hạ, lúc đó nàng đã thấy đau lòng, tìm cách đi thụt lại sau để tránh mặt bọn Đặng Bách Xuyên, nhảy xuống vực thẳm tự tử nhưng được Vân Trung Hạc cứu thoát. Bây giờ nàng nghe chính miệng ý trung nhân nói lời cự tuyệt thì ruột đau như cắt, muốn thổ huyết ra. Đột nhiên nàng nghĩ: “Đoàn công tử kia đối với mình hết dạ say mê, mà mình chẳng để ý đến chàng chút nào. Phen này chàng lại vì mình mà chết, thực là mình đối với chàng quá tàn nhẫn. Bây giờ mình đã không muốn sống nữa rồi. Cái giếng này đã là mồ chôn Đoàn công tử, chắc dưới đáy có nhiều đá nhọn, chỉ rơi xuống là chết ngay. Thôi thì ta chết cùng chàng ở dưới đáy giếng này, để gọi là báo đáp mối thâm tình.” Nghĩ vậy, nàng từ từ đi về phía cái giếng khô, rồi quay lại nói: “Biểu huynh! Muội thành tâm chúc biểu huynh hoàn thành tâm nguyện, lấy được công chúa Tây Hạ, làm được hoàng đế Đại Yên.”

Mộ Dung Phục biết nàng muốn đi tìm cái chết, lập tức vọt tới một bước, toan nắm tay nàng kéo lại, miệng đã suýt kêu: “Không được!” Nhưng y lại nghĩ: “Nếu mình kêu gọi, níu kéo nàng, lại phải dây dưa với nàng, khó mà dứt ra được nữa. Biểu muội dịu dàng đẹp đẽ, thật là hiếm có trên đời. Lấy được người vợ như vậy thì còn gì phải ân hận nữa? Huống hồ từ thuở nhỏ nàng đã có mối tình đằm thắm với mình, nếu một phút mình không kiềm chế được, kết thành mối nghiệt duyên thì công cuộc phục hưng nước Đại Yên sẽ hư hỏng hết.” Hắn suy nghĩ đến đây, mở miệng mà không nói tiếng nào, đưa tay ra, nhưng không kéo Vương Ngữ Yên lại.

Vương Ngữ Yên nhìn thấy thần sắc của Mộ Dung Phục, cũng đoán được tâm sự của hắn muốn ruồng bỏ nàng. Hai người đã là biểu huynh biểu muội, hắn chính mắt thấy nàng đi vào chỗ chết mà không ngăn cản, so với tên Cùng Hung Cực Ác Vân Trung Hạc thì còn tệ hại hơn. Nàng nghĩ thầm: “Con người này đã bạc bẽo đến thế, mình còn nghĩ tới làm chi?” Nàng liền cất tiếng gọi: “Đoàn công tử! Ta cùng công tử chết chung một chỗ! Nói rồi tung mình nhảy lên, đâm đầu xuống giếng.

Mộ Dung Phục kêu lên một tiếng “Úi chao!”, bước lên, giơ tay ra toan chụp lấy chân Vương Ngữ Yên. Bản lĩnh của y mà muốn kéo nàng lại thì chẳng khó gì, nhưng y không qụyết định chủ ý, để mặc cho nàng rớt xuống. Mộ Dung Phục buông một tiếng thở dài, lẩm bẩm: “Biểu muội! Ta biết trong thâm tâm biểu muội rất thương yêu Đoàn công tử. Tuy không được sống cùng nhà, nhưng được chết cùng huyệt, chắc biểu muội cũng thỏa mãn tâm nguyện rồi.”

Bỗng sau lưng Mộ Dung Phục có tiếng la lên: “Đồ ngụy quân tử! Ngươi đừng giả vờ nữa!” Mộ Dung Phục kinh hãi tự hỏi: “Sao có người đến sau lưng mà mình không biết?” Y xoay tay lại phía sau đánh ra một chưởng. Dưới ánh trăng, một bóng người lướt đi tránh né chưởng phong, thân pháp lẹ làng khó ai bì kịp.

***

Mộ Dung Phục không chờ người kia hạ xuống đã phi thân nhảy vọt tới, vừa vung chưởng đánh ra vừa quát hỏi: “Ngươi là ai? Sao lại dám trêu cợt công tử gia?” Người kia còn lơ lửng trên không, phóng chưởng ra để đỡ chưởng lực Mộ Dung Phục rồi lạng người ra xa hơn trượng mới hạ xuống. Đây chính là Đại Luân Minh Vương Cưu Ma Trí, quốc sư nước Thổ Phồn.

Cưu Ma Trí lên tiếng: “Rõ ràng ngươi đã bức bách nàng phải tự tận, sao còn nói là nàng thỏa mãn tâm nguyện? Ngươi muốn lấy một bàn tay mà che kín mặt trời ư?” Mộ Dung Phục nói: “Đây là việc riêng của ta, ai cần lão can thiệp vào?” Cưu Ma Trí nói: “Đã là việc của thiên hạ thì người thiên hạ phải can thiệp. Ngươi làm việc thương luân bại lý, hòa thượng ta có làm ngơ được chăng? Huống chi ngươi định làm phò mã nước Tây Hạ, thì không phải là việc riêng nữa rồi.”

Mộ Dung Phục hỏi: “Chẳng lẽ lão là hòa thượng mà cũng muốn đi làm phò mã ư?” Cưu Ma Trí cười ha hả rồi đáp: “Đã là hòa thượng lại muốn làm phò mã ư? Có lý nào thế được?” Mộ Dung Phục cười nhạt nói: “Ta đã sớm biết nước Thổ Phồn vốn có dạ bất lương. Chắc lão muốn vì Vương tử nhà lão mà tranh cướp chứ gì?” Cưu Ma Trí cười cười hỏi lại: “Sao lại bảo bọn ta có dạ bất lương? Nếu muốn lấy công chúa Tây Hạ là bất lương, thì ngươi có bất lương không?” Mộ Dung Phục đáp: “Tại hạ muốn lấy công chúa Tây Hạ thì cũng chỉ trông cậy vào bản lĩnh của mình, nhất quyết không sai thủ hạ đi làm mưa làm gió khắp các nẻo đường đến Linh Châu, khiến cho anh hùng phải chau mày, hào kiệt phải nghiến răng.” Cưu Ma Trí cười nói: “Những kẻ không biết tự lượng cũng kéo đến kinh thành Tây Hạ, khắp đường phố đầy rẫy bọn du côn. Bọn ta đuổi bớt như vậy là dọn đường cho ngươi, có chi là không phải?” Mộ Dung Phục nói: “Thế thì hay lắm! Té ra tiểu Vương tử nước Thổ Phồn tự đem công phu ra để tranh đấu với người phải không?” Cưu Ma Trí đáp: “Đúng thế!”

Mộ Dung Phục thấy đối phương có vẻ cương quyết không sợ hãi gì, bất giác sinh nghi hỏi: “Chắc là tiểu Vương tử quý quốc võ công cao cường, anh hùng vô địch, đã nắm chắc phần thắng rồi chăng?” Cưu Ma Trí đáp: “Tiểu Vương tử điện hạ là đồ đệ của ta, bản lĩnh cũng khá, còn bảo là anh hùng vô địch thì chưa chắc. Nhưng y có thể nắm chắc được phần thắng.” Mộ Dung Phục lại càng ngạc nhiên, nghĩ thầm: “Mình hỏi thẳng thì chưa chắc lão đã chịu nói thật, chi bằng thử khích lão một câu.” Y bèn nói: “Thế thì kỳ thật! Y nắm chắc phần thắng, mà tại hạ cũng nắm chắc phần thắng. Như vậy không hiểu ai sẽ thắng?”

Cưu Ma Trí cười đáp: “Ngươi cũng lo rằng tiểu Vương tử bên ta nắm chắc phần thắng, có đúng thế không? Vậy ngươi hãy nói phương pháp tranh thắng của mình trước đi, rồi ta sẽ giải thích phương pháp của tiểu Vương tử. Sau đó chúng ta cùng xem thử phương pháp của ai cao minh hơn.”

Mộ Dung Phục chỉ ỷ mình võ công cao thâm, dung mạo tuấn nhã, còn lấy gì để nắm chắc phần thắng thì y không biết nói sao, liền đáp: “Bên lão chỉ trông vào quỷ kế, không trọng chữ tín. Sau khi ta nói ra rồi, mà lão không chịu tiết lộ cơ mưu, thì hóa ra ta mắc lừa ư?”

Cưu Ma Trí cười khanh khách nói: “Mộ Dung công tử! Ta cùng lệnh tôn là chỗ thâm giao, lại tương kính. Như vậy có thể nói ta là hàng tiền bối của ngươi. Ngươi nói với ta như vậy thì có quá đáng không?” Mộ Dung Phục khom lưng thi lễ nói: “Minh Vương trách tại hạ như thế là phải, xin thứ lỗi cho.”

Cưu Ma Trí cười nói: “Ngươi là người thông minh, đã tự nhận lỗi. Vậy ta nể mặt gia gia ngươi mà nói cho ngươi biết cũng chẳng sao. Tiểu Vương tử nước Thổ Phồn đã chắc chắn nắm lấy phần thắng. Bất cứ ai muốn tranh ngôi phò mã với tiểu Vương tử, chúng ta sẽ tìm cách đối phó hết. Lúc không còn ai tranh chấp nữa, thì làm sao mà tiểu Vương tử lại không thắng được? Ha ha, ha ha!…”

Mộ Dung Phục đột nhiên biến sắc hỏi: “Nói như thế thì ta… ta…” Cưu Ma Trí ngắt lời: “Ta cùng lệnh tôn giao tình rất hậu, dĩ nhiên không muốn hại mạng ngươi. Ta thực tình khuyên ngươi mau mau rời khỏi Tây Hạ, đó là thượng sách.” Mộ Dung Phục hỏi: “Nếu tại hạ không bỏ đi thì sao?” Cưu Ma Trí tủm tỉm cười đáp: “Tuy ta không hại mạng, nhưng cũng có thể khoét hai mắt, hoặc chặt một chân một tay ngươi cho thành phế nhân. Công chúa Tây Hạ chắc chắn không chịu lấy người ngũ quan tàn phế, tay chân không đủ, dù người đó vốn là anh hùng hảo hán.” Lão kéo dài bốn chữ “anh hùng hảo hán” ra chiều mai mỉa.

Mộ Dung Phục trong lòng rất tức giận, nhưng lại sợ võ công lão ghê gớm, không dám ngang nhiên động thủ với lão, bèn cúi đầu ngẫm nghĩ, tìm cách đối phó.

Dưới ánh trăng, Mộ Dung Phục thấy bên cạnh bóng mình có bóng vật gì động đậy. Y chú ý nhìn kỹ, thì ra là tay phải Cưu Ma Trí. Y không khỏi giật mình kinh hãi, cho rằng đối phương đang ngưng tụ công lực và sắp hạ thủ. Y cũng ngấm ngầm vận động chân khí, chuẩn bị đề phòng. Bỗng nghe Cưu Ma Trí nói: “Mộ Dung công tử! Ngươi đã bức bách lệnh biểu muội phải tự tử, thật là tội lỗi. Ngươi nên mau rời khỏi Tây Hạ thì ta sẽ quên việc ngươi bức tử Vương cô nương đi, không truy cứu đến nữa.” Mộ Dung Phục tức mình cãi lại: “Đó là nàng tự nhảy xuống giếng để tự tử, có liên quan gì đến ta đâu?” Miệng y cãi lý, mà mắt vẫn chăm chú nhìn cái bóng động đậy dưới đất. Bóng hai tay Cưu Ma Trí vẫn không ngớt rung rinh.

Mộ Dung Phục không khỏi nghi ngờ tự hỏi: “Võ cõng lão cao cường như vậy, chắc không phải đề tụ chân khí lâu đến thế mà chưa động thủ. Chắc hẳn có duyên cớ gì khác đây.” Mộ Dung Phục nhìn rõ cả bóng ống quần, tà áo lão cũng khẽ rung động không ngớt, tựa như lão không tự chủ được mà đang run rẩy toàn thân. Mộ Dung Phục suy nghĩ một chút rồi chợt nhớ ra: “Mấy hôm trước, ở trong Tàng Kinh Các chùa Thiếu Lâm, vị lão tăng vô danh kia đã nói là Cưu Ma Trí bị nội thương trầm trọng, vì luyện bảy mươi hai tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm, rồi lại miễn cưỡng luyện Dịch Cân Kinh. Lão tăng còn nói đại nạn sẽ đến với lão trong sớm tối. Theo lời lão tăng thì ai không có tâm địa từ bi mà luyện tuyệt kỹ phái Thiếu Lâm sẽ bị chướng khí tích lại trong người, không tránh được tai họa. Lão tăng này đã đoán bệnh trạng của gia gia mình và của Tiêu Viễn Sơn rõ như chính mắt trông thấy, thế thì lão nói về Cưu Ma Trí chắc cũng không sai.” Mộ Dung Phục nhớ đến chuyện này, bất giác cả mừng, nghĩ thầm: “Lão trọc này sắp gặp đại nạn trong sớm tối, lại còn hăm đọa ta, đòi khoét mắt, chặt chân tay gì gì nữa.” Nhưng hắn vẫn chưa đám chắc có đúng thế không, liền nói: “Hỡi ơi! Thứ tự điên đảo, đại nạn lâm đầu trong sớm tối. Thế mới biết luyện võ không cẩn thận cũng có thể tẩu hỏa nhập ma, nguy hiểm vô cùng!”

Cưu Ma Trí thét lên một tiếng chẳng khác gì hổ gầm trâu rống, thanh âm cực kỳ khủng khiếp. Lão giơ tay ra toan chụp lấy tay Mộ Dung Phục, hỏi dồn: “Ngươi nói cái gì? Ngươi… ngươi nói đến ai?” Mộ Dung Phục né người tránh khỏi, Cưu Ma Trí cũng xoay mình lại. Ánh trăng chiếu vào mặt lão, thấy rõ cặp mắt đỏ ngầu, lông mày dựng thẳng. Khuôn mặt lão có vẻ ủ rũ, tuy thần sắc rất hung mãnh nhưng cũng không giấu nổi vẻ khủng khiếp.

Mộ Dung Phục không nghi ngờ gì nữa, nói ngay: “Tại hạ có một lời thành thực muốn khuyên. Minh Vương mau rời khỏi Tây Hạ, quay về Thổ Phồn, dọc đường không được vận khí, không được nóng giận, không được động thủ, may ra có thể về tới cố hương được. Nếu không thế thì e rằng lời nói của vị thần tăng chùa Thiếu Lâm ứng nghiệm đến nơi rồi.”Cưu Ma Trí gào thét om sòm, vẻ ung dung bình tĩnh thường ngày đã biến đâu mất hết. Lão quát hỏi: “Ngươi biết gì? Ngươi biết gì mà nói?” Mộ Dung Phục thấy bộ mặt Cưu Ma Trí rất khó coi, không còn chút gì là thánh tăng nghiêm trang nữa, không khỏi ngấm ngầm sợ hãi, vội lùi lại một bước. Cưu Ma Trí quát hỏi giật giọng: “Ngươi biết gì, sao không nói ra?” Mộ Dung Phục cố gắng trấn tĩnh, thở dài một hơi rồi nói: “Chân khí của Minh Vương đã chạy vào đường rẽ, nguy hiểm vô cùng! Nếu Minh Vương không về Thổ Phồn thì lập tức phải lên chùa Thiếu Lâm, xin vị thần tăng đó cứu chữa cho, may ra còn hy vọng.” Cưu Ma Trí cười đầy vẻ hung dữ, hỏi tiếp: “Sao ngươi biết chân khí ta đi vào đường rẽ? Ngươi nói nhăng gì thế?” Lão vung tay trái ra, toan chụp vào mặt Mộ Dung Phục.

Mộ Dung Phục, thấy năm ngón tay lão run rẩy, nhưng trảo pháp vẫn kín đáo vô cùng lợi hại, chẳng có vẻ gì là thiếu nội lực. Y thầm tự hỏi: “Hay là ta đoán nhầm chăng?” Rồi lập tức vận khí ngưng thần để tiếp chiến, phóng ra một chưởng, đoạn biến thế toan chụp bẻ xương cổ tay lão. Cưu Ma Trí quát lên: “Ta nể mặt phụ thân ngươi, trong vòng mười chiêu không hạ sát thủ. Đó là vì ta nghĩ đến chút tình giao hảo của cố nhân.” Lão vung quyền đánh thẳng vào vai phải Mộ Dung Phục.

Mộ Dung Phục chuyên về môn Đẩu Chuyển Tinh Di mượn sức người để đánh người, nhưng chiêu thức của Cưu Ma Trí cực kỳ tinh diệu. Mỗi chiêu lão chỉ phóng ra nửa chừng rồi đột nhiên biến thế, nên Mộ Dung Phục không thể nào thi triển kỹ thuật Đẩu Chuyển Tinh Di được. Y đành phòng thủ vững chắc những yếu điểm, để chờ đối phương lộ sơ hở. Cưu Ma Trí xuất chiêu liên tiếp, biến hóa liên tục đến mức Mộ Dung Phục chưa thấy bao giờ. Quyền đánh ra nửa chừng đã biến thành chỉ, trảo gần tới nơi lại biến thành chưởng, Cưu Ma Trí đánh xong mười chiêu, quát lên: “Đủ mười chiêu rồi, ngươi nạp mạng đi!”

Mộ Dung Phục hoa mắt lên, thấy bốn phương tám hướng đều có hình ảnh Cưu Ma Trí. Bên trái bị cước đá, bên phải bị quyền đánh, phía trước bị chưởng đập, phía sau bị chỉ đâm, vô số chiêu thức cùng lúc dồn vào y như gió táp mưa sa. Mộ Dung Phục không còn biết phải đánh đỡ mặt nào, đành ngưng thần vận khí, múa tít song chưởng, chỉ thủ chứ không công.

Tiếng thở hồng hộc của Cưu Ma Trí mỗi lúc một thêm gấp rút. Mộ Dung Phục phấn khởi nghĩ thầm: “Lão đã thở như bò rống, tức là nội khí không thông rồi. Ta chỉ chống chọi cầm chừng một lúc nữa, chỉ cần không bị đánh ngã, là lão tự nhiên sẽ lăn quay ra mà chết.” Cưu Ma Trí tuy hơi thở cấp bách, nhưng chiêu số càng mau lẹ hơn trước. Đột nhiên lão quát to một tiếng, Mộ Dung Phục thấy sau cổ bị nắm chặt, rồi thân thể bị nhấc bổng lên. Tiếp theo huyệt Tích Trung ở sau lưng và huyệt Thượng Khúc ở trước bụng cùng bị điểm, chân tay mềm nhũn không nhúc nhích được nữa.

Cưu Ma Trí cười nhạt mấy tiếng, nhưng vẫn ho rũ rượi. Lão chúm môi huýt một tiếng sáo, rồi nói: “Ta bảo ngươi cút đi, ngươi không chịu nghe, bây giờ đừng trách ta nữa. Ta… ta… phải xử trí với ngươi thế nào đây?”

Lúc ấy có bốn tên võ sĩ Thổ Phồn nghe tiếng sáo chạy từ trong rừng ra, khom lưng nói: “Xin Minh Vương hạ pháp chỉ.” Cưu Ma Trí đáp: “Đem thằng lỏi này chém đi!” Bốn tên võ sĩ cùng “Vâng!” một tiếng.

Mộ Dung Phục không nhúc nhích được, nhưng tai vẫn nghe rõ, ngấm ngầm than khổ. Y cảm thấy Cưu Ma Trí đưa mình vào tay hai tên võ sĩ, biết tính mạng sắp nguy, bất giác kinh hãi vô cùng, lẩm bẩm: “Vừa rồi ta cùng biểu muội tình trong như đã mà mặt ngoài cũng chẳng e, giả tỉ ta vì nàng mà không tham ngôi phò mã Tây Hạ, thi làm gì gặp phải cái nạn một đao chém chết? Sau khi ta chết rồi, lại còn hy vọng hưng phục Đại Yên nữa ư?”. Mộ Dung Phục chỉ muốn lên tiếng năn nỉ Cưu Ma Trí tha cho rời khỏi Linh Châu, không tranh ngôi phò mã với Vương tử nước Thổ Phồn nữa. Nhưng y không mở miệng được, mà Cưu Ma Trí lại không thèm nhìn đến, dù y có muốn đưa mắt ra hiệu xin tha cũng không được.

Bốn tên võ sĩ Thổ Phồn đón lấy Mộ Dung Phục, rồi một tên rút cương đao ra, vung lên, nhắm vào cổ hắn. Cưu Ma Trí vội nói: “Khoan đã! Ta cùng thân phụ của thằng lỏi này là chỗ quen biết, cũng nên cho gã chết toàn thây. Các ngươi quẳng gã xuống giếng, rồi đi kiếm mấy tảng đá lớn đậy lên miệng, để gã không ra được.”

Mấy tên võ sĩ vâng lời, xách Mộ Dung Phục lên liệng vào trong giếng khô. Chúng nhìn bốn mặt không thấy có tảng đá nào lớn, liền chạy ra phía sau thung lũng để tìm kiếm.

***

Cưu Ma Trí đứng trên bờ giếng, không ngớt ho hắng, không kìm lại được. Hôm trước lão dùng Hỏa Diệm Đao để ám toán Đoàn Dự, rồi lập tức trốn xuống núi, nhưng chưa xuống đến chân núi Thiếu Thất đã cảm thấy huyệt Đan điền nóng như lửa đốt. Lão ngấm ngầm vận nội lực đã thấy khó khăn, không khỏi kinh hãi rủa thầm: “Thằng trọc già kia nói mình gắng gượng luyện bảy mươi hai tuyệt kỹ phái Thiếu Lâm, chướng khí tích lại, gây ra mầm họa. Sau đó lại luyện môn Dịch Cân Kinh, chân khí trong người đảo lộn và đại nạn sắp đến nơi. Chẳng lẽ… chẳng lẽ thằng trọc già đó nói đúng ư?” Lão bèn tìm một sơn động chui vào ẩn nấp, ngồi yên một lúc thi thấy luồng nhiệt khí từ từ hạ xuống, nhưng vẫn không vận kình lực được.

Cưu Ma Trí chờ đến tối, không thấy chùa Thiếu Lâm cho người đuổi theo, mới tìm đường nhỏ mà đi, dọc đường nghe tin quốc vương nước Tây Hạ muốn chiêu phò mã. Lão liền viết tấu chương giao cho một tên thám tử Thổ Phồn đưa về trình lên quốc vương. Quốc vương nước Thổ Phồn cũng có ý muốn giao kết với Tây Hạ, nên vừa tiếp được tấu chương của Cưu Ma Trí liền lập tức phái tiểu Vương tử dẫn một số cao thủ võ sĩ, cùng rất nhiều vàng bạc châu báu, ngựa tốt đao quý, đang đêm lên đường đi Linh Châu ngay. Những ngựa tốt đao quý để đem tiến cho Quốc vương Tây Hạ, châu báu thì đưa tặng công chúa. Ngoài ra còn rất nhiều tiền bạc và bảo vật khác, để đút lót cho các hậu phi cùng thái giám ở nước Tây Hạ.

Cưu Ma Trí là quốc sư nước Thổ Phồn, tham gia vào mọi việc quân sự chính trị trong nước, tuy trong mình đang mắc bệnh, nhưng chuyện cầu thân này có liên quan đến vận mệnh nước Thổ Phồn, nên lão phải thân hành đi Tây Hạ để chủ trì cục diện. Chính lão đã phái những tay cao thủ võ sĩ đón các ngả đường để chặn bớt hào kiệt bốn phương kéo đến tranh ngôi phò mã. Từ mùng mười tháng tám, bọn võ sĩ Thổ Phồn đã đuổi về hàng mấy trăm chàng thiếu niên quý tộc toan đến Tây Hạ cầu hôn. Bọn người đến Tây Hạ tuy nhiều, nhưng số đông chỉ vì lòng tham, không phải là những tay hào kiệt bản lĩnh phi thường, thì địch làm sao nổi bọn võ sĩ Thổ Phồn vây đánh?

Cưu Ma Trí tới Linh Châu, rồi tìm một nơi tĩnh mịch để điều dưỡng. Nhiệt khí trong người lão hạ thấp xuống, rồi bình phục lại dần, nhưng hễ động lo nghĩ việc gì là chân tay lại run lẩy bẩy. Về sau, ngay cả những lúc tâm thần thư thái mà ngón tay, ngón chân, môi miệng, bả vai lão cũng không ngớt rung động, chẳng được lúc nào yên tĩnh. Cưu Ma Trí làm đến Quốc sư nước Thổ Phồn địa vị cao cả, lão không muốn để người ta thấy bộ dạng xấu xa của mình, liền ở riêng một nơi, ít người được thấy mặt.

Một hôm, lão được bọn võ sĩ về báo là Mộ Dung Phục cũng đến Linh Châu, bọn thủ hạ của y đã đánh chết cùng đả thương mấy tên võ sĩ Thổ Phồn. Lão biết rằng Mộ Dung Phục là một thiếu niên anh tuấn, văn võ song toàn, bọn võ sĩ tầm thường không cản nổi. Nhưng nếu không tìm cách đánh đuổi đi, để y tỉ thí với tiểu Vương tử thì phe ta khó thắng. Cưu Ma Trí nghĩ mãi không tìm được cách đối phó với Mộ Dung Phục, đành phải chường mặt ra. Lão đoán rằng Mộ Dung Phục đã hiểu bản lĩnh của mình, không chừng chưa cần động thủ thì y cũng đã sợ hãi mà tự rút lui. Lão liền tìm đến quán dịch.

Khi lão đến thì Mộ Dung Phục đã bắt Đoàn Dự đem đi. Bốn mặt nhà quán dịch đã có bảy tám tên võ sĩ Thổ Phồn mai phục để giám thị, Cưu Ma Trí liền hỏi rõ phương hướng rồi đuổi theo. Lúc lão đuổi tới khu rừng thì Mộ Dung Phục đã liệng Đoàn Dự xuống giếng rồi, đang đối thoại cùng Vương Ngữ Yên. Cưu Ma Trí chờ tới lúc Vương Ngữ Yên đâm đầu xuống giếng mới xuất hiện. Lão không ngờ Mộ Dung Phục tuy sợ hãi lão mà cũng không chịu nhượng bộ, phải tỉ đấu một hồi. Sau cùng, tuy lão bắt được Mộ Dung Phục nhưng chính mình cũng bị khí huyết nôn nao, dường như chân khí trong người muốn phá vỡ kinh mạch để tiết ra ngoài, nhưng lại không có chỗ để thoát ra nên lão khó chịu vô cùng.

Cưu Ma Trí giơ tay lên cào loạn vào trước ngực, nội lực trong người vẫn không ngớt bành trướng, tưởng chừng như màng óc, da bụng đều căng phồng ra, sắp vỡ tung đến nơi. Người ngoài trông vào thân hình lão vẫn như ngày thường, không to lớn hơn chút nào, nhưng Cưu Ma Trí thấy mình căng như một quả bóng, nội khí xông lên cuồn cuộn. Lão sợ quá, lấy ngón tay chọc vào hai bên bắp chân ba lỗ thủng khá sâu, tưởng để xì bớt hơi ra theo những lỗ này. Nhưng chỉ thấy máu tươi chảy ra như suối, còn nội khí không tiết ra được chút nào.

Bây giờ Cưu Ma Trí mới biết rằng lời vị thần tăng đã nói trong Tàng Kinh Các là đúng, vì mình ham muốn quá nhiều, luyện cả bảy mươi hai tuyệt kỹ phái Thiếu Lâm cùng Dịch Cân Kinh, để cho thứ tự đảo điên, đại nạn đến trong sớm tối. Cưu Ma Trí tuy hoảng hốt, nhưng nhờ tu luyện lâu năm mà thần trí chưa đến nỗi bối rối. Đột nhiên trong óc lão lóe lên một tia sáng, nghĩ thầm: “Sao… sao lão ta lại không luyện hết, mà chỉ luyện mấy thứ? Lão lại đưa cả bí lục bảy mươi hai tuyệt kỹ cho ta là có ý gì? Ta với lão chỉ là bèo nước gặp nhau, dù có ý hợp tâm đầu, nhưng chưa thể nói là giao tình thân mật được.”

Lúc Cưu Ma Trí lâm nguy mới hiểu nổi dụng ý của Mộ Dung Bác khi tặng mình bảy mươi hai tuyệt kỹ Thiếu Lâm. Cưu Ma Trí là người rất thông minh, ngay buổi đầu tiên, lão đã đem lòng ngờ vực Mộ Dung Bác rồi. Nhưng khi ấy lão mở bí lục ra xem, thấy tuyệt kỹ nào cũng tinh diệu phi thường. Lão là người kiến thức uyên bác, nếu có chỗ nào giả trá là xét đoán được ngay. Lão lại thử cả giấy trong bí lục thì tuyệt không có chất độc chi hết, rồi không nghi ngờ gì nữa.

Lúc này lão lâm vào tình trạng sống dở chết dở mới hiểu ra tâm địa độc ác của Mộ Dung Bác xưa kia, nghĩ thầm: “Té ra lão ẩn nấp trong chùa Thiếu Lâm mấy chục năm, đã từng nghe mấy lão tăng Thiếu Lâm phân tích vì sao không thể luyện hết những môn tuyệt kỹ được. Lúc lão gặp mình ở Thiên Trúc, biết mình võ công thao lược hơn đời mới đem tuyệt kỹ bí lục tặng cho mình, một là gieo họa về sau, hai là để gây thù oán giữa mình và chùa Thiếu Lâm. Lão còn mong Thổ Phồn và Đại Tống xảy cuộc can qua, để lão ở giữa thủ lợi, mưu đồ phục hưng nước Đại Yên. Dĩ nhiên bí kíp bảy mươi hai tuyệt kỹ Thiếu Lâm, lão cũng giữ lại bản sao, chuyện này không cần nói làm gì.”

Lúc nãy Cưu Ma Trí bắt được Mộ Dung Phục, nhớ đến cái ơn phụ thân hắn tặng bí lục Thiếu Lâm cho mình, nên dù biết Mộ Dung Phục là mối họa nhưng cũng không xử tử tức khắc, chỉ quăng xuống giếng khô cho chết được toàn thây. Bây giờ lão hiểu ra Mộ Dung Bác dụng ý sâu độc, hại mình mình khổ sở, bất giác tức giận như điên, cúi xuống miệng giếng phóng luôn ba chưởng, nhưng không thấy động tĩnh gì. Lão biết là giếng sâu quá, chưởng lực đánh không tới đáy.

Cưu Ma Trí lại càng tức giận, vận hết công lực đánh ra một quyền. Thoi quyền vừa đánh ra, nội khí trong người lão chạy rần rần, dường như muốn theo mười vạn tám ngàn lỗ chân lông xông ra ngoài mà không được.

Đang lúc lão vừa kinh hãi vừa tức giận, đột nhiên trước ngực thấy động, một vật gì từ trong bọc áo rớt xuống giếng. Cưu Ma Trí vung tay chụp lại, nhưng không kịp nữa. Lão vội vận Cầm Long Thủ Pháp để vẫy ngược lên. Nếu là lúc bình thời, nhất định lão bắt lại được, nhưng lúc này nội kình không điều khiển nổi, cứ bành trướng rần rần chứ không chịu ra đến lòng bàn tay. Bỗng nghe một tiếng “tạch” vang lên, vật kia đã rớt xuống đáy giếng. Cưu Ma Trí la thầm: “Hỏng bét!” Lão thò tay sờ vào bọc, phát giác pho Dịch Cân Kinh đã rớt xuống giếng mất rồi.

Lão biết nội khí mình không chạy đúng đường là do luyện Dịch Cân Kinh mà ra. Vậy muốn trừ cái đau khổ này, thì không nghiên cứu Dịch Cân Kinh không được. Dịch Cân Kinh là vật quan hệ đến chuyện sống chết của lão, để thất lạc thế nào được?

Cưu Ma Trí không suy nghĩ gì nữa, tung mình nhảy xuống đáy giếng. Lão sợ dưới đáy giếng có đá nhọn hoặc cành cây đâm vào chân tay, lại đề phòng Mộ Dung Phục tự giải khai được huyệt đạo, rồi đánh lén mình, nên hại chân chưa chấm đất đã vung tay phải đánh xuống hai chưởng để giảm bớt đà rơi xuống. Tay trái lão lại xuất chiêu Hồi Phong Lạc Diệp để hộ vệ những chỗ yếu hại trên thân thể. Ngờ đâu nội khí trong người lão đang biến hóa khác thường, chiêu số tuy tinh vi mà lực đạo phóng ra lại không chính xác. Hai phát chưởng không giảm bớt được đà rơi xuống, mà lại đẩy mạnh người sang một bên. Nghe “Huỵch” một tiếng, đầu lão đã va vào thành giếng thật mạnh.

Cưu Ma Trí công lực cao cường, tuy chưa luyện thành tấm thân sắt thép, nhưng đầu lão đập vào gạch chẳng sứt mẻ gì, mà viên gạch lại nát nhừ. Lão thấy mắt nảy đom đóm, trời đất quay cuồng, lăn thẳng xuống đáy giếng.

Cái giếng khô này bị bỏ hoang đã lâu, lá rụng cùng cỏ khô chất đống rất dày, đã mục mát thành bùn. Mấy chục năm trời, bùn sâu có tới hơn trượng. Cưu Ma Trí rớt xuống, mặt mũi mồm miệng đều bị lấp dưới bùn lầy. Lão cảm thấy người mình từ từ chìm xuống, muốn cựa quậy đứng lên, nhưng chân tay không còn chút sức lực nào. Đang lúc hoảng hốt, bỗng lão nghe trên miệng giếng có tiếng la gọi: “Quốc sư! Quốc sư!…” Đó chính là bốn tên võ sĩ Thổ Phồn.

Cưu Ma Trí định la lên: “Ta ở đây!” Nhưng lão mới mở miệng thì đất bùn đã lấp vào miệng, không nói lên lời. Lão còn văng vẳng nghe bốn tên võ sĩ nói chuyện với nhau. Một tên nói: “Chắc quốc sư có việc gấp, không chờ được nên bỏ đi rồi. Lão nhân gia đã dặn mình kiếm đá lớn đậy miệng giếng, vậy mình chỉ tuân lệnh là xong.” Một tên khác nói: “Đúng thế!”

Cưu Ma Trí cố la lên: “Ta ở đây! Các ngươi tìm cách cứu ta!” Lão càng hoảng loạn thì bùn vào miệng càng nhiều, bất giác nuốt hai miếng vào bụng, mùi hôi thối cực kỳ khó chịu. Trên miệng giếng lại nghe có tiếng lịch kịch, bốn tên võ sĩ đang vần tảng đá lớn đậy lên miệng giếng. Bọn võ sĩ Thổ Phồn vốn kính trọng Cưu Ma Trí như bậc thiên thần, chúng coi mệnh lệnh của quốc sư chẳng khác chỉ dụ của vua. Chúng chỉ sợ khối đá chưa đủ nặng, nên lại lấy thêm mười hai mười ba phiến đá nặng mấy trăm cân xếp lên trên.

Cưu Ma Trí nghe rõ bốn tên võ sĩ xếp đá xong rồi gọi nhau bỏ đi. Lão biết trên miệng giếng đã có mấy ngàn cân đá, đừng nói mình đang lúc võ công mất hết, mà trong lúc bình thời cũng không dễ gì từ dưới mà đẩy lên được, chắc chắn phen này mất mạng trong cái giếng khô này. Về võ công cũng như Phật học, về mưu trí cũng như thao lược, lão trùm cả Tây Vực không một ai bì kịp, ngờ đâu cuối cùng bị chôn vùi trong giếng bùn dơ bẩn. Người ta ai mà không chết, nhưng chết trong trường hợp này thật chẳng vinh dự chút nào. Người theo Phật giáo phải quán được thân thể chỉ là một cái túi thối tha, sắc là vô thường, vô thường là khổ, thân không phải là bản ngã, phải biết chán ghét mà rời xa. Những đạo lý cơ bản của Phật học này, những lúc Cưu Ma Trí đăng đàn thuyết pháp thì biện giải thao thao ảo diệu, lập luận vững chắc, thính giả ngồi dưới đều hoan hỉ tán đổng. Lúc này thân dưới giếng cạn, đầu đè đá lớn, miệng đầy bùn đất, so với lúc ngồi cao trên đàn thuyết pháp, nói thao thao bất tuyệt như hoa sen nở, thật là khác xa. Tự Tại Vô Ngại gì gì, Thường Lạc Ngã Tịnh gì gì, đều đã văng mất ra khỏi đầu óc, lúc này lão chỉ thấy ngũ uẩn là thật, tấm thân thối tha là quan trọng nhất. Khiết đế khiết đế, ba la tăng khiết đế, không rời khỏi được giếng bùn này mới là khổ ải chân chính của thế gian.

Cưu Ma Trí nghĩ tới chỗ bi thương nhất, cầm không nổi hai hàng nước mắt trào ra. Người lão đầy bùn chẳng còn chỗ nào sạch sẽ, nhưng theo phản ứng tự nhiên cũng toan giơ tay lên gạt nước mắt, bỗng đụng phải một vật trong vũng bùn. Tiện tay lão cầm lấy, sờ biết là pho Dịch Cân Kinh. Cưu Ma Trí dở khóc dở cười. Kinh báu tìm thấy rồi, nhưng lúc này còn dùng làm gì được nữa?

Chợt nghe thanh âm một cô gái nói: “Công tử có nghe thấy không? Bọn võ sĩ Thổ Phồn đã dùng đá lớn lấp miệng giếng, chúng ta làm thế nào ra được?” Người nói chính là Vương Ngữ Yên. Cưu Ma Trí nghe thấy tiếng người, trong lòng phấn khởi nghĩ thầm: “Té ra cô này chưa chết! Nhưng không hiểu cô ta nói với công tử nào? Ba người hợp lực, may ra có thể đẩy được phiến đá đậy giếng, thoát khỏi nơi nguy hiểm này.” Lại thấy tiếng một chàng trai đáp lại: “Tại hạ chỉ mong được cùng cô nương ở mãi nơi đây. Giả tỉ không ra khỏi thì đã sao? Có cô nương ở bên mình tại hạ, dù bùn lầy cũng hóa hương thơm. Bất luận thiên đường lạc thổ nào cũng chẳng bằng chỗ này”. Cưu Ma Trí nghe chàng nói, ngấm ngầm kinh hãi tự hỏi: “Gã này vẫn chưa chết ư? Gã bị mình phóng Hỏa Diệm Đao đánh trọng thương, đối với mình dĩ nhiên căm hận sâu cay. Bây giờ mình không phát huy được nội lực, nếu gã nhân cơ hội trả thù thì biết làm thế nào?”

***

Người vừa nói chính là Đoàn Dự. Chàng bị Mộ Dung Phục liệng xuống giếng ngất đi, chân tay không nhúc nhích được. Nhờ vậy mà tuy chàng cũng chìm xuống bùn lầy, nhưng không bị hoảng hốt như Cưu Ma Trí. Lúc Vương Ngữ Yên nhảy xuống giếng, đầu nàng va dụng vào huyệt Đản Trung trước ngực chàng, nên Đoàn Dự hồi tỉnh lại ngay. Còn Vương Ngữ Yên ngã đúng vào lòng chàng nên không bị thương chút nào, mà bùn lầy cũng không bám vào người nhiều lắm.

Đoàn Dự thấy trong lòng mình bỗng có thêm một người, còn đang nghi hoặc, thì nghe Mộ Dung Phục nói trên miệng giếng: “Biểu muội! Ta biết trong thâm tâm biểu muội rất thương yêu Đoàn công tử. Tuy không được sống cùng nhà, nhưng được chết cùng huyệt, chắc biểu muội cũng thỏa mãn tâm nguyện rồi.” Đoàn Dự nghe mấy câu này rất rõ ràng, lẩm bẩm thành tiếng: “Không được! Không thể được! Đoàn Dự này làm gì có phúc lớn như vậy?”

Đột nhiên, người trong lòng chàng lên tiếng: “Đoàn công tử! Muội thật là hồ đồ. Huynh đối với muội hết lòng như vậy mà muội…” Đoàn Dự kinh hãi ngắt lời: “Vương cô nương đấy ư?” Vương Ngữ Yên đáp: “Là muội đây!”

Đoàn Dự đối với nàng một niềm kính cẩn, trong lòng chưa bao giờ dám có một chút ý niệm dâm tà. Chàng vừa biết là nàng, vội vàng ngồi dậy toan đẩy ra xa, nhưng đáy giếng chật hẹp lại đầy bùn lầy. Hai chân chàng vừa đứng lên đã ngập sâu vào trong bùn, biết rằng không thể đặt Vương Ngữ Yên xuống bùn được, đành cứ ôm lấy người nàng, luôn miệng xin lỗi: “Vương cô nương! Tại hạ thật là đắc tội. Chúng ta đang ở trong chỗ bùn lầy, ngộ biến đành phải tòng quyền vậy.”

Vương Ngữ Yên thở dài, trong lòng cảm kích muôn vàn. Nàng đã hai lần chết đi sống lại, đã nhìn rõ tâm địa Mộ Dung Phục, dù muốn tự dối mình cũng không được nữa. Đoàn Dự đối với nàng lại hết dạ chân thành, nếu đem ra mà so sánh, thì một bên tình nghĩa mặn nồng, còn một bên phũ phàng ích kỷ. Từ lúc nàng nhảy xuống giếng, chỉ trong nháy mắt mà tâm ý biến đổi rất nhiều. Lúc nãy nàng tự thương thân, chỉ muốn quyên sinh để tạ tình Đoàn Dự. Không ngờ Đoàn Dự cùng mình đều chưa chết, thật là chuyện khó tưởng tượng ra, lòng nàng mừng rỡ vô cùng. Vương Ngữ Yên vốn là một cô gái đoan trang rất hiểu lễ nghĩa, nhưng vừa trải qua nhiều biến cố hãi hùng nên cảm động không nhịn được nữa, bèn thổ lộ can trường: “Đoàn công tử! Muội cứ tưởng huynh chết rồi. Nhớ lại những lúc huynh hết lòng với muội, muội cứ vừa thương tâm lại vừa hối hận. May mà ông trời có mắt, huynh vẫn bình yên. Lúc muội ở trên miệng giếng đã nói những gì, chắc huynh nghe rõ cả rồi?” Nói tới đây, nàng thẹn đỏ mặt lên, gục đầu vào cổ Đoàn Dự.

Đoàn Dự đột nhiên thấy người nhẹ nhàng bay bổng, không hiểu bay lên không trung hay bay vào cõi mộng, nguyện vọng ngày đêm mơ tưởng đột nhiên biến thành sự thực. Chàng mừng quá, hai chân nhũn ra ngồi ngay xuống bùn, tựa lưng vào thành giếng, hai tay vẫn giữ lấy người Vương Ngữ Yên. Bỗng nhiên mấy sợi tóc nàng luồn vào trong mũi chàng, làm chàng hắt hơi luôn mấy cái. Vương Ngữ Yên vội hỏi: “Huynh… huynh làm sao vậy? Bị thương rồi ư?” Đoàn Dự vội đáp: “Không… không có… Ta không bị thương chi hết, chỉ hắt hơi mà thôi… Vương cô nương! Ta sung sướng tưởng chết đi được!”

Trong giếng tối mò, hai người không nhìn thấy mặt nhau. Vương Ngữ Yên mỉm cười không nói gì, nhưng trong lòng nàng cũng rất vui sướng. Nàng từ thuở nhỏ đã say mê biểu huynh, mà chưa bao giờ được y tỏ tình luyến ái, đến nay mới nếm trải hương vị ái tình nồng nhiệt.

Đoàn Dự ấp úng hỏi: “Vương cô nương! Vừa rồi ở trên miệng giếng muội đã nói gì? Ta chưa nghe thấy!” Vương Ngữ Yên mỉm cười đáp: “Muội cứ tưởng huynh là một người quân tử chí thành, không ngờ huynh cũng biết nói dối. Huynh đã nghe thấy rồi, còn muốn muội nhắc lại lần nữa để muội phải thẹn thùng. Muội không nói đâu.”

Đoàn Dự vội đáp: “Ta thực tình chưa nghe thấy. Nếu ta được nghe rồi, xin hoàng thiên trách phạt…” Chàng toan lập lời trọng thệ, nhưng Vương Ngữ Yên đã bịt miệng, ngắt lời: ‘Huynh chưa nghe thấy thì thôi, có gì quan trọng đâu mà phải thề thốt.” Từ ngày Đoàn Dự biết Vương Ngữ Yên, chưa bao giờ được nàng đối xử đằm thắm như hôm nay nên cả mừng nói: “Lúc đó muội đã nói gì?” Vương Ngữ Yên đáp: “Muội nói…” Rồi nàng thẹn thùng mỉm cười, nói tiếp: “Sau này rồi sẽ nói, ngày tháng còn dài, huynh làm chi mà vội thế?”

Câu nàng nói: “Ngày tháng còn dài, huynh làm chi mà vội thế?” như một khúc tiên nhạc rót vào tai Đoàn Dự. Rõ ràng nàng đã thuận tình ở lâu dài bên chàng, Đoàn Dự nghe mà chưa tin ở tai mình, hỏi lại: “Muội đã nói như thế, thì từ nay trở đi chúng ta sẽ ở bên nhau hay sao?” Vương Ngữ Yên đưa tay ra ôm lấy đầu chàng, thủ thỉ vào tai: “Đoàn lang! Muội chỉ mong huynh đừng phũ phàng với muội, cũng đừng hờn giận vì trước kia muội đã lạnh nhạt vô tình với huynh là đủ. Muội nguyện suốt đời đi theo Đoàn lang, không… không bao giờ xa rời nữa.”

Đoàn Dự nghe nàng nói vậy, tưởng chừng như trái tim muốn nhảy ra ngoài lồng ngực. Chàng hỏi lại: “Thế còn biểu huynh của muội thì sao? Muội vốn… vốn quí trọng Mộ Dung công tử lắm kia mà?” Vương Ngữ Yên đáp: “Nhưng chẳng bao giờ y để ý đến muội. Bây giờ muội mới biết trên thế gian này, ai là người thương yêu muội, coi tính mạng muội quan trọng hơn cả tính mạng mình.” Đoàn Dự hỏi: “Muội nói về ta đấy ư?”

Vương Ngữ Yên sa lệ nói: “Phải đó! Biểu huynh của muội lúc nào cũng mơ tưởng ngôi hoàng đế nước Đại Yên. Chuyện đó cũng không trách được, vì họ Mộ Dung từ bao đời nay đã hoài bão mộng tưởng phục quốc, thì y tỉnh ngộ thế nào được? Biểu huynh vốn cũng không phải là người tệ bạc, nhưng giấc mộng làm hoàng đế đã khiến y bỏ hết mọi sự qua một bên.” Đoàn Dự nghe thấy trong câu nói Vương Ngữ Yên đã tỏ ý dứt tình với Mộ Dung Phục, trong lòng nóng nảy hỏi lại: “Vương cô nương! Giả tỉ có một ngày biểu huynh nghĩ lại, đối với muội một dạ chân thành, thì muội biết làm thế nào?” Vương Ngữ Yên thở dài đáp: “Đoàn lang! Muội tuy là nữ nhân ngu xuẩn, nhưng không đến nỗi coi rẻ đức hạnh. Hôm nay muội đã cùng huynh đính ước, nếu còn thay đổi lòng dạ há chẳng tổn hại đến danh tiết, không xứng với tấm chân tình của huynh dành cho muội hay sao?”

Đoàn Dự sung sướng như hoa nở rộ trong lòng, ôm nàng toan nhảy lên, nhưng nghe “bõm” một tiếng, hai người rớt lại xuống dưới bùn. Đôi môi chàng rung động, toan tìm đôi môi nàng, Vương Ngữ Yên cũng uyển chuyển theo đà. Môi hai người vừa kề sát vào nhau, đột nhiên trên đầu nổi lên tiếng gió veo véo, dường như có vật gì rớt xuống.

Hai người kinh hãi vội nép vào bên thành giếng. “Bõm” một tiếng lớn, rồi có một người rớt xuống.

Đoàn Dự vội hỏi: “Ai thế?” Người kia đằng hắng một tiếng rồi đáp: “Ta đây!” Y chính là Mộ Dung Phục.

Thì ra sau khi Đoàn Dự tỉnh lại, chàng được Vương Ngữ Yên tỏ tình thắm thiết, hết thảy tinh thần đặt cả vào người ngọc, ngoài ra không còn biết gì nữa, cho đù trời long đất lở cũng chẳng buồn nghe thấy. Cưu Ma Trí ác đấu cùng Mộ Dung Phục, quát tháo om sòm trên bờ giếng, hai người cũng không hề hay biết. Lúc này Mộ Dung Phục đột nhiên rớt xuống giếng, hai người mới giật mình kinh hãi, đều nghĩ rằng y nhảy xuống để can thiệp.

Vương Ngữ Yên run lên hỏi: “Biểu huynh! Biểu huynh còn xuống đây làm chi? Tấm thân của muội bây giờ đã thuộc về Đoàn công tử rồi. Biểu huynh có giết chàng thì phải giết luôn cả muội nữa.”

Đoàn Dự cả mừng. Chàng vốn không sợ Mộ Dung Phục hại mình, chỉ sợ Vương Ngữ Yên thấy biểu huynh thì lửa tình cũ lại cháy lên, rồi quay lại với biểu huynh. Chàng nghe nàng nói vậy đã yên tâm, lại thấy nàng đưa tay ra nắm chặt tay mình thì càng thêm tin tưởng, bèn cất tiếng hỏi: “Mộ Dung công tử! Huynh muốn làm phò mã Tây Hạ, bây giờ chẳng những ta không khuyên can nữa, mà còn mong cho huynh toại nguyện. Còn lệnh biểu muội đã thuộc về ta rồi, huynh muốn cướp lại cũng không được nữa. Ngữ Yên! Muội nói xem có đúng thế không?” Vương Ngữ Yên đáp: “Không sai! Đoàn lang dù sống dù chết, muội cũng quyết theo chàng.”

Mộ Dung Phục đã bị Cưu Ma Trí điểm trúng huyệt đạo, tuy y nghe được, nói được, nhưng không cử động được. Y nghe hai người nói vậy thì nghĩ thầm: “Bọn này chưa biết mình đã đại bại và bị kiềm chế huyệt đạo. Chúng đối với mình vẫn sợ sệt, chỉ lo mình hạ thủ gia hại. Thế thì hay lắm! Mình phải tìm kế hoãn binh mới được.” Y nghĩ vậy, liền đáp: “Biểu muội! Muội đã lấy Đoàn công tử rồi, thì chúng ta là người một nhà. Đoàn công tử đã thành em rể ta, khi nào ta lại hại y.”

Đoàn Dự vốn người trung hậu, Vương Ngữ Yên cùng không hiểu nhân tình thế thái. Hai người nghe Mộ Dung Phục nói vậy thì vui mừng khôn xiết, một người nói: “Đa tạ Mộ Dung huynh!” Một người nói: “Đa tạ biểu huynh!”

Mộ Dung Phục nói: “Đoàn huynh đệ! Chúng ta đã là người một nhà, vậy ta đi làm phò mã Tây Hạ, huynh đừng theo ngăn trở ta nữa nhé!” Đoàn Dự đáp: “Dĩ nhiên là thế. Ta được cùng lệnh biểu muội nên đạo vợ chồng, thì không còn có tâm nguyện nào khác nữa. Dù được làm thần tiên hay bồ tát, thì ta cũng chẳng màng.” Vương Ngữ Yên khẽ tựa vào người Đoàn Dự, trong lòng vui mừng khôn xiết.

Mộ Dung Phục âm thầm vận khí muốn tự giải huyệt, nhưng không có cách nào giải khai được, lại không muốn gọi Đoàn Dự giúp đỡ, trong lòng ngấm ngầm căm phẫn: “Người ta bảo đàn bà như nước chảy hoa trôi, quả thật không sai. Trước kia, hễ biểu muội thấy mình là chạy ngay đến bên nâng đỡ, bây giờ lại không thèm nhìn gì đến mình nữa.”

Đáy giếng chật hẹp, đường kính không đầy một trượng, ba người đứng rất gần nhau. Ngữ Yên cũng nghe thấy Mộ Dung Phục đang nằm trong bùn, không đứng dậy được. Nàng chỉ bước một bước là đến được cạnh biểu huynh để dìu hắn dậy, nhưng trong lòng lại e sợ Mộ Dung Phục đang bày mưu kế gì để gia hại Đoàn Dự, lại sợ Đoàn Dự sinh lòng ngờ vực, nên nàng chần chừ, không hành động được.

Tâm thần Mộ Dung Phục càng rối loạn thì huyệt đạo càng khó khai thông. Một lát sau y trấn tĩnh lại, tự giải được huyệt đạo. Y vừa đưa bàn tay vịn vào thành giếng, bỗng nghe “vèo” một tiếng, một vật rớt xuống bên mình, chính là pho Dịch Cân Kinh mà Cưu Ma Trí đánh rơi. Dưới đáy giếng tối đen như mực, Mộ Dung Phục không thấy là vật gì, vội tránh qua một bên. Cũng may là y né tránh, nên lúc Cưu Ma Trí nhảy xuống không đè trúng y.

Cưu Ma Trí nhặt được cuốn kinh trong bùn, đột nhiên nổi lên một tràng cười rộ. Đáy giếng vừa sâu vừa chật hẹp, tiếng cười vang đi vọng lại làm ù cả tai Đoàn Dự, rất khó chịu. Cưu Ma Trí bật lên tiếng cười, rồi không sao ngừng lại được nữa, nội tức trong người lão bành trướng, thần trí mê man. Lão đứng ngập trong bùn lầy, tay đấm chân đá vào thành giếng. Quyền cước của lão có lúc mãnh liệt vô cùng, đập gạch vỡ tan nát, có lúc lại hoàn toàn vô lực.

Vương Ngữ Yên kinh hãi vô cùng, dựa sát vào mình Đoàn Dự khẽ nói: “Lão điên rồi!” Đoàn Dự đáp: “Đúng là lão điên rồi!” Còn Mộ Dung Phục thi triển khinh công Bích Hổ Du Tường, dán người vào thành giếng trườn dần lên.

Cưu Ma Trí cứ vừa cười rộ vừa ho rũ rượi, quyền cước đánh ra mỗi lúc một nhanh. Vương Ngữ Yên đánh bạo khuyên lão: “Đại sư ngồi xuống đây nghỉ một lúc, định thần lại đã.” Cưu Ma Trí vẫn cười ha hả đáp: “Ta… ta định thần được ư? Ta định cái đầu ngươi!” Rồi lão vung trảo ra chụp xuống nàng. Đáy giếng hẹp quá không có chỗ xoay trở, Vương Ngữ Yên thấy sắp bị Cưu Ma Trí chụp xuống vai, kinh sợ la rầm lên.

Đoàn Dự nghiêng người qua để che cho nàng, la gọi: “Muội nấp vào sau lưng ta!” Giữa lúc ấy hai tay Cưu Ma Trí chụp trúng vào cổ họng Đoàn Dự, bóp thật mạnh. Đoàn Dự cảm thấy khó thở, nói không ra tiếng. Vương Ngữ Yên cả kinh, cố kéo tay lão ra. Nhưng Cưu Ma Trí đã nổi cơn điên, dù không vận nội lực được theo ý muốn, nhưng khí lực cũng mạnh phi thường. Vương Ngữ Yên nắm lấy tay lão, chẳng khác nào chuồn chuồn lay cột đá, không chuyển động mảy may. Nàng lại càng kinh hãi, chỉ sợ Cưu Ma Trí bóp chết Đoàn Dự, vội la lên: “Biểu huynh! Biểu huynh! Mau giúp một tay! Lão hòa thượng này muốn bóp chết Đoàn công tử!”

Mộ Dung Phục ngần ngừ nghĩ bụng: “Gã họ Đoàn này nói là giúp mình làm phò mã nước Tây Hạ, chẳng hiểu hắn nói thật hay nói dối. Hắn đã làm mình mất mặt trên núi Thiếu Thất, làm thanh danh nhà Mộ Dung tan nát trên chốn giang hồ. Nay hắn sắp chết đến nơi, mình cứu hắn làm chi? Hơn nữa tên ác tăng này bản lĩnh ghê hồn, ta không địch nổi. Để hai tên đánh nhau cho chết cả đi càng tốt, nếu ta nhúng tay vào vụ này, thì thật là người bất trí.” Y vẫn bấm ngón tay vào kẽ gạch, dán người vào thành giếng, nhất định không nhảy xuống cứu Đoàn Dự. Vương Ngữ Yên kêu khan cả cổ mà Mộ Dung Phục vẫn lờ đi như không nghe tiếng.

Vương Ngữ Yên bèn vung nắm tay đánh tới tấp xuống đầu xuống lưng Cưu Ma Trí. Nhưng lão chỉ cười ha hả, ho rũ rượi, bóp cổ Đoàn Dự lại càng mạnh hơn trước.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.