Sáng hôm sau, Ba Thiên Thạch cùng Chu Đan Thần thức dậy chẳng thấy Đoàn Dự đâu, lại qua phòng Vương Ngữ Yên gọi nhưng chẳng nghe ai trả lời. Ba, Chu thấy cửa phòng khép hờ liền mở ra nhìn, thấy chẳng có một ai thì lo sốt vó. Chu Đan Thần nói: “Tiểu Vương tử cũng y hệt Vương gia, đi đến đâu là vương tình đến đấy. Nhất định y cùng Vương cô nương nửa đêm lẻn đi rồi, mà không biết đi đâu?” Ba Thiên Thạch gật đầu nói: “Tiểu Vương tử là người phong lưu lãng mạn, chỉ thích mỹ nữ, chẳng nghĩ gì đến chuyện quốc gia. Y chung tình với Vương cô nương ai cũng biết rõ, bảo y đi làm phò mã Tây Hạ, chắc y chẳng chịu nghe đâu. Ngày trước, ngay cả hoàng thượng cùng Vương gia bảo y luyện võ, nói thế nào y cũng không chịu. Sau bị bức bách quá, y liền bỏ nhà trốn đi.” Chu Đan Thần nói: “Chúng mình phải chia ra hai ngả mà đuổi tìm, rồi cố khuyên y vậy, chứ còn biết làm thế nào nữa?” Ba Thiên Thạch nắm chặt hai tay, nhăn nhó cười khổ.
Chu Đan Thần lại nói: “Ba huynh! Ngày nọ Vương gia sai tiểu đệ đi tìm tiểu Vương tử. Tìm được y có phải chuyện dễ đâu? Nào ngờ…” Y hạ thấp giọng xuống rồi nói tiếp: “Tiểu Vương tử đang say mê Mộc Uyển Thanh cô nương, hai người đang đêm lẻn đi. May mà vận khí tiểu đệ không tồi, ra chặn ở đầu đường rồi đưa được y về phục mệnh.” Ba Thiên Thạch vỗ đùi đánh đét một cái, nói: “Trời ơi! Thế thì lỗi tại Chu hiền đệ rồi! Hiền đệ đã trải qua một lần, sao lại còn đi vào vết xe đổ? Sao hiền đệ không cho tiểu huynh hay để luân phiên canh chừng?” Chu Đan Thần thở đài đáp: “Tiểu đệ tưởng y phải nể mặt Tiêu đại hiệp cùng Hư Trúc tiên sinh, không dám bỏ đi? Ngờ đâu…” Gã hạ thấp giọng nói tiếp: “Ngờ đâu y say hoa đắm nguyệt, quên tình bằng hữu.” Câu này phê bình người trên thật là phạm thượng, nên gã không dám nói to. Vả lại gã vốn chơi thân với Đoàn Dự, cũng không muốn dị nghị chàng nhiều.
Hai người không biết làm thế nào, đành báo cho Tiêu Phong và Hư Trúc hay. Mọi người chia đi các ngả tìm kiếm ròng rã một ngày, chẳng ai được tin tức gì hết.
Tối hôm ấy mọi người ngồi trong căn phòng trống của Đoàn Dự để bàn bạc. Bỗng có tiếng gõ cửa, một tên chủ sự trong bộ Lễ nước Tây Hạ đến nhà quán dịch. Hắn thông báo với Ba Thiên Thạch rằng, đêm rằm tháng tám, hoàng thượng thiết yến ở Tây Hoa Cung để khoản đãi những tân khách đến cầu hôn, mời Đoàn Vương tử nước Đại Lý tới dự. Ba Thiên Thạch có nỗi khổ mà không nói ra được, đành vâng dạ cho qua.
Tên chủ sự này đã nhận của đút lót của Ba Thiên Thạch nên tỏ vẻ rất thân mật. Lúc cáo từ, Ba Thiên Thạch tiễn ra cửa, y còn ghé tai nói nhỏ: “Ba Tư không! Tại hạ có tin này báo cho Tư không hay. Đêm mai hoàng thượng sẽ đến dự yến, trên bàn tiệc ngài sẽ xem xét tài mạo cử chỉ của quí khách. Sau yến tiệc, không chừng còn có cuộc tỉ đấu, bắn tên thí võ, để quí khách so tài cao thấp. Đây là đầu mối quan trọng để biết vị nào trúng tuyển làm phò mã, sánh duyên cùng công chúa. Vậy Đoàn công tử cần chuẩn bị cẩn thận hơn.” Ba Thiên Thạch chắp tay cảm ơn, rồi lại móc trong tay áo ra một đĩnh vàng nhét vào tay hắn.
Ba Thiên Thạch trở vào nhà tân quán, kể lại cho mọi người nghe rồi nói tiếp: “Trấn Nam Vương dặn cả ngàn lần là phải tìm cách để tiểu Vương tử lấy được công chúa Tây Hạ. Ta cùng Chu đệ mà không tròn phận sự thì chẳng còn mặt mũi nào về gặp Vương gia nữa.”
Trúc Kiếm toét miệng cười nói: “Ba lão gia! Tiểu tì muốn nói một câu, không hiểu có được chăng?” Ba Thiên Thạch nói: “Tỉ tỉ cứ nói đi!” Trúc Kiếm nói: “Phụ vương Đoàn công tử muốn y lấy công chúa nước Tây Hạ, chẳng qua vì mục đích Tây Hạ cùng Đại Lý thành thân gia, nương tựa lẫn nhau phải không?” Ba Thiên Thạch đáp: “Đúng thế!” Trúc Kiếm lại hỏi: “Còn như công chúa nước Tây Hạ đẹp tựa Tây Thi hay xấu như Vô Diệm, Đoàn Vương gia chẳng cần để ý, có đúng thế không?”. Ba Thiên Thạch nói: “Đã là một vị công chúa tôn quí thì nhan sắc dù chẳng chim sa cá lặn, nhất định cũng khả ái dễ nhìn.” Mai Kiếm nói: “Bọn tỉ muội tiểu nữ có ý kiến, chúng ta phải làm sao lấy được công chúa đưa về Đại Lý, còn tìm được Đoàn công tử có kịp hay không thì cũng chẳng ảnh hưởng gì đến đại cuộc.” Lan Kiếm cười nói: “Cứ để y cùng Vương cô nương du sơn ngoạn thủy nửa năm hay hai ba năm, rồi mới trở về Đại Lý động phòng hoa chúc cùng công chúa, tưởng cũng không muộn.”
Ba Thiên Thạch cùng Chu Đan Thần vừa kinh ngạc vừa hoan hỉ, đồng thanh hỏi: “Tiểu Vương tử không có ở đây, thì làm sao cưới được công chúa Tây Hạ về Đại Lý được? Bốn vị cô nương có diệu kế gì, xin nói cho nghe.”
Mai Kiếm đáp: “Vị Mộc cô nương này mà cải dạng nam trang thì thật là một chàng thư sinh mỹ mạo, còn đẹp hơn Đoàn công tử nhiều. Ngày mai, Mộc cô nương phó yến thì dù trên tiệc có hàng trăm hàng ngàn thiếu niên anh hùng cũng chẳng ai hơn được.” Lan Kiếm nói: “Mộc cô nương là muội muội Đoàn công tử, đi cưới tẩu tẩu về thay ca ca, lập công lớn cho quốc gia, làm hài lòng gia phụ. Đây không phải là chuyện vui mừng lắm ư?” Trúc Kiếm nói: “Mộc cô nương từ lúc được chọn làm phò mã, đến lúc bái đường thành thân còn khá nhiều thời gian, không chừng có thể tìm thấy Đoàn công tử.” Cúc Kiếm nói: “Giả tỉ Đoàn công tử chưa có mặt, thì Mộc cô nương thay công tử mà bái đường cũng có sao đâu?”. Nói xong, bốn cô tỉ muội đều bưng miệng cười khúc khích.
Bốn cô này tâm ý tương thông, khẩu âm cũng giống hệt. Bốn người nói tiếp lời nhau, mà nghe chẳng khác gì một người nói.
Ba, Chu ngơ ngác nhìn nhau, đều biết rằng kế hoạch này thật là mạo hiểm. Nếu bị người Tây Hạ khám phá ra, thì thân gia không thành mà lại kết thành oan gia. Giả tỉ hoàng đế Tây Hạ nổi cơn thịnh nộ, hạ lệnh khởi binh, thì vạ lớn không biết đến đâu mà lường.
Mai Kiếm đoán được tâm tư của hai người, liền nói: “Thật ra Đoàn công tử còn có vị nghĩa huynh là Tiêu đại hiệp. Chúng ta cũng không muốn dây dưa đến Tây Hạ làm gì, chỉ vì có lệnh của Trấn Nam Vương mà không thể dừng được. Vạn nhất xảy ra đại biến, Tiêu đại hiệp là Nam Viện Đại Vương nước Đại Liêu, trong tay nắm mấy chục vạn hùng binh, chỉ nói mấy câu tử tế là ngăn cản được Tây Hạ không dám sinh sự với Đại Lý nữa.” Tiêu Phong mỉm cười, khẽ gật gật đầu.
Ba Thiên Thạch là quan Tư không nước Đại Lý, coi sóc nhiều việc lớn trong nước. Y đã nghĩ rằng Tiêu Phong có thể viện trợ rất đắc lực cho Đại Lý, nhưng không tiện nói ra. Lúc này y nghe Mai Kiếm nói vậy, lại thấy Tiêu Phong gật đầu, thì thật là không cầu mà được, quốc gia yên ổn. Y lại nghĩ thầm: “Mưu kế của bốn tiểu cô nương này nghe như trò trẻ, nhưng ngoài kế ấy cũng không còn cách nào khác. Chẳng hiểu Mộc cô nương có chịu mạo hiểm không?” Y liền nói: “Ý kiến của bốn vị cô nương đây thật là diệu kế, nhưng nguy hiểm vô cùng. Vạn nhất mà bại lộ cơ mưu, Mộc cô nương có thể bị bắt. Huống chi, tuấn kiệt thiên hạ kéo về đây tụ tập như mây, kể về mỹ mạo thì Mộc cô nương là số một, nhưng về võ công thì chẳng hiểu có áp đảo quần hùng được chăng?”
Mọi người chú ý nhìn Mộc Uyển Thanh, chờ xem chủ ý nàng thế nào.
Mộc Uyển Thanh nói: “Ba Tư không! Tư không đừng nói khích ta nữa. Ca ca ta… Ca ca ta…” Nàng nội hai câu “Ca ca ta” rồi đột nhiên nước mắt tuôn rơi, thấy Đoàn Dự lẻn đi cùng Vương Ngữ Yên, cũng hệt như năm xưa cùng nàng giữa canh khuya bỏ trốn. Giả tỉ chàng không phải là huynh trưởng thì chắc không thay lòng đổi dạ, nhưng bây giờ chàng cùng kẻ khác thân ái mặn nồng, vui thú chẳng khác thần tiên, còn nàng chịu cô đơn lạnh lẽo ở đây. Thế mà đám thần tử nước Đại Lý lại bảo nàng thay thế chàng mà xuất lực. Bản tính nàng vốn bướng bỉnh, lòng bi phẫn vừa nổi lên là xô đổ cái bàn phía trước, bình tách loảng xoảng rớt xuống đất, rồi nhảy vọt ra khỏi phòng.
Mọi người nhìn nhau ngơ ngác, mất cả hứng thú. Ba Thiên Thạch hối hận nói: “Việc này là lỗi của ta. Giả tỉ ta khéo léo cầu khẩn, thì Mộc cô nương dù không đồng ý cũng bỏ qua. Nhưng ta lại dùng lời nói khích, khiến cô nương phải nổi giận.” Chu Đan Thần lắc đầu nói: “Mộc cô nương nổi giận không phải vì mấy câu nói của Ba huynh đâu, còn có nguyên nhân sâu xa bên trong. Ôi, một lời khó mà nói hết được!”
Sáng sớm hôm sau, mọi người lại chia nhau đi tìm Đoàn Dự. Ngoài đường phố, không biết bao nhiêu thiếu niên công tử phục sức cực kỳ lòe loẹt qua lại lũ lượt. Đại đa số bọn này sẽ vào hoàng cung dự yến. Thỉnh thoảng có tiếng quát mắng ẩu đả om sòm, đó là bọn võ sĩ Thổ Phồn đang tìm cách giúp tiểu Vương tử của chúng loại bớt địch thủ.
Tối đến, mọi người quay về quán dịch. Tiêu Phong nói: “Tam đệ đã bỏ đi thì chúng ta cũng đi thôi. Ai làm phò mã cũng mặc, chẳng liên quan gì đến chúng ta.” Ba Thiên Thạch nói: “Tiêu đại hiệp nói đúng lắm. Chúng ta ngồi đây nhìn người khác làm phò mã lại càng bực bội.”
Chung Linh bỗng hỏi: “Chu tiên sinh! Tiên sinh đã lấy vợ chưa? Đoàn công tử không muốn làm phò mã, sao tiên sinh lại không làm? Tiên sinh lấy được công chúa nước Tây Hạ thì cũng giúp cho Đại Lý được chứ?” Chu Đan Thần cười đáp: “Chung cô nương khéo nói giỡn. Vãn sinh đã có thê tử rồi, có cả con trai lẫn con gái.” Chung Linh lè lưỡi lắc đầu. Chu Đan Thần lại nói tiếp: “Đáng tiếc là khuôn mặt cô nương bầu bĩnh quá, lại má lúm đồng tiền chẳng giống nam nhân chút nào, không thể thay cho ca ca đi lấy công chúa Tây Hạ được.” Chung Linh hỏi: “Thế nào? Thay ca ca ta ư?” Chu Đan Thần biết mình lỡ lời, nghĩ thầm: “Cô này cũng là con tư sinh của Trấn Nam Vương, nhưng việc này chưa thành công khai, mình chẳng nên nói càn.” Gã liền nói chữa: “Tại hạ muốn nói là cô nương không thể giúp cho tiểu Vương gia hoàn thành đại sự.”
Bỗng nhiên ngoài cửa có người lên tiếng: “Ba tiên sinh! Chu tiên sinh! Chúng ta đi thôi chứ!” Rèm cửa vén lên, một chàng thiếu niên tuấn nhã bước vào, chính là Mộc Uyển Thanh đội lốt thư sinh. Mọi người vừa kinh ngạc vừa hoan hỉ, đồng thanh hỏi: “Thế nào? Mộc cô nương chịu đi ư?” Mộc Uyển Thanh đáp: “Tại hạ họ Đoàn tên Dự, là thế tử của Trấn Nam Vương nước Đại Lý. Các vị phải ăn nói cho cẩn thận!” Nàng nói dõng dạc, thanh âm cũng tương tự một chàng thiếu niên. Mọi người thấy nàng bắt chước rất giống, đều cười ha hả.
Thì ra sau khi Mộc Uyển Thanh tức giận chạy về phòng khóc một hồi, nghĩ tới nghĩ lui, thấy mình đắc tội với mọi người, trong lòng rất áy náy, liền giả làm Đoàn Dự để đi lấy công chúa Tây Hạ. Chuyện này cũng làm nàng hứng thú, nghĩ thầm: “Huynh cùng Vương cô nương như chim liền cánh thật là sung sướng. Ta phải đem công chúa Tây Hạ về để quấy rầy chơi, làm huynh phải phiền não mới được.” Nàng nhớ lại xưa kia vào thành Đại Lý, lúc mới gặp song thân Đoàn Dự mình đã bẽn lẽn vô cùng. Rồi đây Đoàn Dự có chính thất là một vị công chúa, lại đủ mai mối nghi lễ, như thế thì Vương Ngữ Yên không thể làm vợ y được. Mình đã không lấy được y, thì cũng không để một cô gái xinh đẹp nào khác trở thành vợ y. Nàng càng nghĩ càng đắc ý, quyết chí mạo xưng là Đoàn Dự.
Ba Thiên Thạch phấn chấn hẳn lên, vội vàng chuẩn bị mọi việc. Gã nhớ tới Đào thị lang ở bộ Lễ đã đến gặp Đoàn Dự tại quán dịch này, bèn chuẩn bị ba trăm lạng vàng, sai Chu Đan Thần đem tặng Đào thị lang. Lễ vật đã biện trước rồi, đây chỉ là số tặng thêm. Ba Thiên Thạch còn dặn dò Chu Đan Thần không cần phải nói nhiều, nếu lát nữa Đào thị lang có phát hiện thấy gì thì cũng sẽ tự hiểu mà im lặng. Ba trăm lạng vàng để trám miệng, đối với Đào thị lang có thể nói im lặng là vàng.
Mộc Uyển Thanh nói: “Tiêu đại ca! Hư Trúc nhị ca! Được hai vị cùng đi phó yến thì tiểu đệ chẳng còn sợ hãi gì nữa. Nếu không thì lúc phải động thủ, làm sao tiểu đệ thắng nổi bọn họ? Trong hoàng cung mà phóng độc tiễn giết người, thì còn ra thể thống gì nữa?”
Lan Kiếm cười nói: ” Phải đó! Nếu Đoàn công tử mà phóng tên độc ra bốn phía, thì trong hoàng cung nước Tây Hạ thây chết ngổn ngang, e rằng công chúa không chịu lấy công tử đâu!” Tiêu Phong cười đáp: “Ta cùng nhị đệ đã chịu lời ủy thác của Đoàn bá phụ, dĩ nhiên là phải tận lực.”
Mọi người thay đổi y phục xong, đi về phía hoàng cung. Tiêu Phong cùng Hư Trúc giả làm tùy tùng trong phủ Trấn Nam Vương nước Đại Lý. Chung Linh và Tứ Kiếm cung Linh Thứu đều muốn cải dạng nam trang để đi coi vụ náo nhiệt này, nhưng Ba Thiên Thạch ngăn cản: “Một mình Mộc cô nương cải trang đã nguy hiểm rồi, nếu cả năm vị cô nương cùng cải trang nữa thì thế nào cũng bại lộ hành tung.” Bọn Chung Linh đành phải thôi.
Đoàn người vừa ra khỏi cửa quán dịch, Ba Thiên Thạch bỗng la lên: “Trời ơi! Suýt nữa thì nguy to! Mộ Dung Phục cũng đến đây tranh ngôi phò mã, mà gã đã biết mặt Đoàn công tử rồi. Bây giờ phải làm thế nào?” Tiêu Phong mỉm cười nói: “Ba huynh bất tất phải lo ngại, Mộ Dung công tử cũng như Đoàn tam đệ, không từ biệt mà bỏ đi. Vừa rồi tại hạ đã ghé thăm, thấy bọn Đặng Bách Xuyên, Bao Bất Đồng cũng đang nóng nảy chẳng khác gì kiến bò trong chảo.” Mọi người cả mừng, cùng nói: “Thật là tuyệt diệu!”
Chu Đan Thần khen ngợi: “Tiêu đại hiệp thật là chu đáo, đã đi do thám bên Mộ Dung công tử!” Tiêu Phong mỉm cười nói: “Nếu mình không tính toán cho kỹ lưỡng, thì e rằng Mộ Dung công tử võ nghệ cao cường, tất là một tay kình địch của Mộc cô nương.” Ba Thiên Thạch cười nói: “Chắc Tiêu đại hiệp tìm đến cốt để khuyên can y tối nay đừng đi phó yến nữa.” Chung Linh tròn mắt, cất tiếng hỏi: “Y đường xa ngàn dặm đến đây chi vì mục đích mụốn làm phò mã Tây Hạ, đại hiệp muốn khuyên can cũng đâu có dễ gì? Tiêu đại hiệp! Chắc là đại hiệp chơi thân với Mộ Dung công tử lắm?” Mộc Uyển Thanh cười nói: “Giao tình giữa Tiêu đại hiệp với y thế nào thì chưa biết, nhưng quyền cước và khẩu tài Tiêu đại hiệp rất giỏi, y không nghe cũng không được.” Chung Linh hiểu ra, cười nói: “Quyền cước đi đôi với lời khuyên, dĩ nhiên người ta dễ nghe hơn.”
***
Mộc Uyển Thanh, Tiêu Phong, Hư Trúc, Ba Thiên Thạch và Chu Đan Thần, năm người vào tới hoàng cung. Ba Thiên Thạch đưa danh thiếp của Đoàn Dự vào. Quan thượng thư bộ Lễ nước Tây Hạ thân hành ra đón, nghênh tiếp vào cung.
Ở điện Trung Hòa đã có hơn trăm thiếu niên đến dự yến, ngồi rải rác khắp nơi. Giữa điện kê một cái bàn phủ khăn gấm thêu rồng vàng, đó là chỗ của quốc vương nước Tây Hạ. Hai dãy bàn hai bên đều trải khăn bằng đoạn tía. Bàn tiệc phía đông có một thiếu niên mày rậm mắt to, thân thể béo tốt, mình mặc trường bào màu đỏ có thêu một con cọp nhe nanh giơ vuốt, trông cực kỳ uy mãnh. Sau y có tám tên võ sĩ đứng hầu. Bọn Ba Thiên Thạch vừa nhìn thấy đã biết ngay đó là Tôn Tán, Vương tử nước Thổ Phồn.
Quan thượng thư bộ Lễ đưa Mộc Uyển Thanh vào ngồi riêng một bàn tiệc ở đầu phía tây, chứ không ngồi chung với người khác. Xem thế thì đủ biết trong bọn thiếu niên đến cầu thân thì Vương tử nước Thổ Phồn và Vương tử nước Đại Lý là hai nhân vật tôn quý hơn hết, được quốc vương nước Tây Hạ đối đãi một cách đặc biệt. Ngoài ra, con cháu các đại thần cùng hào kiệt thứ dân cũng phân ra người nào ngồi chỗ nấy.
Các bàn tiệc đã đông đủ cả rồi, hai vị tướng quân tuyên bố: “Quí khách đến đông đủ rồi, đóng cửa điện lại.” Âm nhạc bắt đầu nổi lên, bốn tên thị vệ cầm kích từ từ đẩy hai cánh cửa điện rất dày vào, đóng chặt lại. Trong hành lang có một đoàn thị vệ mặc giáp vàng tay cầm trường kích, đầu kích đều có đốt đuốc để soi sáng. Tiếp theo tiếng âm nhạc, hai đội thị vệ từ nội đường đi ra, mỗi tên bưng một lư hương bằng bạch ngọc, khói xanh trong lư bốc lên nghi ngút. Mọi người đều biết nhà vua sắp ra, nín thở chờ đợi, không dám lên tiếng.
Sau cùng là bốn tên thị vệ mặc áo cẩm bào, trong tay không cầm gì, chia ra đứng hai bên bàn ngự tọa. Tiêu Phong thấy huyệt thái dương của bốn tên này đều nhô lên, biết đây là những nhân vật võ công cao cường, cận vệ bên cạnh nhà vua. Một tên nội thị dõng dạc tuyên bố: “Vạn tuế gia đến! Nghênh giá!” Mọi người quì cả xuống.
Rồi có tiếng giày nhà vua từ trong đi ra, ngồi vào ghế ngự tọa. Gã nội thị lại hô: “Bình thân!” Mọi người đều đứng lên. Tiêu Phong quay mặt nhìn về phía hoàng đế, thấy thân hình nhà vua không cao lớn lắm, song vẻ mặt cũng có khí thế một nhân vật anh hùng ngoài biên ải.
Quan thượng thư bộ Lễ đứng bên ngự tọa, mở cuốn trục ra lớn tiếng đọc: “Thuận thiên thừa vận, Quảng thánh thần võ Tây Hạ Hoàng đế xuống chỉ: Các khanh nghe lời hiệu triệu, từ xa đến đây, trẫm rất hài lòng, ban cho ngự yến. Khâm thử.” Mọi người quì xuống tạ ơn. Gã nội thị lại hô: “Bình thân!” Mọi người lại đứng lên.
Hoàng đế nâng ly, vẫy tay ra hiệu, rồi rời chỗ ngồi quay về nội đường. Bọn nội thị cũng theo sau, quay vào hết. Ai nấy đều ngạc nhiên, không ngờ hoàng đế chẳng nói câu nào mà cũng không uống một ly rượu, chỉ ra thi lễ tiếp khách rồi trở vào cung ngay. Mọi người đều tự hỏi: “Nhà vua chẳng thèm nhìn ai thì làm sao nhận xét được? Không hiểu sẽ tuyển lựa phò mã theo phương pháp nào?”
Quan thượng thư bộ Lễ lên tiếng: “Xin mời chư vị tự nhiên ăn uống.” Nhà bếp đưa các thức ăn lên. Tây Hạ là một xứ lạnh, ngày thường chỉ lấy thịt bò, thịt cừu làm món ăn chính. Buổi ngự yến này trong hoàng cung cũng rất nhiều thịt bò, thịt cừu.
Mộc Uyển Thanh thấy bọn Tiêu Phong phải đứng hầu một bên, trong lòng áy náy, khẽ nói: “Tiêu đại ca! Hư Trúc nhị ca! Các vị ngồi cả xuống đây uống rượu.” Tiêu Phong cùng Hư Trúc mỉm cười lắc đầu. Mộc Uyển Thanh biết Tiêu Phong thích rượu liền nghĩ ra một cách, vẫy tay nói: “Rót rượu đi!” Tiêu Phong vâng lời, rót rượu vào bát. Mộc Uyển Thanh, nói: “Ngươi nếm thử xem!” Tiêu Phong khoái chí, đưa bát rượu lên miệng, uống một hơi cạn sạch. Mộc Uyển Thanh lại bảo: “Ngươi uống nữa đi!” Tiêu Phong lại uống thêm một bát.
Bên bàn tiệc phía Đông, Vương tử nước Thổ Phồn uống mấy hớp rượu rồi gắp một miếng thịt bò lớn lên ăn. Y gặm hết thịt, rồi liệng cục xương ra, chẳng hiểu vô tình hay hữu ý lại liệng về phía Mộc Uyển Thanh. Kình phong rít lên veo véo, nội lực y cũng không phải tầm thường.
Chu Đan Thần giơ quạt lên phẩy một cái, cục xương bò bay ngược về, nhằm thẳng vào Tôn Tán Vương tử. Một tên võ sĩ Thổ Phồn vươn tay ra chụp lấy, chửi đổng một câu, rồi cầm một chiếc bát lớn liệng lại Chu Đan Thần. Ba Thiên Thạch phóng chưởng ra, chiếc bát còn lơ lửng trên không lập tức vỡ nát thành mấy chục mảnh, những mảnh bát bị chưởng phong hất bắn vào bọn võ sĩ Thổ Phồn. Một tên võ sĩ Thổ Phồn vội lột áo ngoài ra phất một cái, cuốn hết mấy chục mảnh bát vỡ vào trong áo. Thủ pháp gã lanh lẹ phi thường.
Lúc mọi người đến hoàng cung dự yến đều đã biết buổi yến tiệc này chẳng có gì là hứng thú, ăn uống cũng chẳng ngon lành gì. Ai cũng đoán trong yến tiệc sẽ xảy ra xô xát, nhưng không ngờ hai bên chưa nói đã đánh, chưa cãi nhau đã động thủ. Mọi người nhốn nháo cả lên, đĩa bát chạm vào nhau choang choảng.
Đột nhiên có tiếng chuông boong boong nổi lên, hai hàng người từ trong nội đường đi ra, kẻ cao người thấp, chẳng ai giống ai. Có người mặc áo võ sinh, có người mặc áo bào rộng thùng thình, đa số trang bị những thứ khí giới kỳ lạ. Một người mặc áo gấm, trông như đại quan nước Tây Hạ, lớn tiếng quát: “Đây là nội điện trong hoàng cung, các vị không được vô lễ. Nhất Phẩm Đường của tệ quốc không thiếu gì hảo thủ, nếu các vị cao hứng thì từng người một bước ra tỉ thí, còn quần đả loạn đấu thì không được đâu!”
Bọn Tiêu Phong đều biết Nhất Phẩm Đường nước Tây Hạ là nơi chiêu tập anh hùng hảo hán trong thiên hạ, có không ít nhân tài. Hai gã Ba, Chu lập tức ngừng tay, bát đĩa cùng đồ vật do bọn võ sĩ Thổ Phồn liệng tới, bên này chỉ đón lấy rồi để xuống chứ không ném lại. Người mặc áo gấm nhìn Vương tử Thổ Phồn, nghiêm giọng nói: “Xin điện hạ ra lệnh cho thuộc hạ dừng tay.” Tôn Tán Vương tử thấy quần hùng trong Nhất Phẩm Đường phải đến hơn trăm, nếu xảy ra động thủ thì mình lâm vào tình trạng quả bất địch chúng, liền vẫy tay một cái cho bọn thuộc hạ không ném nữa.
Quan thượng thư bộ Lễ nước Tây Hạ nhìn viên quan mặc áo gấm, chắp tay kính cẩn hỏi: “Hách Liên Chinh Đông tướng quân! Không hiểu công chúa có điều chi dặn bảo?”
Vị quan áo gấm đó chính là Tổng quản Nhất Phẩm Đường, tên gọi Hách Liên Thiết Thụ, được phong làm Chinh Đông Đại Tướng Quân. Năm trước y đã dẫn bọn võ sĩ Nhất Phẩm Đường vào Trung Nguyên, rồi bị Mộ Dung Phục cải trang Lý Diên Tông dùng Bi Tô Thanh Phong làm cả bọn phải hôn mê. Hách Liên Thiết Thụ bị quần cái Cái Bang bắt sống, may mà được Đoàn Diên Khánh cứu cho thoát hiểm, thua tả tơi chạy về nước. Lần đó y đã được thấy A Châu giả làm Kiều Phong và Đoàn Dự giả làm Mộ Dung Phục. Bây giờ trên điện có Tiêu Phong thật và Đoàn Dự giả, y vẫn không nhận ra. Bọn Đoàn Diên Khánh, Nam Hải Ngạc Thần cũng là nhân vật của Nhất Phẩm Đường, nhưng họ có tính toán riêng, không để cho triều đình Tây Hạ sai sử, nên không có mặt tại đây.
Hách Liên Thiết Thụ lớn tiếng đáp: “Công chúa có chỉ dụ, mời quý khách sau khi yến ẩm xong thì vào thư phòng ở Thanh Phụng Các dùng trà.”
Mọi người nghe nói đều “ồ” lên một tiếng. Ai cũng đã biết Ngân Xuyên công chúa ở Thanh Phụng Các, dĩ nhiên nàng mời hết thảy mọi người đến đó dùng trà là để tự mình xem xét lựa chọn. Bọn thiếu niên thấy thế, ai cũng phấn khởi tinh thần, cùng nghĩ như nhau: “Giả tỉ mình không trúng tuyển thì cũng được thấy dung nhan công chúa. Người Tây Hạ đồn rằng công chúa của họ thiên kiều bá mị, thiên hạ vô song. Mình đến đây được thấy mặt nàng, thật không uổng một phen lặn lội.”
Vương tử nước Thổ Phồn là người nóng nảy nhất, lập tức đứng dậy nói: “Ngày nào mà chẳng ăn thịt, uống rượu. Bây giờ không cần ăn uống nữa, chúng ta hãy đi xem công chúa đã!” Tám tên võ sĩ tùy tùng lên tiếng dạ ran. Vương tử nước Thổ Phồn nhìn Hách Liên Thiết Thụ nói: “Phiền tướng quân dẫn đường!” Hách Liên Thiết Thụ đáp: “Vâng! Xin mời điện hạ!” Y quay lại chắp tay nói với Mộc Uyển Thanh: “Xin mời Đoàn điện hạ!” Mộc Uyển Thanh giả giọng ồm ồm đáp: “Xin mời tướng quân đi trước!”
Hách Liên Thiết Thụ dẫn cả đoàn người đi xuyên qua một hoa viên rộng lớn, rồi quanh co mấy dãy hành lang đến bên một tòa giả sơn. Mộc Uyển Thanh bỗng thấy có một người đi sát bên mình, nàng liếc mắt nhìn qua, bất giác khẽ la lên một tiếng kinh ngạc. Người này mình mặc cẩm bào, lưng đeo đai ngọc, chính là Đoàn Dự.
Đoàn Dự mỉm cười khẽ nói: “Đoàn điện hạ! Chắc điện hạ kinh hãi lắm thì phải?” Mộc Uyển Thanh hỏi: “Huynh biết cả rồi ư?” Đoàn Dự cười đáp: “Ta có biết gì đâu, nhưng cứ trông thế này cũng đoán được một hai phần. Thật là phiền cho Đoàn điện hạ.”
Mộc Uyển Thanh đảo mắt nhìn hai bên xem có quan viên Tây Hạ nào đi gần không, nhưng chỉ thấy phía sau Đoàn Dự có hai thanh niên công tử. Một chàng chừng ba chục tuổi, cặp lông mày xếch lên, trông có vẻ cực kỳ cao ngạo. Còn một chàng nữa thì dung mạo tuyệt đẹp, Mộc Uyển Thanh chú ý nhìn kỹ thì ra là Vương Ngữ Yên cải trang. Mộc Uyển Thanh tức giận nói: “Đại ca tệ thật, bỏ đi với Vương cô nương mà không nói với ai một tiếng, bắt tiểu muội phải đóng vai này.” Đoàn Dự nói: “Muội khoan hãy nổi nóng. Chuyện này nói ra dài lắm, huynh bị người ta quăng xuống giếng khô, tưởng chừng phải chết đói ở đó.” Mộc Uyển Thanh nghe Đoàn Dự nói vừa gặp tai nạn thì hết giận ngay, vội hỏi: “Huynh có bị thương không? Muội thấy huynh tươi tỉnh lắm mà?”
***
Lúc Đoàn Dự bị Cưu Ma Trí bóp cổ dưới đáy giếng, không sao thở được, chốc lát đã ngất di. Mộ Dung Phục bám vào thành giếng ở trên cao, chỉ mong Cưu Ma Trí bóp cổ Đoàn Dự chết cho xong. Vương Ngữ Yên liều chết đánh đấm Cưu Ma Trí mà chẳng được gì, hắn nhất định không chịu buông tay. Trong lúc nguy cấp, nàng bỗng há miệng cắn vào vai phải Cưu Ma Trí.
Cưu Ma Trí chợt thấy huyệt Khúc Trì đau nhói, nội lực trong người hắn chạy tứ tung rồi tràn ra ngoài. Từ lúc hắn đưa tay ra bóp cổ Đoàn Dự, nội tức lại càng bành trướng, toàn thân như muốn nổ tung. Lúc này nội lực có chỗ tiết ra ngoài, hắn cảm thấy trong mình khoan khoái, bàn tay đang siết chặt cổ họng Đoàn Dự cũng từ từ nới ra.
Cưu Ma Trí là một bậc kỳ tài ít thấy trong võ lâm, nội lực cực kỳ thâm hậu. Lúc hắn vận công, kình lực hoàn toàn ngưng tụ nên dù hắn đã đụng vào người Đoàn Dự mà Bắc Minh Thần Công không hút được nội công của hắn. Đến lúc Vương Ngữ Yên cắn vào huyệt Khúc Trì, hắn giật mình kinh hãi, nội tức không giữ được nữa, cuồn cuộn tiết ra ngoài. Đã có đường thông ra, chân khí không còn bị bế tắc, cứ tuôn ào ào vào người Đoàn Dự không ngớt.
Cưu Ma Trí đang lúc thần trí mê man, nội lực thoát ra ngoài đến một nửa, thần trí mới tỉnh táo lại. Lập tức hắn giật mình kinh hãi, la thầm: “Trời ơi! Nội lực mình cứ bị hút đi cuồn cuộn thế này, thì chỉ trong vòng một gìờ là mình biến thành phế nhân. Bây giờ biết làm thế nào?” Hắn liền hết sức chống cự, nhưng đã muộn mất rồi. Một nửa nội lực Cưu Ma Trí đã trút vào người Đoàn Dự, hai bên mạnh yếu chênh lệch rất nhiều. Hắn không còn cách nào chống đối được, dù cố sức ngưng tụ nhưng cũng không tài nào ngăn trở nội lực thoát đi.
Trong giếng tối om, Vương Ngữ Yên không nhìn thấy tình hình ra sao. Nàng thấy mình chỉ cắn Cưu Ma Trí một miếng mà hắn phải nới tay không bóp chặt cổ họng Đoàn Dự nữa thì cả mừng, nhưng thấy một bàn tay Cưu Ma Trí vẫn áp vào cổ Đoàn Dự chứ không buông hẳn, liền đưa tay nắm lấy, toan kéo rời ra. Ngờ đâu bàn tay Cưu Ma Trí tựa như bị dính chặt vào cổ chàng, nàng kéo thế nào cũng không rút ra được. Vương Ngữ Yên vốn hiểu hết tuyệt kỹ của các phái võ, mà cũng đoán mãi không ra đây là công phu gì của Cưu Ma Trí. Nhưng nàng cho rằng đây không phải là chuyện tốt, mà chỉ là yêu thuật tà pháp, nhất định có hại cho Đoàn Dự, bèn vận hết sức để kéo. Cưu Ma Trí cũng nóng ruột, chỉ mong Vương Ngữ Yên mau mau kéo được bàn tay hắn ra khỏi cổ Đoàn Dự. Ngờ đâu, người Vương Ngữ Yên giật lên một cái, rồi nội lực trong người nàng không ngớt thoát ra ngoài, không có cách nào ngăn chặn được. Thì ra Đoàn Dự đang hôn mê, mà Bắc Minh Thần Công không phân biệt được bạn thù, nó hút hết nội lực Cưu Ma Trí rồi hút luôn cả nội lực của Vương Ngữ Yên nữa. Một lát sau, cả Vương Ngữ Yên lẫn Cưu Ma Trí đều ngất đi.
Mộ Dung Phục chú ý một lúc lâu mà không thấy ba người dưới đáy giếng có động tĩnh gì. Y gọi luôn mấy tiếng cũng chẳng thấy ai đáp, bèn tự hỏi: “Phải chăng cả ba đều chết hết rồi?” Y mừng thầm trong bụng, nhưng lúc nhớ tới mối chân tình của Vương Ngữ Yên giành cho mình thì không khỏi đau lòng một chút. Rồi y chợt nhớ ra một chuyện, bất giác la thầm: “Trời ơi! Miệng giếng đã bị đá tảng bịt kín mất rồi! Ba người kia mà sống, thì cả bốn hợp lực lại may ra còn có cơ thoát nạn. Hiện giờ chỉ còn lại một mình ta thì khó lòng thoát ra được. Chao ôi! Các ngươi muốn chết, sao không chờ thoát khỏi giếng này rồi hãy quyết sống mái?” Y vận sức thử đẩy lên, nhưng trên miệng giếng có tới mười mấy tảng đá, cộng lại có đến vạn cân, thì làm sao mà lay chuyển nổi?
Lúc này, bên ngoài bỗng có tiếng người huyên náo, nghe thanh âm thì dường như là bọn nông dân Tây Hạ. Thì ra bốn người lọt xuống giếng từ lúc nửa đêm, đến bây giờ trời đã sáng tỏ. Nông dân trong làng gánh rau vào thành Linh Châu để bán, đi ngang qua cái giếng này.
Mộ Dung Phục nghĩ thầm: “Nếu mình la hoảng cầu cứu, bọn nông dân này dù đông cũng chưa chắc lay chuyển được khối đá nặng tới mấy nghìn cân. Họ lay không chuyển, chắc lại bỏ đi liền.” Y bèn hô lớn: “Những kim ngân châu báu trong này đều là của ta, các ngươi không thể đỏ mắt lên mà giành giật được. Cùng lắm là chỉ có thể chia cho các ngươi ba ngàn lạng bạc thôi.” Rồi y lại đổi giọng khác nói: “Trong này có rất nhiều vàng bạc châu báu, dĩ nhiên ai có mặt cũng được một phần, ai nhìn thấy cũng được một phần, mỗi người phải được một phần bằng nhau.” Y lại giả vờ than thở: “Đừng để người khác nghe thấy nữa. Giả tỉ ai nghe thấy cũng có phần, thì vàng bạc châu báu tuy nhiều, nhưng chia làm nhiều phần, mỗi người sẽ được ít đi.” Y tự nói tự đáp, dùng nội lực truyền thanh âm ra thật xa.
Bọn nông dân nghe rất rõ ràng, ai nấy vừa kinh ngạc vừa vui mừng, xúm nhau vào ra sức vần khối đá đi. Khối đá tuy nặng, nhưng đông người hợp lực cũng di chuyển được. Mộ Dung Phục không đợi khối đá rời khỏi miệng giếng, vừa thấy một kẽ hở đủ lọt người, đã lập tức lách mình qua, bay ra khỏi giếng nghe vèo một tiếng.
Bọn nông dân đều giật mình kinh hãi, trố mắt mà nhìn hắn lách ra rồi chạy biến, nhoáng một cái đã mất hút. Đám dân quê này cứ ngỡ là quỷ thần gì đó, tuy trong lòng sợ hãi nhưng nghĩ đến tiền tài lại nổi lòng tham. Họ tiếp tục vần hết mười mấy khối đá lớn sang một bên, rồi dùng dây thừng thả một hán tử gan dạ nhất xuống đáy giếng.
Gã này vừa xuống tới nơi, thò tay ra mò thì lập tức đụng phải Cưu Ma Trí. Trong lòng gã vốn đã hồi hộp sẵn, vừa sờ thấy người đã tưởng ngay là thây ma. Gã sợ hết hồn, vội giật dây cho người trên miệng giếng kéo lên. Mọi người bàn tính một lúc, rồi đốt một cành thông, lại xuống soi thử. Xuống tới nơi thì thấy ba người nằm trong bùn lầy không nhúc nhích, gã lại tưởng là mấy thây ma chết đã lâu, mà chẳng thấy vàng bạc châu báu chi hết. Bọn dân quê thấy mạng người là chuyện lớn, nếu để động tới tai quan phủ thì không chừng lại bị khép vào tội cướp của giết người, ai nấy đều sợ vỡ mật bỏ chạy. Chẳng bao lâu, bọn dân quê ngu dốt này đã đồn đại thành tin tức hấp dẫn, cứ đêm trăng sáng là bên giếng lại có bốn con quỉ bùn lầy lem luốc hiện lên, ai nhìn thấy là phải lâm trọng bệnh, nhức đầu sốt rét. Từ đó về sau, cái giếng này biến thành nơi linh thiêng, lập miếu hương khói hàng năm không dứt.
Đến khoảng giờ Ngọ thì ba người mới dần dân tỉnh lại. Người tỉnh đầu tiên là Vương Ngữ Yên, vì công lực nàng kém cỏi nên bị mất chẳng bao nhiêu, chẳng bị tổn thương gì mấy. Nàng vừa tỉnh đã nhớ tới ngay Đoàn Dự. Lúc đó đã là ban ngày, nhưng đáy giếng tối mò không nhìn rõ gì hết, nàng đưa tay ra sờ, đụng phải Đoàn Dự liền cất tiếng gọi: “Đoàn lang! Đoàn lang! Huynh làm sao rồi?” Nàng không thấy Đoàn Dự trả lời, nghĩ là chàng bị Cưu Ma Trí bóp chết rồi, liền gục xuống, ôm lấy thi thể mà vừa khóc vừa kêu: “Đoàn lang! Đoàn lang!… Huynh đối với muội tình thâm nghĩa trọng, mà muội chưa có một câu nào tử tế, một lúc nào niềm nở với huynh. Muội những mong sau này thân cát đằng được nương nhờ tùng bách, đồng thời báo đáp ân tình Đoàn lang trong muôn một. Ngờ đâu… huynh lại chết dưới tay ác tăng rồi.”
Bỗng nhiên Cưu Ma Trí lên tiếng: “Cô nương chỉ nói đúng có một nửa. Ta đúng là ác tăng, nhưng Đoàn công tử không chết vì tay ta.”
Vương Ngữ Yên cả kinh hỏi lại: “Chẳng lẽ… biểu huynh đã hạ độc thủ ư? Sao y lại ác độc đến thế?” Lúc ấy Đoàn Dự cũng đã tỉnh lại, nghe Vương Ngữ Yên thổ lộ tâm tình thì vui sướng đến phát điên. Chàng cảm thấy nàng đang ôm mình vào lòng, nên không dám nhúc nhích, sợ nàng phát giác rồi đẩy mình ra mất.
Bỗng Cưu Ma Trí lại nói tiếp: “Chẳng những Đoàn lang của cô nương không mất mạng về tay ác tăng, mà ác tăng lại suýt bị uổng mạng về tay Đoàn công tử.” Vương Ngữ Yên sa lệ nói: “Lúc này mà lão còn nói giỡn được ư? Lão không biết ta đau lòng đến thế nào ư? Sao lão không bóp cổ ta chết nốt đi, để ta được theo Đoàn lang xuống cửu tuyền.” Đoàn Dự nằm nghe nàng nói những câu thắm thiết, thì trong lòng sung sướng vô cùng.
Cưu Ma Trí tuy mất hết nội lực, nhưng tâm thần đã tỉnh táo, kiến thức vẫn siêu phàm như cũ. Hắn nghe rõ Đoàn Dự cố nín thở thì biết ngay dụng ý của chàng, liền thở dài nói: “Đoàn công tử! Ta tham lam học cả bảy mươi hai tuyệt kỹ phái Thiếu Lâm, suýt nguy hiểm đến tính mạng. Nếu không được công tử hút mất nội lực thì ta phải phát điên mà chết. Bây giờ tuy ta mất võ công, nhưng còn tính mạng, vậy ta phải tạ ơn công tử đã cứu sống cho.”
Đoàn Dự vốn là người khiêm nhường, nghe Cưu Ma Trí tạ ơn thì không nhịn được nữa, mở miệng nói: “Đại sư bất tất phải quá lời. Tại hạ có tài đức gì mà dám nhận là cứu được tính mạng đại sư?”
Vương Ngữ Yên nghe Đoàn Dự lên tiếng thì vui mừng khôn xiết, nhưng nàng hiểu ra là chàng cố ý không nhúc nhích để được mình ôm lấy, bất giác hổ thẹn vô cùng, thốt lên: “Cái anh này!”. Đoàn Dự cũng thẹn đỏ mặt lên, vội vàng xoay người nhích ra một bên, ngồi tựa vào thành giếng.
Cưu Ma Trí than rằng: “Lão nạp tuy ở Phật môn mà lòng hiếu thắng tranh đua còn hơn cả người thường. Cái quả ngày nay là do cái nhân ba mươi năm trước mà ra. Hỡi ôi! Tam độc Tham Sân Si lão nạp đều không tránh khỏi, tự coi mình là một vị cao tăng mà lại công cao ngã mạn, nghĩ lại xấu hổ vô cùng. Ôi thôi, sau khi chết đi thì thân này phải vào địa ngục vô gián, chắc chắn vạn kiếp không được siêu sinh.”
Đoàn Dự trong lòng hoang mang, không hiểu Vương Ngữ Yên có giận mình không. Chàng nghe Cưu Ma Trí nói mấy câu chán đời thì bỗng nổi lòng thông cảm, liền hỏi: “Sao đại sư lại thốt ra những lời chán nản như vậy? Lúc nãy trong người đại sư khó chịu lắm phải không? Hiện giờ đã đỡ chưa?”
Cưu Ma Trí yên lặng không đáp, ngấm ngầm vận khí thì quả nhiên công trình tu luyện mấy chục năm đã mất sạch trong một sớm một chiều. Lão vốn là người đại trí đại tuệ, hiểu biết rất uyên thâm về Phật học, chỉ vì tham luyện võ công mà lòng hiếu thắng trở nên cực thịnh, lòng hướng Phật sinh ra hờ hững. Lúc này ngồi trong đống bùn lầy, lão chợt tỉnh ngộ, nghĩ thầm: “Như Lai dạy dỗ Phật tử, muốn có hy vọng giải thoát thì đầu tiên phải trừ tham, trừ ái, trừ thủ, trừ triền. Thế mà mình chẳng trừ khử được gì, lại còn bị danh lợi buộc chặt vào thân. Hôm nay, võ công mình mất hết, biết đâu đó chẳng phải là Đức Thế Tôn chỉ điểm cho mình cải tà quy chính, để được giải thoát thanh tịnh?” Hắn tự nghĩ lại những hành động trong mấy chục năm nay, mồ hôi trán toát ra đầm đìa, vừa xấu hổ lại vừa đau lòng.
Đoàn Dự thấy Cưu Ma Trí không đáp, liền hỏi Vương Ngữ Yên: “Mộ Dung công tử đâu rồi?” Ngữ Yên “Ồ” lên một tiếng, rồi đáp: “Biểu huynh đâu rồi nhỉ? Trời ơi, muội quên mất!” Đoàn Dự nghe nàng nói câu: “muội quên mất” mà tưởng như đang nghe tiên nhạc, mừng rỡ vô cùng. Trước nay nàng vốn để hết tâm trí vào Mộ Dung công tử, mà hiện giờ nàng đã không nghĩ tới y hàng nửa ngày trời. Như vậy đủ chứng tỏ mình đã thật sự thay thế được con người Mộ Dung Phục ngày trước trong trái tim nàng.
Cưu Ma Trí lại lên tiếng: “Trước kia lão nạp gây tội rất nhiều, hôm nay xin tạ lỗi.” Nói xong lão chắp tay, nghiêng mình thi lễ. Đoàn Dự vội vàng trả lễ rồi nói: “Nếu vãn bối không được đại sư đưa đến Trung Nguyên, thì làm sao gặp được Vương cô nương? Vãn bối đối với đại sư thật cảm kích vô cùng.” Cưu Ma Trí đáp: “Đó là phúc báo của chính công tử, chuyện lỗi của lão nạp chỉ là trợ duyên mà thôi. Công tử là người nhân hậu, sau này tất được hưởng phúc trạch vô cùng. Bây giờ lão nạp xin cáo biệt, từ đây về sau nghìn trùng xa cách, e rằng khó có ngày tái hội. Quyển kinh này xin gửi lại, sau này có dịp thì nhờ công tử trao trả chùa Thiếu Lâm giúp lão nạp. Kính chúc hai vị nâng án ngang mày, trăm năm đầu bạc.” Cưu Ma Trí nói xong, đưa cuốn Dịch Cân Kinh cho Đoàn Dự.
Đoàn Dự hỏi: “Bây giờ đại sư có quay về Thổ Phồn không?” Cưu Ma Trí đáp: “Lão nạp muốn quay về nơi mà mình đã ra đi, không nhất thiết là Thổ Phồn.” Đoàn Dự hỏi: “Vương tử quý quốc đang đến Tây Hạ cầu thân với công chúa, đại sư không đợi kết quả việc này mà đã đi ư?”
Cưu Ma Trí mỉm cười nói: “Thế ngoại nhàn nhân, sao còn mang những chuyện tục lụy trong lòng? Từ nay lão nạp tấm thân vô định, tùy ngộ nhi an. Nơi mà tâm an lạc, cũng là nơi mà thân an lạc.” Lão nói xong, cầm đầu dây của bọn nông dân để lại, rút thử thì biết là đầu trên đã buộc vào một khối đá lớn. Lão liền từ từ bám vào dây trèo lên.
Phen này Cưu Ma Trí đại giác đại ngộ, về sau trở thành một bậc cao tăng nhất đời. Từ đó, lão đem kinh Phật ở Thiên Trúc dịch sang Tạng văn, hoằng dương Phật pháp, phổ độ vô số chúng sinh. Sau này Phật pháp Thiên Trúc suy tàn, tam tạng kinh lục luận mất mát hầu hết, nhưng ở Tây Tạng còn giữ lại rất nhiều, trong chuyện này thì Cưu Ma Trí thực sự có công.
Đoàn Dự cùng Vương Ngữ Yên ngồi đối diện nhau không nói một lời, nghe rõ từng hơi thở, tuy thân ở chốn bùn lầy mà lòng cực kỳ hoan lạc, chẳng muốn ra khỏi cái giếng khô này nữa. Hai người từ từ đưa tay ra nắm lấy tay nhau, bốn bàn tay siết chặt, hai quả tim hòa nhịp.
Hồi lâu, Vương Ngữ Yên mới lên tiếng: “Đoàn lang! Chỉ sợ huynh bị thương ở cổ, chúng ta phải lên trên xem thử.” Đoàn Dự đáp: “Ta chẳng thấy đau đớn chút nào hết, cần gì phải lên vội?” Vương Ngữ Yên dịu dàng nói: “Huynh đã không muốn lên, thì muội cũng ở lại đây bầu bạn với huynh.” Thanh âm nàng cực kỳ nhu thuận, không phản đối chút nào.
Đoàn Dự lại chiều ý nàng, cười nói: “Nhưng để muội ngồi mãi trong bùn lầy thế này, há chẳng tội nghiệp ư?” Rồi tay trái chàng ôm lấy tấm lưng thon của Vương Ngữ Yên, tay phải nắm vào sợi dây. Khí lực chàng cương mãnh vô cùng, chỉ khẽ kéo một cái là người đã lên cao mấy thước. Đoàn Dự rất ngạc nhiên, không tự biết là mình đã hút toàn bộ công lực của Cưu Ma Trí, hơn nữa trong lòng khoan khoái, tinh thần phấn khởi thì khí lực lại càng gia tăng.
Hai người ra khỏi giếng, nhìn thấy ánh dương quang chiếu vào mặt đối phương trông rất lem luốc, tự hiểu là mặt mình cũng vậy thì không khỏi bật cười. Cả hai tìm đến một khe suối nhỏ, để cả quần áo lội xuống tắm rửa, đồng thời giũ bớt bùn sình. Vương Ngữ Yên đã mất nội lực, cũng may mà đang tiết Trung Thu, trời chưa lạnh lắm, nên nàng dầm mình xuống nước suối mà vẫn chịu đựng được. Hai người từ dưới suối bước lên ướt như chuột lột, lại nhớ đến đêm trước Đoàn Dự rớt xuồng hồ. Tình trạng thì tương tự, nhưng tâm tình lại khác hẳn, tưởng chừng như đã chuyển sang một kiếp khác.
Vương Ngữ Yên nói: “Chúng ta ướt sũng thế này mà để cho người ngoài trông thấy thì thẹn chết đi được.” Đoàn Dự nói: “Chi bằng ở đây phơi nắng cho khô, đến tối hãy về.” Vương Ngữ Yên gật đầu đồng ý, rồi ngồi lên một tảng đá.
Đoàn Dự ngắm nghía nàng, thấy người đẹp như ngọc, tóc xanh như mây, thì trong lòng vui sướng khôn tả. Vương Ngữ Yên thấy tình lang đứng nhìn qua nhìn lại thì mặt thẹn đỏ bừng. Hai người mải mê nói không hết chuyện, thời gian qua nhanh như chớp, chốc lát đã thấy mặt trời khuất sau núi. Y phục, giày vớ đều đã khô hẳn.
Đoàn Dự đang lúc vui sướng, lại chợt nhớ tới Mộ Dung Phục liền nói: “Yên muội! Hôm nay tâm nguyện ta thành tựu hoàn toàn, tưởng thần tiên cũng không bằng. Nhưng chẳng hiểu biểu huynh của muội đến cầu hôn công chúa Tây Hạ có thuận lợi hay không.”
Trước kia mỗi khi Vương Ngữ Yên nghĩ đến chuyện này lại thấy thương tâm. Bây giờ nàng đã biến đổi tâm tình, đối với Mộ Dung Phục không khỏi có đôi chút tự trách, nên rất mong cho y lấy được công chúa Tây Hạ. Nàng liền nói: “Phải đấy! Chúng mình qua đó để xem vụ này ra sao.”
Hai người vội vã đi về quán dịch, vừa tới cổng bỗng nghe trong bóng tối có tiếng người nói: “Các ngươi cũng đến đây ư?” Chính là thanh âm Mộ Dung Phục. Đoàn Dự cùng Vương Ngữ Yên mừng rỡ đáp: “Đúng thế! Té ra huynh cũng đến đây!”
Mộ Dung Phục hắng giọng một tiếng, rồi nói: “Ta vừa phải đánh nhau với bọn võ sĩ Thổ Phồn, hạ sát hơn mười đứa, mất khá nhiều thời giờ. Họ Đoàn kia, sao ngươi không đến hoàng cung phó yến mà lại để cô nương kia giả làm ngươi đi thay? Ta ta không thể nào để cho ngươi giở trò trí trá, nhất định phải tới tố giác mới được.”
Y từ trong giếng chạy ra sau khi tắm rửa, giặt quần áo, nằm ngủ một giấc, lúc tỉnh dậy gặp ngay bọn võ sĩ Thổ Phồn, hai bên đánh nhau một trận, tuy đắc thắng nhưng cũng phí mất bao nhiêu hơi sức, chạy về tân quán thì đã thấy bọn Mộc Uyển Thanh, Tiêu Phong, Ba Thiên Thạch một đoàn đi ra. Y nép vào góc tường quan sát động tĩnh, đang định đi tìm bọn Đặng Bách Xuyên thương nghị kế sách đã thấy Đoàn Dự và Vương Ngữ Yên hai người sóng đôi đi vào.
Đoàn Dự ngạc nhiên hỏi lại: “Sao lại có cô nương nào giả mạo làm tiểu đệ? Thật đệ không hề hay biết chuyện gì.” Vương Ngữ Yên cũng nói: “Biểu ca, bọn tiểu muội vừa mới chui trong giếng ra…” Nàng chợt nghĩ ra những lời của mình không hoàn toàn đúng sự thật, mình và Đoàn Dự đã ngồi bên khe suối hủ hỉ với nhau cả nửa ngày, đâu có thể nói là vừa ở giếng chui ra, không khỏi sượng sùng.
Cũng may trời đang sâm sẩm tối nên Mộ Dung Phục không nhìn thấy vẻ mặt nàng bẽn lẽn, y chỉ mong mau tới hoàng cung chứ chẳng để ý rằng quần áo hai người không còn chút bùn đất nào nữa, không thể nào vừa mới trong giếng chui ra. Lại nghe Vương Ngữ Yên nói tiếp: “Biểu ca, y… y… Đoàn công tử cùng muội, quả đối với huynh không phải chút nào, chỉ mong biểu ca lấy được công chúa Tây Hạ làm vợ.”
Mộ Dung Phục tinh thần phấn chấn, vui mừng hỏi lại: “Ngươi nói thật chứ? Đoàn huynh quả thực không tranh ngôi phò mã với ta nữa ư?” Trong lòng hắn nghĩ thầm: “Không chừng tên đồ gàn này vừa làm việc càn rỡ, không dám ngó tới công chúa Tây Hạ nữa, nhất tâm nhất ý cưới biểu muội của ta. Trên thế gian lại có những đứa hồ đồ như thế, thật đáng buồn cười. Y có Tiêu Phong, Hư Trúc tương trợ, nếu không tranh giành với ta, thì mình đỡ được một đối thủ lợi hại.”
Đoàn Dự nói: “Ta quyết không tranh giành công chúa Tây Hạ với huynh nữa, nhưng huynh cũng không thể giành Yên muội của ta. Đại trượng phu nhất ngôn ký xuất, quyết không nuốt lời.” Chàng vừa gặp Mộ Dung Phục, bỗng dưng lại phát sinh cảm giác lo lắng.
Mộ Dung Phục cả mừng nói: “Chúng ta phải tới hoàng cung ngay mới được. Huynh phải kêu vị cô nương đó đừng mạo xưng huynh giành ngôi phò mã nữa.” Rồi y lại kể chuyện Mộc Uyển Thanh cải dạng nam trang. Lúc này Đoàn Dự mới đoán ra vì mình mất tích, bọn Ba Thiên Thạch, Chu Đan Thần lại đã nhận lệnh của Trấn Nam Vương, đành phải nhờ Mộc Uyển Thanh cải trang để thay huynh trưởng đi cầu thân. Sau đó ba người về đến chỗ ở của Mộ Dung Phục.
Bọn Đặng Bách Xuyên đang hoang mang lo lắng, thấy công tử trở về thì mừng rỡ không nói hết, ai nấy đều hấp tấp thay đổi y phục. Đoàn Dự không muốn xa rời Vương Ngữ Yên, nên không muốn vào hoàng cung nữa. Mộ Dung Phục đành bảo Vương Ngữ Yên mặc giả nam trang, cùng đi vào cung.
Lúc ba người cùng bọn Đặng Bách Xuyên, Công Dã Càn, Bao Bất Đồng, Phong Ba Ác đến hoàng cung thì cửa cung đã đóng rồi. Mộ Dung Phục nhất định không bỏ cuộc, liền đi vòng phía ngoài tường, tìm chỗ vắng vẻ nhảy vào. Phong Ba Ác nhảy lên đầu tường, đưa tay ra định đón lấy Đoàn Dự. Đoàn Dự tay trái ôm lấy Vương Ngữ Yên, nhảy vọt lên, đưa tay phải ra định nắm lấy tay Phong Ba Ác. Không ngờ hai người bay cao hơn đầu gã đến ba bốn thước, rồi hạ xuống nhẹ nhàng như một chiếc lá rơi, không một tiếng động. Mộ Dung Phục đã nhảy vào trong tường, trên mặt tường là Phong Ba Ác, ngoài tường còn Đặng Bách Xuyên và Công Dã Càn, cả bọn nhìn thân pháp của Đoàn Dự đều khẽ la lên: “Khinh công tuyệt diệu!” Chỉ có Bao Bất Đồng nói: “Ta thấy cũng bình thường thôi!”
Bảy người lẻn vào Ngự hoa viên, cố tìm nơi thiết yến để kiếm cách trà trộn vào. Ngờ đâu, ngự yến chỉ trong khoảnh khắc đã kết thúc, những thiếu niên đến cầu hôn đều đã được Ngân Xuyên công chúa mời vào Thanh Phụng Các uống trà. Ba người Đoàn Dự, Mộ Dung Phục, Vương Ngữ Yên đang ở trong vườn hoa thì gặp Mộc Uyển Thanh.
Bọn Tiêu Phong, Ba Thiên Thạch thấy Đoàn Dự đột ngột xuất hiện thì vừa kinh ngạc vừa hoan hỉ. Mọi người thương nghị, cho rằng hôm nay rất đông người, vị tất nước Tây Hạ đã nhìn rõ chân tướng, cứ trà trộn vào Thanh Phụng Các rồi sẽ liệu. Bây giờ chính Đoàn Dự đã đến đây, lại càng không sợ tiết lộ cơ mưu.
***
Đoàn người tiến vào ngự hoa viên, nhìn thấy ở xa xa có một tòa lầu giữa đám cỏ hoa rậm rạp, bên lầu có treo hai ngọn đèn lồng rất trang nhã. Hách Liên Thiết Thụ dẫn mọi người đến cửa lầu, dõng dạc lên tiếng: “Quí khách bốn phương đến yết kiến công chúa.”
Cửa lầu hé mở, bốn cung nữ đi ra, mỗi cô xách một chiếc đèn lồng. Sau cùng là một vị nữ quan mặc áo tím, lên tiếng: “Các vị từ xa đến đây thật là muôn vàn gian khó. Công chúa mời các vị vào Thanh Phụng Các dùng trà.”
Tôn Tán Vương tử đáp: “Hay lắm! Hay lắm! Ta đang khát đến khô cổ đây. Để được yết kiến công chúa, thì dù có đi xa đến đâu cùng chẳng đáng quan tâm, có gì là gian khó? Ha ha!…” Hắn vừa cười lớn vừa ngang nhiên lấn qua mặt mấy cung nữ mà đi vào. Mọi người cũng tranh nhau kéo ùa vào để giành chỗ tốt, càng gần công chúa càng hay.
Bên trong là một đại sảnh rất lớn, dưới thềm trải thảm lông cừu rất dày, mặt thảm thêu hoa ngũ sắc trông rất rực rỡ. Những bàn trà được bày thành hàng tề chỉnh, trên bàn có những hộp đậy nắp, bên cạnh hộp đều đặt đĩa hoa xanh đựng kẹo mứt cùng các thứ điểm tâm. Ngoài ra có một chiếc bàn tròn phủ khăn gấm. Mọi người đều nghĩ rằng đó là chỗ ngồi của công chúa, liền tranh nhau đến ngồi gần đó. Đoàn Dự cùng Vương Ngữ Yên dắt tay nhau ngồi vào một chiếc bàn nhỏ ở góc sảnh đường, thì thầm với nhau, ánh mắt cả hai rạng rỡ tươi cười, chẳng hiểu đang nói những gì.
Mọi người an tọa xong, vị nữ quan cầm chiếc dùi đồng nhỏ xíu, gõ vào một tấm bạch ngọc “keng keng” ba tiếng. Trong sảnh đường yên lặng hẳn lại, cả Đoàn Dự cùng Vương Ngữ Yên cũng không nói nữa, lặng lẽ chờ công chúa đi ra.
Lát sau nghe tiếng ngọc bội khua nhẹ, tám cung nữ mặc áo lục từ nội đường đi ra, đứng thành hai dãy. Rồi một thiếu nữ mặc áo xanh nhạt thoăn thoắt bước ra. Mọi người mắt sáng rực lên chăm chú nhìn thiếu nữ, thấy nàng thân hình mảnh dẻ, cử chỉ nhàn nhã, dung nhan cực kỳ xinh đẹp. Ai cũng khen thầm: “Người ta đồn Ngân Xuyên công chúa nhan sắc vô song, quả nhiên danh bất hư truyền.”
Mộ Dung Phục tự an ủi: “Ban đầu mình tưởng Ngân Xuyên công chúa dung mạo tầm thường. Nhưng bây giờ mới thấy, tuy nàng còn kém biểu muội một chút, nhưng cũng vào hạng mỹ nhân chọn trong muôn người chưa được một. Thì ra mối lo của mình đã quá thừa. Dung mạo nàng thật là đoan chính, về sau có thể trở thành một bậc mẫu nghi thiên hạ, cùng ta sinh ra con cháu, đời đời nối nhau làm chúa tể Đại Yên.”
Thiếu nữ từ từ bước tới trước cẩm đôn, khẽ khom lưng thi lễ, thái độ nghiêm trang, thủy chung vẫn không chăm chú nhìn ai, rõ ràng là một vị khuê nữ cao sang lễ nghĩa. Mọi người dù thô lỗ đến đâu cũng không dám lên tiếng, chỉ sợ làm kinh động công chúa.
Hồi lâu thiếu nữ mặt đỏ lên, cất tiếng nhỏ nhẹ nói rằng: “Công chúa có huấn dụ: Thanh Phụng Các lấy làm xấu hổ vì không có danh trà để đãi quí khách phương xa. Xin mời chư vị tùy tiện dùng trà!” Mọi người nghe nàng nói đều ngơ ngác nhìn nhau, không nhịn được phải la thầm: “Trời ơi! Té ra đây không phải là công chúa mà chỉ là một cung nữ hầu cận.” Nhưng rồi họ lại nghĩ: “Cung nữ đã như thế này thì không hiểu công chúa còn mỹ lệ đến đâu.”
Tôn Tán Vương tử lên tiếng: “Thì ra cô không phải là công chúa, vậy mau mau mời công chúa ra đây! Đến thịt béo rượu ngon ta còn chẳng thiết, chứ đừng nói là nước trà.” Cung nữ đáp: “Chờ các vị dùng trà xong, công chúa sẽ có chỉ thị.” Tôn Tán cười nói: “Hay lắm! Hay lắm! Công chúa đã có lệnh, ta phải kính cẩn tuân theo.” Gã nói xong bèn mở nắp bình trà ra, dốc cả nước trà cùng bã trà vào miệng, rồi vừa nuốt nước ừng ực, vừa nhai bã trà nghe tóp tép. Đây là phong tục ngày xưa, người Thổ Phồn uống trà rồi nhai nuốt cả lá trà, chứ không phải Tôn Tán Vương tử vô lễ hay thô tục. Tôn Tán chưa nuốt hết lá trà, đã cầm đĩa bánh điểm tâm trút cả vào miệng nhai nhồm nhoàm, rồi nói: “Ta đã tuân lệnh mà ăn uống xong rồi. Cô vào mời công chúa ra.”
Ả cung nữ “Vâng” một tiếng, nhưng vẫn không vào, chờ cho mọi người ăn uống xong xuôi rồi mới đi thông báo. Tôn Tán nóng nảy không nhẫn nại được, giục luôn miệng: “Ăn uống lẹ lên! Làm gì mà lâu thế?” Lát sau, số đông đã uống trà và ăn điểm tâm xong. Tôn Tán Vương tử lại giục: “Bây giờ cô vào mời được rồi đó.”
Ả cung nữ nét mặt ửng hồng, dường như cực kỳ bẽn lẽn, rồi nói: “Công chúa mời các vị quí khách vào thư phòng để thưởng ngoạn tranh vẽ cùng bút thiếp.” Tôn Tán cười ha hả nói: “Tranh vẽ với bút thiếp thì có gì hay ho mà xem?” Gã nói thì nói vậy, nhưng cũng đứng lên.
Mộ Dung Phục mừng thầm tự nhủ: “Thế thì càng hay! Công chúa mời khách vào thư phòng, tuy nói là để thưởng ngoạn họa đồ cùng bút thiếp, mà thực ra chắc là để thử văn tài. Gã Vương tử Tôn Tán này vừa vũ phu vừa quê mùa, làm sao hiểu được thì ca từ phú cùng tranh vẽ bút thiếp. Không chừng gã chỉ nói ba câu là đã bị công chúa tống cổ ra khỏi thư phòng. Y lại nghĩ thầm: “Giả tỉ công chúa chỉ bắt tỉ thí võ công thì ta đây cũng có thể áp đảo quần hùng rồi. Nàng lại muốn thử văn tài thì nhất định mình chiếm thượng phong, không trật vào đâu được nữa.” Y bèn phấn khởi đứng lên.
Ả cung nữ lại nói: “Công chúa có chỉ dụ: Các vị nữ nhân vận nam trang cùng các vị tiên sinh đã ngoại tứ tuần, xin ở lại đây nghỉ ngơi xơi nước. Còn các vị quí khách khác thì mời vào thư phòng.” Mộc Uyển Thanh cùng Vương Ngữ Yên đều ầm thầm kinh hãi: “Té ra họ đã sớm biết mình là nữ nhân vận nam trang rồi.”
Bỗng có người lớn tiếng nói: “Sai bét, sai bét!” Ả cung nữ lại đỏ mặt lên. Ả từ nhỏ đã vào cung, chỉ nhìn thấy bọn thái giám bán nam bán nữ, chưa gặp nam nhân thật sự nào, ngay cả hoàng đế cùng Thái tử ả cũng chưa nhìn thấy bao giờ. Hôm nay đột nhiên thấy rất nhiều nam nhân, ả không khỏi hoang mang, bẽn lẽn vô cùng, hồi lâu mới lên tiếng hỏi: “Không hiểu vị tiên sinh này có cao kiến gì?”
Bao Bất Đồng đáp: “Cao kiến thì không đâu, chỉ có đê kiến thôi.” Cái kiểu ăn nói ba trợn như Bao Bất Đồng, ả cung nữ chưa từng nghe qua, nên không biết đối đáp thế nào cho phải. Bao Bất Đồng lại nói: “Chắc cô định hỏi ta: “Không hiểu vị tiên sinh này có điều chi đê kiến?” Nhưng ta thấy cô e lệ, nên nói trước để miễn cho cô khỏi phải hỏi.” Ả cung nữ mỉm cười đáp: “Đa tạ tiên sinh!”
Bao Bất Đồng nói: “Bọn ta đường sá xa xôi vạn dặm đến đây để gặp công chúa, dọc đường đã bị trăm cay nghìn đắng. Có người phơi thây ngoài sa mạc vì không chịu nổi phong sương, có kẻ mất mạng trong vuốt beo miệng cọp, mười phần đi thì đến Linh Châu chỉ còn được một hai phần. Ai nấy cũng chỉ có mục đích duy nhất là được chiêm ngưỡng dung nhan công chúa. Tiếc rằng gia nương sinh tại hạ ra sớm mất mấy năm nên tuổi đã ngoại tứ tuần, nếu không đạt được mục đích thì thật uổng công một phen lặn lội gian nan. Giả tỉ tại hạ biết công chúa có chỉ dụ này, thì nhất quyết ra đời muộn mấy năm.”
Ả cung nữ không nhịn được, phải nhoẻn miệng cười rồi nói: “Tiên sinh nói giỡn rồi! Con người ta sinh ra sớm hay muộn, đâu có phải tự ý mình mà được.”
Tôn Tán thấy Bao Bất Đồng ăn nói lăng nhăng, thì quắc mắt lên nhìn gã, quát hỏi: “Công chúa đã có huấn dụ, ai nấy đều phải tuân theo. Sao ngươi còn sủa mãi?” Bao Bất Đồng cả giận đã muốn nổi đóa. Nhưng đột nhiên gã nghĩ ra một kế, thản nhiên nói: “Vương tử! Tại hạ nói vậy cũng có lợi cho Vương tử. Năm nay Vương tử đã bốn mươi mốt tuổi, tuy chưa phải là già lão gì, nhưng cũng đã ngoại tứ tuần rồi. Theo chỉ dụ của công chúa thì Vương tử cũng không được vào. Hôm trước tại hạ đã đoán số cho Vương tử, còn nhớ rõ ràng Vương tử sinh năm Bính Dần, tháng Canh Tý, ngày Ất Sửu, giờ Đinh Mão! Như vậy tính ra vừa đủ bốn mươi mốt tuổi.”
Thực ra Tôn Tán Vương tử mới hai mươi tám tuổi, nhưng gã râu ria đầy mặt, nhìn khó mà đoán được. Huống chi ả cung nữ bữa nay mới thấy mặt nam nhân lần đầu, thì đoán tuổi thế nào được? Ả không biết Bao Bất Đồng nói thật hay nói dối, lại thấy Tôn Tán Vương tử mặt giận hầm hầm toan sấn lại đánh Bao Bất Đồng, thì trong lòng khiếp sợ, vội nói: “Tiểu nữ nghĩ… nghĩ chắc là các vị phải tự nhớ rõ ngày sinh của mình hơn, vậy vị nào ngoài bốn chục tuổi xin ở lại đây, vị nào chưa đầy bốn chục tuổi xin mời vào thư phòng.”
Tôn Tán nói: “Hay lắm! Tại hạ còn chưa đến ba chục tuổi, dĩ nhiên là vào thư phòng được.” Gã dứt lời liền lạng người tiến vào. Bao Bất Đồng cũng bắt chước giọng hắn nói theo: “Hay lắm! Tại hạ còn chưa đến tám chục tuổi, dĩ nhiên là vào thư phòng được. Tuổi của ta tuy đã quá tuổi bất hoặc, nhưng tính tình chưa bất hoặc, thậm chí có thể gọi là đại hoặc, đặc biệt hoặc.” Gã nói xong, cũng lạng người tiến vào thư phòng. Ả cung nữ muốn ngăn lại nhưng vừa kinh sợ vừa xấu hổ, không dám nói gì.
Mọi người chen lấn nhau kéo ùa vào trong. Cả đến hạng năm sáu mươi tuổi cũng vô số người tiến vào. Chỉ có mười mấy vị bản tính nghiêm trang, hành động mực thước mới ngồi lại ngoài sảnh đường. Mộc Uyển Thanh cùng Vương Ngữ Yên cũng ở lại. Đoàn Dự muốn ở lại bầu bạn với Ngữ Yên, nhưng bị nàng thúc giục phải theo vào để giúp đỡ Mộ Dung Phục. Đoàn Dự tiến vào mà lòng quyến luyến không nỡ rời, bước đi một bước lại quay đầu nhìn đến ba bốn lần, tưởng chừng như sắp đi xa muôn dặm ra hải ngoại, cách biệt năm ba năm sau mới có ngày tái ngộ.
***
Đoàn người đi qua một con đường khá dài, ai cũng nghĩ thầm: “Nhìn bề ngoài thì Thanh Phụng Các này chẳng rộng lớn gì cho lắm, ngờ đâu bên trong lại mênh mông bát ngát như trời đất thế này.” Đi hết con đường dài mấy chục trượng thì đến trước hai cánh cổng đá lớn.
Ả cung nữ lấy một cái dùi sắt nhỏ, gõ vào cánh cổng lạch cạch mấy tiếng. Cánh cổng kêu cót két một hồi rồi mở ra. Đám người này phần nhiều là kiến văn rộng rãi, thấy cánh cửa đá dày đến một thước, kiên cố dị thường, không khỏi nghĩ thầm: “Giả tỉ sau khi chúng ta vào hết, họ đóng cửa lại thì chẳng khác gì chui đầu vào rọ. Không chừng phen này nước Tây Hạ mượn tiếng kén phò mã để quét một mẻ anh hùng hảo hán khắp thiên hạ.” Tuy ai cũng nghĩ vậy, nhưng đã xem hội thì phải vào chùa, có lý đâu lại quay về để mang tiếng là kẻ khiếp nhược?
Mọi người bước qua cửa đá rồi, quả nhiên cánh cửa từ từ đóng lại. Bên trong cửa đó lại còn một lối đi rất dài, hai bên đèn thắp sáng trưng. Đi hết con đường đá lại đến một tầng cổng đá khác. Qua cổng đá thứ hai lại đi một lúc nữa, rồi qua một tầng cổng đá thứ ba. Lúc này dù là người gan dạ đến đâu cũng không khỏi cảm thấy trong lòng hồi hộp. Đoàn người đi qua vài khúc quanh nữa, bỗng nghe tiếng nước chảy róc rách, thì ra đã đến bên một khe suối.
Trong chốn cấm cung mà đột nhiên thấy lạch nước sâu này, ai cũng không khỏi nghi ngờ. Mọi người ngơ ngác nhìn nhau, có kẻ nóng tính đã toan hành động. Ả cung nữ nói: “Muốn vào thư phòng thì phải qua dòng suối U Lan này. Mời các vị qua suối.” Ả nói xong lội xuống trước. Hai bên suối có bốn bó đuốc ánh sáng lập lòe, đoàn người nhìn thấy ả cung nữ bước bừa xuống suối, bất giác đều la hoảng.
Ngờ đâu thân hình ả nhẹ nhàng lướt trên mặt nước như đi trên không. Ai nấy đều lấy làm kinh dị, đoán là dưới suối phải bắc cầu ngầm để đặt chân mà đi, chứ làm sao người lại đi trên mặt nước được? Mọi người chú ý nhìn, thì quả nhiên thấy một sợi dây sắt rất nhỏ, nối từ bờ bên này sang bờ bên kia. Sợi dây sắt này đã nhỏ xíu lại đen sì, trông lẫn với màu nước suối, dưới ánh đuốc chập chờn khi tỏ khi mờ không thể nhìn thấy rõ. Dòng suối này khá sâu, nếu trượt chân ngã xuống thì chẳng đến nỗi chết đuối, nhưng cũng ướt hết quần áo, lấm láp khó coi. Nhưng bọn người này ai không đến Tây Hạ cầu thân thì cũng là cao thủ đi theo hộ vệ chủ nhân, nên võ công đều rất cao thâm, thi triển khinh công đi trên dây sắt để sang bờ bên kia. Đoàn Dự tuy không hiểu võ công, nhưng phép Lăng Ba Vi Bộ chàng đã luyện rất thành thục. Ba Thiên Thạch dắt tay chàng, hai người nhẹ nhàng đi trên sợi dây bắc ngang suối.
Đoàn người đi qua suối rồi, không hiểu ả cung nữ đã bấm vào cơ quan nào mà nghe “véo” một tiếng, sợi dây sắt rút vào, ẩn trong đám cỏ rậm không thấy đâu nữa. Mọi người kinh hãi vô cùng, nghĩ thầm: “Dòng suối này vừa sâu vừa rộng, khó mà nhảy qua được. Hay là nước Tây Hạ quả có lòng mờ ám? Nếu không thế thì sao trong khuê phòng của công chúa lại có đặt cơ quan này?” Mọi người đều ngấm ngầm đề phòng, nhưng không ai lên tiếng mà chỉ âm thầm hối hận: “Sao mình lại ngu dại đến thế, lúc vào cung lại không đem binh khí tùy thân.”
Ả cung nữ lại nói: “Xin mời các vị vào trong này!” Đoàn người đi theo ả băng qua một khu rừng trúc lớn, đến trước một sơn động. Ả cung nữ gõ mấy tiếng, cánh cửa động mở ra, rồi ả giơ tay ra nói: “Mời các vị!” Ả tự mình đi vào trước.
Chu Đan Thần khẽ hỏi Ba Thiên Thạch: “Làm thế nào đây?” Trong lòng Ba Thiên Thạch cũng hoang mang bất định, cũng muốn bảo Đoàn Dự ở lại bên ngoài để khỏi nguy hiểm, nhưng lại nghĩ rằng nếu chàng không tiến vào sơn động thì dĩ nhiên không thể đạt mục tiêu được. Hai gã Ba, Chu còn đang ngần ngừ thì Đoàn Dự đã cùng Tiêu Phong sánh vai đi vào, đành nắm tay nhau đi theo sau.
Đoàn người vào cửa sơn động, đi qua một đoạn đường hầm rồi đột nhiên trước mắt sáng bừng, đã vào đến một tòa đại sảnh. Đại sảnh này còn rộng gấp ba lần chỗ uống trà vừa rồi, vốn là một sơn động thiên nhiên, đã được xây dựng tu sửa lại. Tường vách cực kỳ nhẵn nhụi, chỗ nào cũng có treo tranh vẽ hay câu đối. Thông thường thì các sơn động đều ẩm ướt, song nơi đây lại rất khô ráo sạch sẽ, những tự họa treo trên vách cũng không hề bị ẩm ướt. Một góc sảnh đường có kê một giá sách lớn, bốn cái ghế đá và một cái bàn đá có bày đủ văn phòng tứ bảo. Ả cung nữ lại lên tiếng: “Đây là thư phòng của công chúa. Xin mời liệt vị tự tiện vào thưởng ngoạn tự họa.”
Mọi người thấy cách bài trí gian phòng này rất đặc biệt, trống trải như một sảnh đường, thế mà nghe giới thiệu là thư phòng của công chúa, đều lấy làm kinh ngạc. Nhưng nơi đây đủ cả án sách cùng tranh vẽ, bút thiếp thì đúng là một thư phòng. Đoàn người này hết chín phần mười là hạng vũ phu chỉ biết võ vẽ mấy chữ, thì làm sao hiểu về bút thiếp cùng tranh vẽ? Họ thấy trên tường có treo thư họa, thì cũng chỉ biết đó là thư họa mà thôi.
Tiêu Phong và Hư Trúc tuy võ công cao cường, nhưng về văn học không am hiểu gì mấy. Hai người sóng vai ngồi xuống đất, để ý xem động tĩnh bọn người cùng đi với mình, về kiến thức cùng lịch duyệt thì Tiêu Phong cao gấp mười Hư Trúc, tuy chàng không quan tâm đến những đối liễn cùng tranh vẽ trên tường, bề ngoài không tỏ vẻ gì, mà thực ra từng phút từng giây đều để ý đến ả cung nữ. Chàng biết ả này có vai trò rất quan trọng, nếu người Tây Hạ đặt mai phục hay có độc kế gì, thì phải do cô bé xinh đẹp đó phát động. Lúc này Tiêu Phong đã biết trong bóng tối có người dòm ngó mà bề ngoài tuyệt nhiên không thấy động tĩnh gì, tinh thần chàng cực kỳ căng thẳng. Tiêu Phong định bụng nếu xảy ra biến cố gì, sẽ lập tức kiềm chế ả cung nữ rồi sẽ tính sau, nhất định không để ả kịp trốn tránh.
Đoàn Dự, Chu Đan Thần, Mộ Dung Phục, Công Dã Càn đều tiến lại gần vách để xem chữ viết và tranh vẽ. Đặng Bách Xuyên là con người tâm cơ tinh tế, quan sát kỹ từng bức họa để xem có lỗ nhỏ có thể phóng ra độc khí hay không, vì Bi Tô Thanh Phong thật là lợi hại, võ lâm Trung Nguyên không chỉ nghe danh mà cũng đã nếm mùi. Còn Ba Thiên Thạch cũng giả vờ xem danh họa, nhưng thực ra là để ý xem xét tường vách, xem có cơ quan bí ẩn gì không, có đường nào để chạy trốn không.
Chỉ có Bao Bất Đồng là bép xép, không ngớt chê bai những bức vẽ trên tường. Y không bảo tranh xấu mà chỉ chê nét bút, nét vẽ không có thần. Tây Hạ là một nước xa xôi hẻo lánh, lập quốc chưa được bao lâu, nên tranh vẽ cùng bút thiếp ở trong cung hãy còn kém Đại Tống và Đại Liêu xa lắm. Nhưng dù sao thì cung diện đế vương cũng khác với nhà thường dân nhiều, trong thư phòng của công chúa cũng có nhiều bút thiếp từ đời Tấn, đời Đường, cùng những tranh vẽ đời Nam Tống, Bắc Tống. Thế mà Bao Bất Đồng chê bai như là những thứ chẳng có giá trị chút nào. Lúc này, thư pháp của Tô, Hoàng nổi tiếng nhất thiên hạ, mà trong hoàng cung Tây Hạ cũng có khá nhiều bút tích của Tô Đông Pha, Hoàng Sơn Cốc. Cứ theo miệng Bao Bất Đồng thì không những tự tích của Tô, Hoàng chẳng có chi kỳ lạ, mà cả bút thiếp của Chung, Vương cũng không đáng để gã phải phí con mắt.
Ả cung nữ nghe gã nói thiên hô bách sát, phê bình loạn xạ chẳng kiêng nể gì ai thì kinh hãi vô cùng, tiến lại gần khẽ hỏi: “Bao tiên sinh! Những chữ này viết không đẹp thật ư? Công chúa lại cho là bút pháp đó cực kỳ tinh diệu!” Bao Bất Đồng đáp: “Công chúa ở nước Tây Hạ hẻo lánh, chưa được thấy bút pháp của những tay đại danh sĩ, đại tài tử đất Trung Nguyên. Công chúa cần phải vào Trung Nguyên mới biết rõ được. Cô nương cũng nên theo công chúa vào Trung Nguyên để mở rộng tầm mắt, chứ cứ ở đây mãi không được đi đâu, thì suốt đời quê mùa thiển cận.” Ả cung nữ gật đầu đồng ý, mỉm cười đáp: “Đúng là nên đi du ngoạn Trung Nguyên, nhưng việc đó cũng chẳng dễ dàng gì.” Bao Bất Đồng nói: “Sai bét, sai bét! Công chúa mà kết hôn với một vị anh hùng ở đất Trung Nguyên, thì việc đi du ngoạn Trung Nguyên dĩ nhiên chẳng khó khăn gì.”
Đoàn Dự đi xem kỹ từng bức một. Đột nhiên chàng thấy một bức tranh vẽ một thiếu nữ ăn mặc cổ trang đang múa kiếm, bất giác giật mình kinh hãi “Ồ” lên một tiếng. Mỹ nữ trong đồ hình này giống Vương Ngữ Yên như đúc, chỉ có phục sức là khác, nhưng lại hoàn toàn giống Thần tiên tỉ tỉ trong thạch động ở Vô Lượng Sơn. Mỹ nữ trong tranh tay phải cầm kiếm, tay trái giữ kiếm quyết, đang múa kiếm trên núi cạnh hồ, thần thái phiêu diêu, nét mặt kiều diễm không sao tả xiết. Trong chốc lát hồn vía Đoàn Dự như bay mất hết, không nhẫn nại được nữa, bèn la lên: “Nhị ca! Lại đây mà coi!”
Hư Trúc tiến đến gần, vừa nhìn thấy cũng lấy làm kinh dị, tự hỏi: “Bức họa Vương cô nương sao lại xuất hiện ở nơi đây? Bức họa này lại giống hệt bức đồ hình mà sư phụ đã đưa cho mình, tướng mạo không sai một chút nào, chỉ hơi khác về niên kỷ.”
Đoàn Dự càng nghĩ càng lấy làm kỳ, không nhịn được bèn đưa tay ra sờ vào bức họa đồ. Ngón tay chàng vừa chạm vào tường vách, liền phát giác ra trên tường có rất nhiều nét vẽ. Chàng nhìn sát vào, té ra trên vách khắc rất nhiều hình người, có người đang ngồi, có người đang nhảy, nhiều kiểu rất kỳ lạ. Phần lớn những hình người này được bao trong một vòng tròn, chung quanh lại có những chữ về thiên can địa chi, cùng số thứ tự.
Hư Trúc vừa nhìn thấy đã nhận ra ngay những đồ hình này rất giống đồ hình khắc trên vách đá trong thạch thất cung Linh Thứu, chẳng khác gì mấy. Y chỉ nhìn mấy bức đã hiểu ra, Lý sư thúc là Hoàng thái phi của nước Tây Hạ, bà khắc những đồ hình này ở trong cung thì cũng chẳng có gì lạ, nhưng y nhìn đồ hình lại nghĩ đến sư thúc đã tạ thế, trong lòng không khỏi bâng khuâng. Y biết đây là những yếu quyết về võ công thượng thừa của phái Tiêu Dao, nếu ai nội lực không đủ thâm hậu mà xem vào ắt phải mê đi, nặng thì tẩu hỏa nhập ma, mà nhẹ cũng hôn mê bất tỉnh. Hôm trước bốn cô Mai, Lan, Cúc, Trúc đã vì coi những đồ hình trên vách đá mà bị hôn mê té nhào rồi trọng thương. Hư Trúc sợ Đoàn Dự cũng bị như thế, vội nói: “Tam đệ! Những đồ hình này tam đệ không xem được đâu.” Đoàn Dự hỏi lại: “Tại sao vậy?” Hư Trúc khẽ đáp: “Đây là võ học rất cao thâm, nếu luyện tập không đúng phương pháp thì chỉ có hại chứ chẳng ích gì.”
Đoàn Dự vốn chẳng ưa gì võ công, nên dù tò mò đến mấy cũng không thích bằng hình ảnh Vương Ngữ Yên. Chàng liền quay mặt đi, lại nhìn bức họa mỹ nhân, múa kiếm. Mấy hôm nay chàng được cùng Vương Ngữ Yên gần gũi thân mật, nhớ rõ hết mọi chi tiết dù rất nhỏ trên nét mặt nàng. Chàng nhìn lại bức họa, liền phân biệt được ngay những chỗ khác nhau. Người trong tranh so với Vương Ngữ Yên thì đầy đặn hơn, thần sắc người trong tranh cũng linh hoạt sắc bén hơn, không ôn nhu thùy mị như Vương Ngữ Yên, mà tuổi tác cũng có vẻ lớn hơn Vương Ngữ Yên đến ba bốn năm. Nhưng người trong tranh so với Thần Tiên ti tỉ trong thạch động thì chẳng khác chút nào.
Bao Bất Đồng tuy miệng nói huyên thuyên, nhưng mọi cử động cùng lời nói của Đoàn Dự và Hư Trúc đều không qua khỏi tai mắt gã. Gã vừa nghe Hư Trúc nói những đồ hình trên vách đều là võ học cao thâm thì khịt mũi hỏi: “Cái gì mà võ học cao thâm? Tiểu hòa thượng lại gạt người ta rồi!” Đoạn gã mới để ý nhìn vào đồ hình trên vách.
Ả cung nữ nói: “Bao tiên sinh! Những bức đồ hình này không nên xem. Công chúa đã nói, ai luyện tập công phu chưa đến nơi mà xem đồ hình này thì chỉ có hại chứ chẳng ích gì.” Bao Bất Đồng nói: “Nếu người luyện tập công phu đã đến nơi mà xem đồ hình này thì chỉ có ích chứ chẳng hại gì. Có đúng thế chăng? Công phu ta đã luyện đến nơi, nhất định phải xem thử.” Gã thấy đồ hình thiên biến vạn hóa, không biết đâu mà mò, nhưng bất giác bỗng giơ tay giơ chân, bắt chước tư thế trong đồ hình.
Chỉ trong khoảnh khắc mọi người đều để ý đến tình trạng cổ quái của Bao Bất Đồng, rồi phát giác quái trạng này là do đồ hình trên vách gây ra. Bỗng một người đứng bên cạnh gã lên tiếng: “Ồ! Chỗ này có đồ hình!” Một người đứng ở vách bên kia lên tiếng: “Bên này cũng có đồ hình!” Rồi mọi người xô lại xem những bức họa trên vách, thấy đủ thứ hình người cùng thú vật. Sau khi xem một lúc, ai nấy đều hoa tay múa chân.
Hư Trúc trong lòng ngấm ngầm kinh hãi, vội chạy đến gọi Tiêu Phong: “Đại ca! Những đồ hình này không nên xem đâu. Những người này mà nhìn vào thì chắc sẽ bị trọng thương, không chừng điên cuồng mà náo loạn cả lên!”
Tiêu Phong lớn tiếng quát: “Các vị đừng nhìn vào đồ hình trên vách nữa! Chúng ta đã vào nơi hiểm địa, phải mau mau cùng nhau thương nghị!”
Nghe tiếng chàng quát, mấy người quay đầu lại nhìn, nhưng các đồ hình trên vách có một sức quyến rũ rất mãnh liệt. Ai nhìn vào đồ hình, cứ ngẫm nghĩ một chút là tưởng mình có thể giải đáp ngay được những chỗ khó khăn mà mình suy nghĩ đã bao lâu không ra. Thế rồi mọi người lại suy nghĩ mông lung, sau cùng đi đến chỗ để hết tâm trí vào việc nghiên cứu đồ hình. Tiêu Phong thấy số đông vẻ mặt thẫn thờ như ngây như dại, thì không khỏi ngấm ngầm kinh hãi.
Bỗng có tiếng người rú lên: “Úi chao!”, rồi quay mấy vòng, ngã lăn xuống đất. Có người chỉ gừ gừ rất khẽ trong cổ họng, rồi nhảy xổ vào vách đá mà cào cấu, tưởng chừng như muốn kéo những đồ hình trên vách xuống. Tiêu Phong biết rằng nếu không ngăn trở mọi người, để họ chăm chú nhìn vào đồ hình thì chẳng mấy chốc sẽ gây thành đại họa. Chàng liền nghĩ ra một kế, nắm lấy một cái ghế gỗ bẻ đánh “rắc” một tiếng, lưng tựa gãy ra, rồi bóp mạnh cho nát vụn. Tiêu Phong vung tay ném những mảnh gỗ vụn phát ra tiếng kêu veo véo không ngớt, những đèn đuốc đều tắt dần. Chàng liệng vài lần thì mấy chục ngọn đuốc đều tắt hết, trong động trở nên tối mù.
Trong bóng tối chỉ còn nghe tiếng người thở hồng hộc, cùng những tiếng la khẽ: “Nguy hiểm quá!”
Tiêu Phong dõng dạc nói: “Xin các vị chỗ nào ngồi nguyên chỗ ấy, đừng đi lại nhộn lên để khỏi giẫm vào các cơ quan trong nhà này. Những bức đồ hình trên vách có thể làm mê hoặc lòng người, các vị đừng sờ mó vào mà nguy hiểm.” Có người vẫn đang đưa tay ra sờ vào những bức đồ hình, nghe chàng nói liền miễn cưỡng rụt tay về.
Bỗng nghe tiếng Tiêu Phong khẽ nói: “Tại hạ đắc tội, cô nương miễn trách! Xin cô nương mở cánh cổng đá để thả mọi người ra.” Thì ra lúc Tiêu Phong bẻ gãy ghế, chàng đã cùng lúc nắm lấy tay phải ả cung nữ. Ả này võ công cũng không phải tầm thường, kinh hãi vung tay trái lên phóng chưởng. Tiêu Phong ném gỗ vụn cho tắt hết đèn đi, rồi tiện tay chụp nốt cổ tay trái ả. Ả cung nữ vừa kinh hãi vừa xấu hổ, không dám cử động, nghe Tiêu Phong nói vậy liền đáp: “Các hạ hãy buông tay ta ra đã…” Tiêu Phong bèn buông tay ả ra, tuy ở trong bóng tối, nhưng chàng tự tin vẫn có thể theo dõi ả được, quyết không sợ ả giở trò.
Ả cung nữ nói: “Tiểu nữ đã bảo Bao tiên sinh là không thể xem những đồ hình này được. Người nào công phu luyện chưa đến nơi mà xem vào thì chỉ có hại chứ không ích gì. Thế mà tiên sinh cứ nhất định muốn xem.”
Bao Bất Đồng đang ngồi phệt dưới đất, đầu nhức như búa bổ, tâm thần hoảng hốt rất khó chịu, bụng lại quặn lên buồn nôn. Thế mà y vẫn gắng gượng cãi lại: “Nếu ngươi bảo ta xem thì ta không xem đâu. Nhưng ngươi lại bảo ta đừng xem, thì ta phải xem cho bằng được.”
Tiêu Phong nghĩ thầm: “Quả nhiên ả cung nữ này đã khuyên can mọi người đừng coi đồ hình trên vách, dường như thật sự không có ý hại người. Nhưng công chúa Tây Hạ mời bọn ta đến chỗ này chẳng hiểu có dụng ý gì?…” Chàng còn đang ngẫm nghĩ, đột nhiên một mùi hương phảng phất đưa vào mũi. Mùi hương này rất nhẹ nhàng, lại chỉ thoảng qua mà thôi, nhưng Tiêu Phong vừa ngửi thấy đã giật mình kinh hãi, vội đưa tay lên bịt mũi, vì ông nhớ lại hồi còn làm Bang chủ Cái Bang, quần cái đã bị bọn Nhất Phẩm Đường nước Tây Hạ dùng Bi Tô Thanh Phong làm nhũn người ra rồi bắt hết. Tiêu Phong ngầm thử vận khí, nhưng thấy không có gì trở ngại.
Bỗng một thanh âm thiếu nữ thánh thót cất lên: “Công chúa giá lâm!” Mọi người nghe nói công chúa đến thì vừa ngạc nhiên vừa hoan hỉ, chỉ tiếc là trong bóng tối nên không được nhìn rõ mặt nàng.
Thanh âm thiếu nữ lại uyển chuyển nói: “Công chúa có lời hiểu dụ: Vì không muốn để nhân sĩ phái khác nhòm ngó đồ hình võ học khắc trên vách đá trong thư phòng, nên đã dùng các tranh vẽ cùng đối liễn che khuất đi, thế mà không ngờ cũng có người phát hiện ra. Công chúa xin các vị đừng đốt lửa lên, e rằng sẽ gây ra những hiểm họa không nhỏ. Công chúa xin cáo lỗi với quý vị tân khách, vì để quý vị phải ngồi tối tăm như vậy thật là bất kính, xin được lượng thứ.”
Rồi lại nghe tiếng lách cách vang lên, cánh cổng đá đã mở ra. Thiếu nữ lại nói: “Nếu vị nào không muốn lưu lại nơi đây, thì có thể lui ra sảnh đường uống trà nghỉ ngơi. Dọc dường có người hướng dẫn, không sợ lạc lối.”
Nhưng công chúa đã đến thì còn ai muốn trở ra nữa? Hơn nữa, thanh âm ả cung nữ này rất ôn tồn, không có vẻ gì là ác ý hay gia hại. Mọi người thấy cổng đã mở rồi, đều bớt kinh hãi, không ai chịu lui ra. Một lát sau, thiếu nữ lại nói: “Các vị đã không muốn rời đi, công chúa rất cảm kích. Công chúa không có vật gì đáng giá để tặng khách phương xa, chỉ kính cẩn đem những bức danh họa cùng bút thiếp thưởng ngoạn hàng ngày để tặng mỗi vị một tấm. Đó đều là tác phẩm của danh gia, xin các vị thu nhận cho. Khi nào các vị ra về, cứ tùy tiện tháo, lấy đem đi.”
Các hào khách giang hồ nghe nói tặng vật của công chúa chỉ là chữ viết cùng tranh vẽ, phần lớn không được vui lòng. Còn một số người có kiến thức, biết rằng những thứ này đem về Trung Nguyên có giá rất cao, quý hơn cả vàng bạc châu báu thì lại mừng thầm. Đoàn Dự là người vui sướng nhất, quyết ý lấy bức tranh vẽ mỹ nhân múa kiếm bên hồ để cùng Vương Ngữ Yên sóng vai mà thưởng ngoạn.
Tôn Tán Vương tử nghe mãi cũng chỉ thấy ả cung nữ đại diện cho công chúa mà phát ngôn, trong lòng nóng nảy vô cùng. Gã lớn tiếng nói: “Công chúa! Chỗ này không tiện thắp đèn lửa, công chúa không nhìn thấy tại hạ mà tại hạ cũng không nhìn thấy công chúa. Vậy chúng ta đến nơi khác để diện kiến được chăng?”
Ả cung nữ lại lên tiếng: “Các vị muốn được thấy dung nhan công chúa thì cũng chẳng khó gì.” Trong bóng tối bỗng có hàng trăm tiếng la hét: “Chúng ta muốn thấy công chúa! Chúng ta muốn thấy công chúa!” “Mau thắp đèn lên! Chúng ta nhất định không xem những đồ hình trên vách nữa!” “Chỉ cần thắp mấy ngọn đèn quanh công chúa là đủ. Chúng ta chỉ muốn nhìn công chúa chứ không muốn xem đồ hình.” “Đúng thế, đúng thế! Xin công chúa xuất hiện.” Mọi người huyên náo một lúc, rồi dần dần yên lặng trở lại.
Ả cung nữ lại từ từ lên tiếng: “Công chúa mời các vị đến Tây Hạ là để hội kiến cùng quí khách. Hiện nay công chúa có ba vấn đề muốn hỏi, vị nào trả lời đúng sẽ được công chúa mời vào tương kiến.”
Mọi người nghe nói thế, tinh thần lại phấn khởi. Có người nói: “Té ra đây là một cuộc thi vấn đáp.” Có người lại nói: “Tại hạ chỉ biết vung đao múa thương, thì làm sao mà trả lời được những đề mục về thi thư? Thế này thì hỏng bét! Sao lại không tỉ thí về chiêu số võ công?”
Ả cung nữ nói: “Công chúa đã cho tiểu nữ biết những vấn đề muốn hỏi. Xin hỏi vị nào muốn trả lời trước?”
Mọi người lại nhao nhao lên tiếng: “Ta trả lời trước! Ta trả lời trước!” Ả cung nữ cười khanh khách nói: “Các vị bất tất phải tranh nhau, người trả lời trước thường hay bị loại.” Mọi người nghĩ lại thấy ả nói có lý, càng trả lời sau thì càng được nghe ý kiến của nhiều người, có thể so sánh đối chiếu mà trả lời thì chắc đúng hơn. Thế là chẳng có ai lên tiếng nữa.
Bỗng có người nói: “Giả tỉ các vị lên trước, tại hạ sẽ theo sau. Còn các vị sợ đi trước dễ bị loại, thì để tại hạ xung phong lên đầu. Tại hạ là Bao Bất Đồng, đã có thê tử, chỉ muốn ngắm dung nhan công chúa một cái, không có ý gì khác cả.”
Ả cung nữ nói: “Bao tiên sinh thật là người mau lẹ. Công chúa có ba vấn đề muốn hỏi: Một là, trong đời Bao tiên sinh thấy nơi nào là khoái lạc nhất?”
Bao Bất Đồng ngẫm nghĩ một lúc rồi nói: “Ta thích thú nhất là khi còn học nghề nắn đồ sứ, lão chủ tiệm cứ suốt ngày cáu kỉnh đánh mắng ta. Một hôm ta điên tiết lên, lôi hết bình tích ấm chén, lọ hoa tượng Phật, đập tan tành không sót một cái nào nguyên vẹn, rồi bỏ đi. Đó là một việc thích thú nhất trong đời tại hạ. Cung nữ cô nương! Ta trả lời như vậy có trúng tuyển chăng?”
Ả cung nữ đáp: “Trúng tuyển hay không thì tiểu nữ chẳng biết, chuyện đó hoàn toàn do công chúa quyết định. Bây giờ đến vấn đề thứ hai: Bình sinh Bao tiên sinh yêu ai nhất, người đó tên là gì?” Bao Bất Đồng không suy nghĩ gì, đáp ngay: “Ta yêu nhất là Bao Bất Tịnh.”
Cung nữ hỏi: “Điều thứ ba, tướng mạo người mà Bao tiên sinh yêu đó ra sao?” Bao Bất Đồng đáp: “Người này mới lên sáu tuổi, mắt to mắt nhỏ, mũi hếch lên trời, vành tai vểnh ra. Bao mỗ bảo gì y cũng nhất quyết phản đối, bảo y khóc thì y cười, bảo y cười thì y lại khóc. Mỗi lần y khóc thì đến hai giờ không nín. Y chính là con gái của Bao mỗ, tên gọi là Bao Bất Tịnh.”
Ả cung nữ cười khúc khích, bọn hào khách thì nổi lên cười ha hả. Ả cung nữ lại nói: “Mời Bao tiên sinh qua bên cạnh nghỉ ngơi, xin mời vị kế tiếp trả lời.” Đoàn Dự chỉ mong sớm được ra ngoài thủ thỉ với Vương. Ngữ Yên, còn chuyện thấy hay không thấy công chúa thì chàng chẳng quan tâm. Chàng liền tiến lên xá dài rồi nói: “Tại hạ là Đoàn Dự ở nước Đại Lý, kính cẩn vấn an công chúa. Tại hạ ở nơi hẻo lánh tận Nam cương, mấy hôm nay được thượng quốc tiếp đãi nồng hậu, rất cảm kích thịnh tình.”
Ả cung nữ nói: “Thì ra là Thế tử của Trấn Nam Vương nước Đại Lý. Vương tử bất tất phải quá khiêm nhường. Nơi đây hủ lậu, không đủ lễ cung nghênh quý khách, thật lấy làm áy náy.” Đoàn Dự nói: “Tỉ tỉ quá khách khí rồi! Hôm nay công chúa không được nhàn rỗi, xin để lúc khác lại tương kiến cũng không sao.”
Ả cung nữ nói ngay: “Vương tử đã chẳng quản đường xa tới đây, xin cứ trả lời ba vấn đề. Vấn đề thứ nhất, Vương tử thấy nơi nào là khoái lạc nhất?” Đoàn Dự buột miệng đáp ngay: “Nơi khoái lạc nhất của tại hạ là trong cái giếng khô bùn lầy.” Mọi người không nhịn được cười ồ cả lên, mà Đoàn Dự cũng không giải thích. Ngoài Mộ Dung Phục ra, chẳng ai hiểu tại sao chàng lại thấy cái giếng khô là khoái lạc. Có người lên tiếng mỉa mai: “Không chừng gã này là con rùa, nên mới thích chui vào bùn lầy trong giếng khô.”
Ả cung nữ lại hỏi: “Bình sinh Vương tử yêu ai nhất, và người đó tên là gì?”
Đoàn Dự vừa toan mở miệng trả lời thì bên phải bỗng có người kéo tay, bên trái có người giật áo. Ba Thiên Thạch đứng một bên, khẽ rỉ tai: “Công tử nói là Trấn Nam Vương.” Chu Đan Thần ở bên kia, thầm nhắc: “Công tử nói là Trấn Nam Vương phi.” Thì ra hai gã này đứng bên Đoàn Dự, thấy chàng trả lời câu hỏi thứ nhất đã là thất lễ, đến câu hỏi thứ hai lại có thể khiến cho người ta chê cười. Chàng đến đây cầu hôn công chúa, mà lại tuyên bố mình yêu một vị cô nương khác, thì khi nào công chúa còn ưng thuận lấy chàng? Vì thế một gã bảo chàng trả lời yêu nhất là phụ thân, để tỏ lòng trung hiếu, đó là ý nghĩ của quan Tư không đại thần Ba Thiên Thạch. Còn một gã bảo chàng trả lời yêu nhất là mẫu thân, thì chính là ý kiến dịu dàng từ ái của kẻ sĩ văn nho Chu Đan Thần.
Quả là Đoàn Dự nghe hỏi mình yêu ai nhất đời, đã toan buột miệng nói đến Vương Ngữ Yên, nhưng thấy Chu, Đan hai người kéo tay giật áo, chàng nghĩ lại mình là Thế tử của Trấn Nam Vương nước Đại Lý, qua Tây Hạ thì lời nói cùng hành động có quan hệ đến quốc thể. Chàng cho là mình mất mặt thì chẳng sao, nhưng không thể hại đến quốc thể nước Đại Lý, liền đáp: “Người mà tại hạ yêu nhất dĩ nhiên là phụ thân cùng mẫu thân.” Lúc trả lời, chàng đem so sánh tình yêu song thân với tình yêu Vương Ngữ Yên thì thấy khác nhau xa, nhưng không thể phân biệt được bên nào nặng bên nào nhẹ, Tuy thế, chàng trả lời mình yêu nhất là song thân cũng không phải chuyện giả trá.
Ả cung nữ lại hỏi: “Tướng mạo lệnh tôn cùng lệnh đường thế nào? Có giống Vương tử không?” Đoàn Dự đáp: “Gia phụ mặt vuông, mày rậm mắt to, tướng mạo uy võ mà tính nết lại ôn hòa…” Chàng nói đến đây bỗng giật mình nghĩ thầm: “Thì ra tướng mạo mình chỉ giống mẫu thân chứ không giống phụ thân trước nay chưa bao giờ mình nghĩ tới chuyện này.” Ả cung nữ thấy Đoàn Dự chỉ trả lời nửa câu rồi không nói nữa, thì cho rằng mẫu thân chàng là bậc Vương phi cao quý, nên chàng không muốn tả rõ tướng mạo trước mặt mọi người. Ả liền nói: “Đa tạ Vương tử. Xin mời Vương tử qua bên cạnh nghỉ ngơi.”
Tôn Tán Vương tử nghe ả cung nữ đối với Đoàn Dự có vẻ vừa kính trọng vừa thân mật, trong lòng ngấm ngầm nổi ghen, lẩm bẩm: “Ngươi là Vương tử, ta đây cũng là Vương tử, phỏng có kém gì? Huống chi nước Thổ Phồn vừa lớn vừa mạnh hơn nước Đại Lý nhiều. Chẳng lẽ cái tên mặt trắng này lại lấn át được ta?” Gã nghĩ vậy, rồi không chờ được nữa, sấn sổ tiến lên nói: “Vương tử nước Thổ Phồn là Tôn Tán xin hội diện cùng công chúa.” Ả cung nữ nói: “Vương tử quang lâm, tệ quốc rất lấy làm vinh hạnh. Công chúa tệ quốc có ba vấn đề…”
Tôn Tán tính nóng nảy, không chờ cung nữ nói hết đã cười đáp: “Ba vấn đề của công chúa, ta đã nghe rõ rồi. Ngươi bất tất phải nhắc lại, mà ta cũng trả lời luôn một lúc; chẳng cần phải hỏi từng câu một. Nơi khoái lạc nhất trong đời ta là chốn động phòng, sau khi được làm phò mã, kết nghĩa phu thê với công chúa. Người ta yêu nhất đời là Ngân Xuyên công chúa, dĩ nhiên nàng họ Lý, còn khuê danh ta chưa được rõ, sau này nên đạo vợ chồng nhất định nàng sẽ cho ta biết. Còn tướng mạo công chúa thì mỹ lệ tựa thần tiên, trên trời đã hiếm, dưới đất không hai. Ha ha! Theo ngươi thì ta có trúng tuyển không?”
Trong đám đông, có đến quá nửa suy nghĩ giống Tôn Tán, đều định trả lời như vậy. Lúc này họ đều ngầm hối hận, tự nghĩ: “Biết thế, mình tiến lên trả lời trước đi có phải hay hơn không? Bây giờ mình cũng trả lời như vậy thì chẳng hóa ra học mót người ta ư?”
Tiêu Phong lại nghe ả cung nữ hỏi mấy người nữa. Người thì trả lời đầy vẻ lo âu, chẳng hiểu mình có trúng tuyển hay không. Nhiều người ra sức nịnh hót để lấy lòng công chúa, lại có người tự cao tự đại, ra vẻ ta đây chẳng ai bằng. Chàng nghe một lát thấy nhàm tai, không muốn ở lại xem kết quả nữa, đã toan bỏ đi ngay.
Lúc đó bỗng nghe Mộ Dung Phục lên tiếng: “Tại hạ là Cô Tô Mộ Dung Phục ở Yến Tử Ổ, hâm mộ phương danh công chúa đã lâu, hôm nay đến xin bái kiến!”
Ả cung nữ nói: “Té ra là Mộ Dung công tử ở Cô Tô, chuyên về tuyệt kỹ Gậy ông đập lưng ông. Tiểu nữ tuy ở chốn thâm cung, nhưng cũng từng được nghe đại danh của công tử.” Mộ Dung Phục cả mừng, thầm nghĩ: “Ả cung nữ đã biết tên tuổi ta, thì dĩ nhiên công chúa cũng phải biết. Không chừng họ đã bàn bạc với nhau, mơ mộng đến ta rồi.” Y lại nói: “Tại hạ không dám. Chỉ sợ tiện danh làm rát tai cô nương!” Ả cung nữ nói: “Người Tây Hạ tuy ở chốn biên cương hẻo lánh, nhưng cũng từng được nghe thanh danh Bắc Kiều Phong, Nam Mộ Dung. Tiểu nữ nghe nói Bắc Kiều Phong đại hiệp đã đổi sang họ Tiêu, và hiện là một trọng thần ở Đại Liêu. Không hiểu chuyện đó có đúng không?” Mộ Dung Phục đáp: “Đúng thế!” Y đã nhìn thấy Tiêu Phong đi vào Thanh Phụng Các, nhưng không muốn nói ra.
Ả cung nữ lại hỏi: “Công tử cùng Tiêu đại hiệp nổi danh ngang nhau, chắc là bằng hữu chi giao. Chẳng hiểu nhân phẩm Tiêu đại hiệp thế nào, võ công hai vị thì ai cao ai thấp?” Mộ Dung Phục vừa nghe đã đỏ mặt tía tai. Quần hùng đều biết rõ y đã thảm bại dưới tay Tiêu Phong ở chùa Thiếu Lâm, nếu y phủ nhận, tất sẽ bị anh hùng thiên hạ chê cười. Nhưng y cũng không muốn nói thẳng là mình thua Tiêu Phong, bèn đánh trống lảng: “Câu hỏi này có phải là một trong ba vấn đề của công chúa chăng?”.
Ả cung nữ vội đáp: “Không phải đâu! Xin công tử miễn trách. Chẳng qua là mấy năm nay tiểu nữ nghe người ta nói đến Tiêu đại hiệp rất nhiều, nên trong lòng ngưỡng mộ, hỏi cho biết mà thôi.”
Mộ Dung Phục nói: “Hiện giờ Tiêu đại hiệp cũng ở đây, nếu cô nương cao hứng thì có thể hỏi thẳng y.” Hắn vừa thốt ra câu này, mọi người nhốn nháo cả lên. Oai danh Tiêu Phong vang dội như sấm nổ, nhân sĩ võ lâm nghe đến tên chàng thì chẳng ai là không chấn động.
Ả cung nữ cũng xúc động vô cùng, run giọng nói: “Té ra Tiêu đại hiệp cũng hạ cố đến đây. Thế mà người tệ quốc chẳng một ai hay biết, thật là mạo phạm. Tiêu đại hiệp là bậc đại nhân đại lượng, xin rộng lòng khoan thứ cho.”
Tiêu Phong chỉ “Hừ” một tiếng, không đáp.
Mộ Dung Phục nghe ả cung nữ có vẻ kính trọng Tiêu Phong hơn mình nhiều, thì không khỏi ngấm ngầm kinh hãi nghĩ thầm: “Thằng cha Tiêu Phong này cũng chưa lấy vợ, lại đang ở ngôi cao, làm đến chức Nam Viện Đại Vương nước Liêu, trong tay nắm giữ binh quyền, đâu có phải là một gã bạch đinh như mình. Nếu công chúa nước Tây Hạ chấm y làm phò mã, thì mình biết làm thế nào đây?”
Ả cung nữ nói: “Tiểu nữ xin hỏi Mộ Dung công tử trước. Phiền Tiêu đại hiệp đợi cho một chút, xin miễn tội cho tiểu nữ.” Rồi ả quay lại hỏi Mộ Dung Phục: “Xin hỏi công tử: Đối với công tử thì nơi nào là khoái lạc nhất?”
Vấn đề này Mộ Dung Phục đã nghe ả hỏi rất nhiều người, thế mà lúc ả hỏi đến y, y cũng cứng lưỡi không biết trả lời ra sao. Suốt đời y lo lắng, bôn tẩu vì mục tiêu phục quốc, chưa có một lúc nào khoái lạc. Người ngoài thấy y là một thiếu niên anh tuấn, võ công cao cường lừng danh thiên hạ, trên giang hồ ai cũng kinh sợ, cứ tưởng y đã thỏa mãn lắm rồi, mà thực ra trong lòng y chưa bao giờ cảm thấy khoái lạc thật sự. Mộ Dung Phục ngẩn ra một lúc, rồi đáp: “Nơi khoái lạc chân chính của ta là phải ở tương lai, chứ không phải ở hiện tại, mà cũng không phải ở quá khứ.”
Ả cung nữ cứ tưởng y trả lời tương tự như Tôn Tán, nghĩa là sau này được làm phò mã cùng công chúa thành thân, bấy giờ mới là lúc khoái lạc chân chính. Thật ra cái khoái lạc mà Mộ Dung Phục nói đến, là sau này sẽ phục quốc thành công, lên ngôi hoàng đế nước Đại Yên. Ả cung nữ lại mỉm cười hỏi: “Bình sinh công tử yêu ai nhất? Tên người đó là gì?” Mộ Dung Phục thở dài đáp: “Ta chưa yêu ai cả.” Ả cung nữ nói: “Vậy thì tiểu nữ không phải hỏi vấn đề thứ ba nữa.” Mộ Dung Phục nói: “Ta cũng mong được gặp công chúa, sau đó sẽ trả lời cô nương về vấn đề này.”
Ả cung nữ nói: “Xin Mộ Dung công tử qua bên cạnh nghỉ ngơi. Tiêu đại hiệp! Đại hiệp đã đến tệ quốc, tiểu nữ cũng xin tuân lệnh công chúa mà đưa ba vấn đề đó ra thỉnh giáo, dù biết là mạo phạm oai hùm.” Ả hỏi luôn mấy lần, mà vẫn không có tiếng người đáp lại.
Hư Trúc lên tiếng: “Đại ca tại hạ đã đi rồi! Xin cô nương miễn trách!” Ả cung nữ cả kinh hỏi: “Tiêu đại hiệp đã đi rồi ư?” Hư Trúc đáp: “Đúng thế!”
Thì ra Tiêu Phong thấy mấy vấn đề của công chúa Tây Hạ sai cung nữ hỏi mọi người, rõ ràng không có ý gia hại ai, nhung chưa hiểu được thâm ý bên trong, liền nghĩ tới chỗ mình phải trả lời ba vấn đề đó như thế nào. Chàng chợt nhớ tới A Châu, lòng đau như cắt, nhưng không muốn biểu lộ tâm tình trước mặt mọi người, liền quay người ra khỏi nhà thạch thất. Lúc này cánh cổng đá đã mở rồi, chàng nhẹ bước ra đi, không một ai hay biết.
Ả cung nữ hỏi: “Không hiểu sao Tiêu đại hiệp lại bỏ đi? Hay là đại hiệp trách bọn tiểu nữ vô lễ chăng?” Hư Trúc đáp: “Đại ca tại hạ không phải là người khí độ hẹp hòi, chẳng khi nào bắt bẻ chuyện nhỏ mà trách ai. Hừ! Chắc là y lên cơn thèm rượu, nên ra ngoài đánh chén với tân khách rồi.” Ả cung nữ cười nói: “Đúng rồi! Bọn tiểu nữ đã được nghe Tiêu đại hiệp tửu lượng thiên hạ vô song, thế mà không chuẩn bị sẵn rượu nơi đây để mời khách, thật là có lỗi. Lúc nào tiên sinh gặp Tiêu đại hiệp, xin chuyển lời của công chúa cáo lỗi cùng đại hiệp.” Ả cung nữ này nói năng hoạt bát dễ nghe, so với ả cung nữ đón khách bên ngoài chỉ hay thẹn thùng xấu hổ, thì lanh lợi hơn nhiều. Hư Trúc nói: “Khi nào tại hạ gặp đại ca, nhất định sẽ chuyển lời giúp cô nương.”
Ả cung nữ lại hỏi: “Tôn tính đại danh tiên sinh là gì?” Hư Trúc ấp úng đáp: “Tại hạ… tại hạ… đạo hiệu là Hư Trúc Tử. Ta vốn xuất… xuất… Chuyện này… Ta không phải đến cầu thân, chỉ đi theo tam đệ mà thôi.”
Ả cung nữ lại hỏi: “Bình sinh tiên sinh thấy nơi nào là khoái lạc nhất?” Hư Trúc nhẹ thở dài rồi đáp: “Là ở trong một hầm nước đá tối om.”
Bỗng có thanh âm một thiếu nữ khẽ “ồ” lên một tiếng. Tiếp theo là mấy tiếng rơi đổ, rồi một cái chén rớt xuống đất vỡ tan. Ả cung nữ lại hỏi: “Bình sinh tiên sinh yêu người nào nhất, và tên người đó là gì?” Hư Trúc đáp: “Tại hạ… không hiểu tên vị cô nương đó là gì.”
Mọi người nghe vậy thì cười ồ cả lên, đều nghĩ rằng y quá sức si ngốc, ở đời, khi nào lại có ai yêu một người không biết tên?
Ả cung nữ nói: “Tiên sinh không hiểu tên họ vị cô nương đó, thì cũng chẳng có chi là kỳ lạ. Ngày xưa, hiếu tử Đồng Vĩnh thấy tiên nữ giáng phàm, cũng chẳng biết tên họ là gì, gốc tích ra sao, mà hài người vẫn yêu nhau. Hư Trúc Tử tiên sinh! Chắc là dung mạo vị cô nương đó xinh đẹp phi thường, có phải không?”
Hư Trúc đáp: “Dung mạo nàng như thế nào, tại hạ cũng không biết nốt.”
Trong thạch thất, tiếng cười vang dậy như sấm. Ai cũng cho rằng đây là một quái sự đệ nhất cổ kim, có người lại nghĩ là Hư Trúc cố ý chọc cười.
Giữa tiếng cười nói lộn xộn, bỗng nghe thanh âm một thiếu nữ khẽ hỏi: “Chàng… chàng có phải là Mộng Lang chăng?” Hư Trúc giật mình kinh hãi, run lên hỏi: “Nàng… nàng là Mộng Cô đấy ư? Ta nhớ nàng đến chết được.” Y đưa tay ra phía trước, tiến lên mấy bước, bỗng ngửi thấy một mùi hương ngào ngạt, rồi một bàn tay mềm mại nắm tay y. Một thanh âm quen thuộc khẽ thì thầm vào tai Hư Trúc: “Mộng Lang! Ta không tìm thấy chàng, nên phải tìm cách xin phụ hoàng treo bản văn, để mong chàng trở lại.” Hư Trúc kinh hãi nói: “Nàng… là…” Thiếu nữ nói: “Chúng ta vào trong kia nói chuyện. Mộng Lang! Ta tưởng nhớ đến chàng suốt ngày suốt đêm, mãi tới bây giờ…” Nàng vừa nói rất khẽ vừa dắt tay Hư Trúc, âm thầm xuyên qua bức màn đi vào nội đường.
Trong thạch thất, mọi người vẫn cười nói cực kỳ huyên náo.
***
Ả cung nữ vẫn lần lượt đưa ba vấn đề ra hỏi mọi người, hỏi xong hết rồi mới tuyên bố: “Xin các vị hãy ra phòng ngoài uống trà. Những bức thư họa treo trên vách là quà tiễn khách, xin các vị tự lựa chọn lấy. Công chúa muốn cùng vị nào tương kiến, sẽ cho người đến mời sau.”
Trong bóng tối, nhiều tiếng người la lên: “Chúng ta muốn gặp công chúa!” “Chúng ta muốn được yết kiến công chúa ngay!” “Dẫn bọn ta đi hết chỗ này đến chỗ khác để làm trò tiêu khiển chăng”
Ả cung nữ nói: “Các vị hãy ra ngoài nghỉ ngơi một chút, đừng để công chúa phải phiền lòng.” Câu nói này công hiệu như thần. Ai đến Linh Châu cũng mong được làm phò mã, nếu cãi lại ý chỉ của công chúa thì tất nhiên nàng không gọi vào tương kiến, mà đã không được vào yết kiến, thì còn làm phò mã thế nào được? Ả cung nữ vừa nói vậy, mọi người lập tức yên tĩnh trở lại rồi lũ lượt kéo ra. Bên ngoài thạch thất, ánh lửa lập lòe, soi rõ đường đi. Mọi người theo lối cũ, trở ra sảnh đường uống trà.
Đoàn Dự lại gặp Vương Ngữ Yên, kể lại cho nàng nghe ba câu hỏi của công chúa. Vương Ngữ Yên nghe Đoàn Dự nói tới chỗ chàng trả lời nơi khoái lạc nhất trong đời là đáy giếng khô đầy bùn lầy, thì không khỏi phì cười. Hai má nàng đỏ ửng lên, rồi hạ giọng nói: “Muội cũng nghĩ như thế.”
Mọi người ngồi uống trà, nói chuyện vui vẻ, tranh cãi lung tung, cố đoán xem trong vô số câu trả lời vừa rồi thì câu nào là hợp ý công chúa nhất. Qua một hồi lâu, nội giám bưng ra những cuộn tranh vẽ hoặc chữ viết, mời mọi người lựa chọn. Nhưng bọn họ đều trong lòng hồi hộp, chỉ thấp thỏm về chuyện công chúa có vời mình vào tương kiến không, còn lòng dạ nào mà nghĩ tới tranh vẽ cùng bút thiếp? Đoàn Dự thì nhẹ nhàng tìm lấy bức tranh vẽ cô gái múa kiếm bên hồ, chẳng ai thèm giành giật với chàng bức họa này.
Đoàn Dự cùng Vương Ngữ Yên ngồi sóng vai ngắm tranh. Vương Ngữ Yên bỗng than thở: “Người trong tranh nhìn rất giống mẫu thân của muội.” Nàng nhớ đến đã chia tay với mẹ lâu ngày, bất giác buồn bã trong lòng. Đoàn Dự chợt nghĩ ra trong mình Hư Trúc cũng có một bức họa tương tự, muốn bảo y lấy ra để so sánh, nhưng đảo mắt nhìn khắp bốn phía trong đại sảnh mà chẳng thấy Hư Trúc đâu cả. Chàng liền cất tiếng gọi: “Nhị ca! Nhị ca!” Không thấy tiếng người đáp lại. Đoàn Dự tự hỏi: “Y cùng đại ca đi đâu rồi? Hay là đã gặp phải chuyện gì nguy hiểm?” Đoàn Dự còn đang lo lắng, thì bỗng có một tên cung nữ tiến đến cạnh chàng rồi nói: “Có một bức thư của Hư Trúc tiên sinh gửi cho Đoàn Vương tử!” Rồi ả hai tay trao cho Đoàn Dự bức thư, là một lá vàng dát mỏng được gấp ngay ngắn.
Đoàn Dự đón lấy mở xem, mũi ngửi thấy mùi hương thoang thoảng. Trên thư viết: “Ta rất may, cực kỳ may, nói không hết được. Nhưng để tam đệ mất công vô ích, thật là áy náy. Ta thất tín với Đoàn lão bá, mà không có cách nào. Báo cho tam đệ biết.” Ở dưới có ký tên: “Nhị ca”. Đoàn Dự biết nhị ca vốn là một vị tiểu hòa thượng ít đọc sách, nên lời lẽ không được lưu loát, ý tứ lại chẳng có đầu có đuôi, thật là khó hiểu. Tay chàng cầm lá thư, đứng ngẩn ra suy nghĩ một hồi mà chẳng hiểu chút nào.
Tôn Tán Vương tử đứng xa xa trông thấy ả cung nữ trao thư cho Đoàn Dự, thì lửa ghen sôi lên sùng sục. Gã cho rằng công chúa mời Đoàn Dự vào tương kiến thì nghĩ thầm: “Được lắm! Quả nhiên thằng lỏi mặt trắng đã chiếm mất tiện nghi rồi. Làm sao ta để gã yên thân được?” Gã bèn lớn tiếng quát: “Bọn ta không thể tha ngươi được!” Rồi hắn nhảy xổ lại. Tôn Tán vừa đến trước mặt Đoàn Dự, liền đưa tay trái ra giật lấy bức thư, tay phải đánh một quyền thật nặng vào trước ngực chàng.
Đoàn Dự đang mải ngẫm nghĩ xem Hư Trúc muốn nói gì, thì bị Tôn Tán phóng quyền đánh tới một cách bất ngờ, chàng không kịp né tránh. Thật ra thoi quyền của Tôn Tán mau như điện chớp, dù chàng có né tránh cũng chưa chắc đã kịp. Nghe “binh” một tiếng, thoi quyền đập trúng ngực Đoàn Dự, nhưng nội lực đầy rẫy trong người chàng tự nhiên phản ứng lại. Bỗng nghe “vù” một tiếng, tiếp theo là tiếng “huỵch” rồi tiếng la “Úi chao”. Tôn Tán Vương tử bị hất ra xa mấy bước, thân thể đập mạnh xuống kỷ trà, bình tách rơi vỡ tan tành.
Gã không nhịn được phải rú lên, nhưng chưa kịp đứng lên đã cầm bức thư đọc ra tiếng: “Ta rất may, cực kỳ may…”
Mọi người thấy y bị Đoàn Dự hất ngã khá đau, mà lại còn nói: “Ta rất may, cực kỳ may” thì kinh ngạc vô cùng, chẳng hiểu ra sao.
Vương Ngữ Yên vội chạy đến bên Đoàn Dự hỏi: “Hắn đánh huynh có đau không?” Đoàn Dự cười đáp: “Không sao! Nhị ca gửi cho ta một lá thư, chắc gã Vương tử kia hiểu lầm là công chúa mời ta vào hội kiến.”
Bọn võ sĩ Thổ Phồn thấy chủ nhân bị người đánh ngã, kẻ lại nâng đỡ, kẻ thì mặt mày hầm hầm toan kiếm chuyện với Đoàn Dự.
Đoàn Dự bảo Vương Ngữ Yên: “Nơi này nhiều chuyện thị phi, ở lại vô ích. Chúng ta về đi thôi!” Ba Thiên Thạch vội nói: “Công tử đã tới đây, sao lại hấp tấp bỏ đi?” Chu Đan Thần cũng nói: “Đây là nội điện hoàng cung Tây Hạ, còn sợ gì bọn Thổ Phồn hung hăng? Không chừng công chúa sắp triệu kiến, công tử mà bỏ đi thì thật là khiếm lễ.” Hai gã không ngớt miệng, cố tình khuyên Đoàn Dự ở lại.
Quả nhiên, có nhân vật trong Nhất Phẩm Đường chạy ra quát mắng bọn võ sĩ Thổ Phồn không được vô lễ. Tôn Tán Vương tử lồm cồm bò dậy, gã thấy bức thư này không phải là công chúa mời Đoàn Dự vào diện kiến, cũng bình tâm lại.
Giữa lúc nhốn nháo, đột nhiên Đoàn Dự thấy Mộc Uyển Thanh đưa tay vẫy gọi mình, tay trái nàng cầm một mảnh giấy giơ lên. Đoàn Dự gật đầu, bước lại đón lấy. Tôn Tán thấy Đoàn Dự vừa mở thư ra đọc đã biến sắc mặt, gã nghĩ ngay: “Đây mới đúng là thư triệu kiến của công chúa”. Gã liền quát lớn: “Lần trước ngươi còn lừa gạt ta, lần này thì đừng hòng.” Rồi gã nhảy xổ lại, đưa tay cướp lấy bức thư.
Rút kinh nghiệm lúc nãy, y không dám vung quyền đánh nữa, cướp được thư rồi, liền phóng chân phải đá vào bụng Đoàn Dự, rồi chân trái lại đá tiếp theo thế Uyên Ương Liên Hoàn, lợi hại mau lẹ vô cùng. Không ngờ hai chân Tôn Tán đá trúng vào huyệt Đan điền dưới rốn Đoàn Dự, đó là nơi chứa nội kình của con người, không cần vận chuyển cũng có phản ứng. Nội kình của Đoàn Dự phản ứng mau lẹ phi thường, nghe đánh “bốp” một tiếng, Tôn Tán rú lên, người gã bị hất bay vượt qua mấy chục đầu người, xô đổ bảy tám cái kỷ trà, rồi mới té xuống đất.
Tôn Tán da thô thịt dày, Đoàn Dự lại không cố ý vận khí hại gã nên tuy gã té một cái như trời giáng, mà vẫn không bị nội thương. Gã vừa chấm đất, đã giơ bức thư vừa cướp được lên, lớn tiếng đọc: “Có nhân vật cực kỳ lợi hại định giết gia gia ta mà cũng là gia gia huynh. Mau mau đi cứu ứng!”
Mọi người nghe chẳng hiểu đầu đuôi chi hết, sao Tôn Tán lại nói: “gia gia ta mà cũng là gia gia huynh”?
Đoàn Dự cùng Ba Thiên Thạch, Chu Đan Thần biết ngay bức thư này do Mộc Uyển Thanh viết ra. Câu “gia gia ta mà cũng là gia gia huynh” dĩ nhiên là chỉ Đoàn Chính Thuần. Mấy người liền chạy đến chỗ Mộc Uyển Thanh để hỏi kỹ chuyện này.
Mộc Uyển Thanh đáp: “Các vị vào trong một lúc, thì hai vị tỉ tỉ Mai Kiếm và Lan Kiếm đến hoàng cung tìm Hư Trúc tiên sinh để bẩm báo. Hư Trúc Tử không ra được, hai cô liền nói cho muội biết là được tin có mấy nhân vật cực kỳ lợi hại bố trí cơ quan, cố ý ám hại gia gia. Họ bố trí cạm bẫy suốt một giải Thục Nam, chính là đường gia gia phải đi qua để trở về Đại Lý. Hai vị tỉ tỉ đó đã phái bộ Huyền Thiên và bộ Chu Thiên của cung Linh Thứu đuổi theo gia gia, dặn người phải đề phòng cẩn thận, đồng thời có tin tức gì sẽ cấp báo về”.
Đoàn Dự vội hỏi: “Hai vị tỉ tỉ Mai Kiếm, Lan Kiếm đến đây ư? Sao ta lại không thấy?” Mộc Uyển Thanh đáp: “Trong mắt huynh chỉ có một mình Vương cô nương, làm sao nhìn thấy ai nữa? Mai Kiếm, Lan Kiếm muốn báo tin cho huynh, nhưng gọi mấy lần mà huynh chẳng đoái hoài. Chẳng lẽ huynh không thấy thật ư?” Đoàn Dự đỏ mặt lên nói: “Ta… ta không nhìn thấy thật.” Mộc Uyển Thanh lạnh lùng nói: “Hai cô cần tìm Hư Trúc nhị ca rất gấp, không đợi huynh được. Muội muốn gọi huynh, nhưng chắc huynh cũng lờ đi nốt, nên phải viết mấy chữ đưa cho huynh.”
Đoàn Dự không khỏi bẽn lẽn. Chàng cũng tự biết vừa rồi đã để hết tâm trí vào Vương Ngữ Yên. Mắt chàng chỉ nhìn thấy nét vui, nét buồn của Vương Ngữ Yên, tai chàng chỉ nghe thấy tiếng cười, tiếng khóc của Vương Ngữ Yên mà thôi. Giả tỉ trời có sụp xuống, cũng chưa chắc chàng đã biết. Mộc Uyển Thanh đứng xa xa ra hiệu, dĩ nhiên Đoàn Dự không trông thấy. Nếu không có Tôn Tán Vương tử nhảy lại đấm một quyền, e rằng chàng còn chưa ngẩng đầu lên đế nhìn thấy Mộc Uyển Thanh vẫy tay gọi mình. Đoàn Dự nhìn Ba Thiên Thạch và Chu Đan Thần nói : ” Chúng ta phải đi ngay đêm nay để đuổi theo gia gia.” Hai gã Ba, Chu đồng thanh đáp: “Đúng thế!”
Mọi người đều lo lắng về chuyện Trấn Nam Vương gặp nạn. Đây là việc khẩn yếu nhất, còn việc Đoàn Dự có được làm phò mã Tây Hạ hay không, thì chẳng quan hệ bằng. Đoàn người lập tức đứng lên, đi ra khỏi cửa.
Bọn Đoàn Dự về quán dịch gặp Chung Linh, cùng chuẩn bị hành lý. Ba Thiên Thạch thì đến cáo từ quan thượng thư bộ Lễ nước Tây Hạ. Gã nói Trấn Nam Vương giữa đường lâm trọng bệnh, nên Thế tử phải vội vã đi ngay để hầu hạ bên mình, không kịp vào bái tạ hoàng thượng. Phụ thân có bệnh, kẻ làm con phải đội sao đội trăng đi suốt ngày đêm để trông nom thang thuốc, là một việc thiên kinh địa nghĩa. Quan Thượng thư bộ Lễ khen tặng một hồi, nào là: “Lòng hiếu thảo của Vương tử thấu đến trời xanh”, “Đoàn Vương gia thật là đại phúc v.v…” Ba Thiên Thạch cáo từ xong, lật đật chạy ra cửa Nam thành Linh Châu. Gã thi triển khinh công đến tột độ, mà lúc đuổi kịp bọn Đoàn Dự thì cũng đã cách thành Linh Châu đến ba mươi dặm.