Võ Lâm Phong Thần Bảng

Chương 20 - Mường Tượng Giấc Mơ

trước
tiếp

Khôi Y Thị Giả Tiêu Nhất Bình vâng một tiếng lớn, đoạn rút trong tay áo ra một chiếc quạt. Hắn bật chiếc quạt xòe ra, kêu lên một tiếng rẹt, nghiêng mình trước Quan Sơn Nguyệt, buông gọn:

– Xin nhượng lối cho tại hạ!

Quan Sơn Nguyệt «hừ» một tiếng, hoành tay ra sau lưng, rút Kim Giáp Thần, đặt ngang trước ngực, nghiêm giọng đáp:

– Những vị đó, do tại hạ thỉnh đến đây, giả như các hạ có điều chi cần nói với họ, xin cứ nói thẳng với tại hạ …

Kỳ Hạo đứng một bên, không biểu hiện một thái độ nào.

Khôi Y Thị Giả mấy lượt nhìn qua hắn, trông chờ một chỉ thị song hắn vẫn thản nhiên. Bắt buộc, Tiêu Nhất Bình phải tự quyết định lấy. Hắn gằn từng tiếng:

– Các hạ đã nói thế, chắc là tại hạ phải đắc tội rồi đó!

Quan Sơn Nguyệt đưa cao chiếc Kim Giáp Thần, trầm giọng thốt:

– Nếu các hạ muốn động thủ, thì xin mời! Tại hạ đến đây hẳn nhiên là không thể mang theo mình cái thiện ý. Hơn nữa, có đến đây rồi, tại hạ mới nhận ra, Phi Đà Lệnh Chủ kém tư cách quá, một con người quá kém tư cách, không đáng hưởng sự tôn kính của tại hạ, cho nên tại hạ nghĩ rằng, mình không cần phải chủ hòa!

Kỳ Hạo thoáng biến sắc, nhưng chưa nói gì.

Đột nhiên, Tiêu Nhất Bình xếp nhanh chiếc quạt, chỉ thẳng vào ngực Quan Sơn Nguyệt.

Quan Sơn Nguyệt bình tĩnh đưa chiếc Kim Thần ra.

Một tiếng «keng» vang lên, Kim Thần hóa giải lập tức chiêu thức của quạt.

Khôi Y Thị Giả Tiêu Nhất Bình giật mình:

– Công lực của các hạ khá lắm!

Bỗng, gã rẹt chiếc quạt, rồi gã tiến công, thoạt quạt, thoạt đâm thoạt hất, thoạt chặt, tùy theo động tác mà quạt xòe hoặc khép.

Với một chiếc quạt, gã đánh ra những chiêu thức thích hợp cho đủ loại vũ khí, như đao, kiếm, câu, bút … Những chiêu thức đó, biến hóa vô cùng.

Quan Sơn Nguyệt thủ chiếc Kim Thần, bình tĩnh ứng phó. Không lâu lắm, họ trao đổi nhau độ ba mươi chiêu.

Cuộc chiến vẫn trong tư thế quân bình.

Chừng như muốn kết thúc trận đấu nhanh hơn, Khôi Y Thị Giả bỗng nhìn qua một bên, gắt:

– Sao các ngươi thản nhiên được chứ?

Trong số tám du hồ, hai người bước ra. Hai người đó, là hai thiếu phụ, tác trung niên, một cầm chiếc Hộ Thủ Quảy, một cầm kiếm. Cả hai cùng vung vũ khí, tham gia cuộc chiến.

Nhưng, bọn đó tham gia, Khôi Y Thị Giả không hài lòng, lại gắt:

– Ai gọi các ngươi trợ chiến? Ngốc ơi là ngốc!

Hai thiếu phụ sửng sốt. Nhưng, liền theo đó, họ thức ngộ ngay, người cầm quảy hướng qua Lưu Tam Thái, người cầm kiếm tiến đến Lả Vô Úy.

Lưu Tam Thái đã chuẩn bị ngay từ lúc Khôi Y Thị Giả lướt tới, thấy thiếu phụ tiến đến, lập tức vung Thất Tinh Đao chém ra.

Quảy chạm đao, một tiếng «bốp» vang lên, Lưu Tam Thái cảm thấy hổ khẩu tay nhói lên, năm ngón lỏng liền, thanh Thất Tinh Đao văng ra.

Lưu Tam Thái có đao, chống lại quảy, Lử Vô Úy tay không, phải chống với kiếm, tình cảnh phải nguy hơn, không công được thì cũng thủ, và thủ một cách chặt chẽ. Lử Vô Úy vừa thủ, vừa thừa thế, lách mình lòn theo kiếm ảnh, nhập nội, đưa tay điểm vào mạch môn thiếu phụ.

Thiếu phụ không tưởng là đối phương có thân pháp cực kỳ nhanh nhẹn như vậy, hụt chiêu kiếm đầu, liền bị tấn công, bà ta không thu kiếm về để phản công đúng lúc, mà cũng chẳng tránh kịp nên bị Lử Vô Úy điểm trúng mạch môn. Bà cảm thấy toàn thân rợn lên, rồi hầu như tê dại, bàn tay buông lỏng, thanh kiếm rơi xuống đất.

Lử Vô Úy kịp thời đưa tay kia chụp thanh kiếm.

Thế là qua chiêu đầu, Lử Vô Úy đã tước vũ khí của địch dễ dàng.

Hai du hồn xuất trận, một thắng, một bại. Dù ai thắng, ai bại, điều quan trọng không phải ở chỗ hơn kém, điều quan trọng là việc bắt hai người lạ mặt, vô cớ đến tận Biệt Phủ. Điều quan trọng đó, hai thiếu phụ đã làm, nhưng không thành công. Do đó, Kỳ Hạo trầm gương mặt, «hừ» một tiếng:

– Vô dụng quá!

Lời phê phán đó ngang với một lời kêu án, tất cả những tên du hồn, kể luôn Khôi Y Thị Giả đều sợ hãi.

Bị phê phán như vậy, chúng còn giao đấu nữa làm gì? Những tên dợm vào trợ chiến với Khôi Y Thị Giả, đều lùi lại. Những gã chưa vào, cũng lui theo. Khôi Y Thị Giả cũng bỏ cuộc luôn. Và, tất cả đứng lặng người, chờ sự trừng phạt, họ không có tội gì khác hơn là đánh không thắng bọn Quan Sơn Nguyệt.

Kỳ Hạo cười lạnh, thốt:

– Thật ta không hiểu nổi rồi đó, Tiêu Nhất Bình! Tài năng của du hồn các ngươi như vậy, thế mà cũng được tuyển dụng, và lại được tuyển dụng từ lâu! Bao lâu nay, chẳng một ai phát giác bọn các ngươi là một lũ vô tích sự!

Khôi Y Thị Giả biến sắc thành màu đất, rung rung giọng ấp úng:

– Tài nghệ của bọn thuộc hạ, cùng một xuất xứ cả, so với Độc Giác Tê, thuộc hạ không kém hắn, còn tám người kia …

Kỳ Hạo cười mỉa:

– Riêng về ngươi, ta không đáng trách lắm, nhưng cái bọn đó … thì đúng là một lũ vô dụng, bất quá chỉ để làm những cái túi đựng cơm, những cái giá mắc áo!

Khôi Y Thị Giả càng sợ hãi hơn:

– Tiên sư thuộc hạ từ lộc rất sớm, thành các sư đệ sư muội không được thụ huấn kỹ càng, đến nơi đến chốn, sở đắc hiện tại của họ do thuộc hạ truyền cho, được phần nào hay phần ấy. Bởi thuộc hạ chỉ điểm họ không đúng phương cách …

Kỳ Hạo khoát tay:

– Ta không cần biết điều đó. Ta chỉ muốn rõ tại sao năm xưa các ngươi được tuyển mà thôi. Thấy vũ công của các ngươi, ta đâm nghi ngờ!

Khôi Y Thị Giả cúi đầu:

– Mười anh em thuộc hạ có một đấu pháp liên thủ, kể ra cũng hữu dụng, nhờ vậy mà trong cuộc khảo thí năm xưa, bốn vị Hội Chủ rất hài lòng, nên không ngần ngại tuyển chọn bọn thuộc hạ.

Kỳ Hạo «hừ» một tiếng:

– A? Các ngươi có một đấu pháp đặc biệt? Đâu các ngươi thử biểu diễn cho ta xem?

Khôi Y Thị Giả tỏ vẻ khó khăn:

– Tứ Đệ Độc Giác Tê đã bị Ma Quân trừng trị rồi, mười thiếu một, làm sao thuộc hạ biểu diễn được đấu pháp đó? Bởi đã gọi là liên thủ thập phương, thiếu một người thì trận thế không tròn …

Kỳ Hạo suy nghĩ một chút đoạn gật đầu:

– Được rồi, ta cũng bỏ qua cho. Một ngày nào đó, ngươi nhắc lại ta, ta sẽ tìm người điền khuyết.

Như vậy Ma Quân đã xá tội rồi. Bọn du hồn thở phào.

Kỳ Hạo quay qua Quan Sơn Nguyệt, hỏi:

– Cái ý tứ của các hạ vừa rồi, tựa hồ cho tại hạ không dám động thủ?

Quan Sơn Nguyệt cười lạnh:

– Dám hay không, chỉ một mình ngươi biết, ta làm sao biết được chứ?

Kỳ Hạo đến bây giờ, mới tỏ lộ vẻ phẫn nộ. Hắn trầm giọng tiếp:

– Thật ra, hôm nay, tại hạ không dám khiêu chiến với các hạ, điều đó chẳng phải do tại hạ sợ gì các hạ, điều đó có một nguyên do, và tại hạ không thể bày tỏ cái nguyên do cho các hạ hiểu được. Giả như các hạ có thắc mắc, nóng muốn hiểu nguyên do đó, thì cứ hỏi hai vị ấy?

Hắn dứt tiếng, liền đưa tay chỉ Nhất Luân Minh Nguyệt và Vạn Lý Vô Vân.

Nhất Luân Minh Nguyệt không đợi Quan Sơn Nguyệt hỏi, xác nhận ngay:

– Đúng vậy! Ma Quân dù muốn động thủ với ngươi, cũng không thể động thủ được, bọn lão phu biết rõ sự khổ tâm của Ma Quân!

Kỳ Hạo cười lạnh:

– Và cũng vì các vị muốn biết rõ như vậy, nên mới dám đưa nhau đến đây, hơn nữa, đã đến đây rồi, lại còn dám sanh sự!

Nhất Luân Minh Nguyệt hấp tấp đáp:

– Ma Quân đoán sai! Bọn lão phu hoàn toàn chống đối sự vu oán đó! Thú thật với Ma Quân, chẳng phải bọn lão phu đưa người đến đây, mà chính là người đưa đi thì có!

Kỳ Hạo không tin lời nói đó:

– Không thể có việc như vậy! Trừ hai vị ra, còn ai biết được nơi này mà đến chứ?

Quan Sơn Nguyệt cao giọng:

– Lầm! Ngươi quên là còn ta! Chính ta biết ngươi ở tại đây và chính ta mang các vị lão trượng đó theo, ta đính chánh sự nghi ngờ oan uổng của ngươi!

Kỳ Hạo vẫn không tin.

Quan Sơn Nguyệt đưa tay chỉ con Minh Đà, tiếp:

– Ta nói sự thật, ngươi tin hay không tin, tùy ngươi. Chính con vật đó đưa đường, nó đánh hơi Khổng Linh Linh, theo dấu đến đây, nó thuộc loại hiếm tại vùng Quan Ngoại, có khả năng đánh hơi tinh hơn loài chó săn, dù ngươi ở ngoài ngàn dặm, nó biết cái hơi của ngươi rồi, là dẫn đường tìm ra ngươi ngay, nhất định không lệch lạc phương hướng.

Kỳ Hạo cười lạnh:

– Nó có khả năng đánh hơi đã đành, chẳng lẽ nó cũng có luôn khả năng tránh những cơ quan của tại hạ trong khu Hắc Lâm.

Quan Sơn Nguyệt giật mình, câu hỏi của Kỳ Hạo buông ra đột ngột quá, chàng chẳng biết phải đáp làm sao cho ổn thỏa.

Chàng lúng túng, Vạn Lý Vô Vân đáp thay:

– Không phải vậy đâu, việc xuyên qua khu rừng đó không liên qua gì đến con Minh Đà cả, sở dĩ lão phu qua lọt các cơ quan là nhờ Khổ Hải Từ Hàng biểu hiện «Quang Minh Thân Pháp» đưa đi.

Kỳ Hạo nổi giận, hét lên:

– Đáng hận cái lão hòa thượng đó thật! Tại sao lão dám làm thế chứ?

Vạn Lý Vô Vân cười nhẹ:

– Giả như Ma Quân có bất bình lão ấy thì cứ tìm lão mà giải quyết vấn đề!

Kỳ Hạo trầm ngâm một chút, đoạn bĩu môi:

– Không gặp lão hôm nay, thì sẽ gặp ngày mai, ngày kia. Sớm muộn gì cũng có dịp cho tại hạ giải quyết vấn đề!

Quan Sơn Nguyệt thầm cảm kích lão hòa thượng có nhã ý ám trợ bọn chàng, do đó, Kỳ Hạo hỏi, chàng không nỡ nói lên sự thật, sợ rắc rối phát sanh, bất lợi cho lão. Chàng định giấu, Vạn Lý Vô Vân lại tiết lộ ra, hơn thế Vạn Lý Vô Vân lại còn tỏ vẻ đắc ý, như khoan khoái vì đã gây nên mối hiềm khích giữa những người khác. Do đó, chàng khinh bỉ lão vô cùng, cho rằng lão chuyên xúi giục người ta thù nhau, đánh nhau, lão đứng bên ngoài, cười, vui bằng thích. Mỹ cảm chàng dành cho Vạn Lý Vô Vân, cũng như niềm kính trọng một bậc tài cao, tuổi lớn, từ lúc gặp gỡ trên đỉnh Ma Thiên Lãnh hoàn toàn tan biến.

Tuy nhiên, chàng không tỏ lộ sự khinh bỉ đó ngay bằng thái độ gì rõ rệt, chàng chỉ muốn chấm dứt câu chuyện đó, để chuyển sao đề khác. Chàng quát to:

– Kỳ Hạo! Ta hỏi ngươi, ngươi có bằng lòng giải thích thắc mắc của ta về Long Hoa Hội chăng?

Kỳ Hạo cười lạnh:

– Nói chứ! Có gì ngăn trở ta đâu mà ta chẳng nói? Bất quá, ta muốn biết, thực sự ngươi muốn nghe hay không vậy thôi!

Quan Sơn Nguyệt cao giọng:

– Nếu không muốn nghe, sao ta còn hỏi ngươi? Ngươi phải hiểu, ta ngàn dặm đến đây, ta không quản gian lao khổ nhọc, chỉ vì muốn biết Hội Long Hoa như thế nào. Đến đây rồi tự nhiên ta phải nghe ngươi giải thích chứ? Ngươi hỏi ta một câu, chừng như mâu thuẫn quá!

Kỳ Hạo đưa tay chỉ Lử Vô Úy và Lưu Tam Thái, tiếp:

– Còn hai người đó? Ngươi phải an trí họ như thế nào, cho đừng trở ngại việc giải thích của ta!

Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:

– Không thể được!

Kỳ Hạo khoát tay lên không, kêu lên:

– Thế thì chịu thôi! Ta không làm sao thỏa mãn cái ý của ngươi được rồi!

Họ là những người ngoài, biết được những bí mật đó là họ phải chết!

Mãi đến bây giờ, Kỳ Hạo mới bỏ cái sáo giang hồ, không xưng là tại hạ, không gọi đối phương là các hạ nữa. Bởi, Quan Sơn Nguyệt không giữ lễ độ với hắn, thì hắn cần gì phải giữ lễ độ với chàng?

Quan Sơn Nguyệt cười lạnh:

– Ngươi nói nhảm! Chứ ta đây, ta có thuộc về Long Hoa Hội đâu sao ngươi dám tiết lộ những bí mật về hội đó, với ta?

Kỳ Hạo lắc đầu:

– Ngươi thì khác, ngươi không giống những người đó. Chắc ngươi hiểu tại sao chứ? Tại vì ngươi là truyền nhân của Độc Cô Minh, sớm muộn gì, trên bảng, cũng sẽ có tên ngươi …

Quan Sơn Nguyệt khoát tay:

– Ngươi nghĩ sai! Ta sẽ không ghi tên vào bảng đó đâu! Sở dĩ ta quan tâm đến sự tình, là vì mối liên quan của sư phụ ta, đó vì sự tình, riêng về cá nhân ta, chẳng bao giờ ta thích có tên trong bảng như ngươi vừa nói. Hiện tại, sự hiểu biết của ta về Long Hoa Hội rất kém, song một cái hội thần bí, chẳng khi nào hội đó chính đáng, quang minh hơn nữa, điều lệ của hội đó quá khốc liệt tàn nhẫn, một cơ hội có những lệ như vậy, hẳn phải gồm những kẻ tà ác …

Kỳ Hạo cười nhẹ:

– Ngươi đừng vội kết luận về một sự việc mà ngươi chưa hiểu được tận tường. Vào hội, không phải do ngươi muốn mà được, lại cũng chẳng phải tùy ý ngươi từ khước bất mãn mà không vào. Trong Hội Long Hoa, có độ nửa số hội viên không muốn gia nhập nhưng họ không thể khước từ, ngoài ra, có những người bị xóa tên, lại tìm mọi cách để được phục hồi danh vị. Bằng cớ, hai vị lão nhân kia …

Quan Sơn Nguyệt, nhìn sang hai lão nhân, trầm giọng hỏi:

– Đúng vậy chăng?

Nhất Luân Minh Nguyệt thấp giọng:

– Đúng vậy! Bọn lão phu thực ra không muốn nhập hội, song không có phương pháp nào cự tuyệt được. Đã thế sau khi bị xóa tên rồi, lại ẩn mình một nơi, khổ luyện ngày đêm, mong một ngày nào đó, thi triển tài năng qua một cuộc khảo thí, để được ghi tên vào bảng trở lại như cũ! Biết rằng, làm như vậy là mâu thuẫn chính mình, nhưng lão phu đã nói, mình không cự tuyệt, thì bắt buộc phải nhận chứ biết làm sao?

Quan Sơn Nguyệt lấy làm lạ:

– Tại sao? Đã không muốn thì ai bắt buộc mình gia nhập, mà không phương pháp cự tuyệt?

Nhất Luân Minh Nguyệt há hốc miệng ra đó, một lúc lâu, vẫn chưa nói được tiếng nào. Sau cùng, lão thở dài, buông nhẹ.

– Lão phu cũng muốn giải thích cho ngươi hiểu, song chính lão phu cũng chẳng hiểu tại sao thì giải thích thế nào được?

Quan Sơn Nguyệt tỏ vẻ không tin:

– Trong thiên hạ làm gì có cái đạo lý kỳ quái như vậy …

Nhất Luân Minh Nguyệt lại thở dài:

– Đến việc rồi ngươi sẽ biết! Lão phu không thể nói gì hơn.

Quan Sơn Nguyệt muốn hỏi nữa.

Kỳ Hạo nóng nảy, chận trước:

– Thực sự, ngươi định như thế nào, nói cho ta biết?

Quan Sơn Nguyệt suy nghĩ một chút:

– Ngươi nói thế, ta cứ nghe như thế, song ta bảo chứng những người cùng đi với ta đến đây, chẳng hề tiết lộ một điều bí mật. Ngươi yên trí.

Kỳ Hạo cười lạnh:

– Người trong Hội Long Hoa, chỉ có quyền bảo chứng cho một người, và chính là mình đó!

Quan Sơn Nguyệt cao giọng:

– Ta nghĩ, điều lệ đó, nên sửa đổi lại cho hợp lý hơn!

Mọi người hiện diện tại cục trường đều giật mình trước đề nghị táo bạo của chàng. Đề nghị đó, đưa ra mường tượng là một sự chỉ trích, một phê phán.

Có lẽ hầu hết những người đó đều đồng ý, nhưng nào ai dám nói ra?

Kỳ Hạo gật đầu:

– Được rồi! Ta thấy ngươi có hào khí đáng khen, nên đặc cách phá lệ thỏa mãn ý nguyện của ngươi. Vậy hãy theo ta vào trong ấy, đàm đạo.

Khôi Y Thị Giả do dự một chút, đoạn ấp úng:

– Ma Quân … quyền hạn của Ma Quân … không cho phép Ma Quân quyết định một việc quan trọng như vậy …

Kỳ Hạo trừng mắt lườm y, quát:

– Tiêu Nhất Bình! Ngươi dám nói câu đó với ta à?

Khôi Y Thị Giả nín lặng.

Kỳ Hạo vẫy tay, ra hiệu mời khách, song ánh mắt của hắn ngời lên sát ý rõ rệt.

Quan Sơn Nguyệt bắt gặp ánh mắt đó, mỉm cười, hỏi:

– Ngươi tưởng ta chẳng biết tâm ý của ngươi, phải không?

Kỳ Hạo lạnh lùng:

– Biết được là tốt! Cứ đi theo ta!

Hắn bước đi liền. Hắn vừa qua cửa, bọn đồng nam đồng nữ theo luôn, cuối cùng chỉ còn một mình Khôi Y Thị Giả đứng tại đó, chờ khách.

Lử Vô Úy bước cạnh Quan Sơn Nguyệt, thốt:

– Lệnh chủ! Lão phu nghĩ rằng bên trong đó hắn có âm mưu …

Quan Sơn Nguyệt cười nhẹ:

– Đúng vậy, Chưởng môn! Song, tiến tới, chúng ta ít hiểm nguy hơn thoái hậu.

Lử Vô Úy trố mắt:

– Lệnh chủ nói thế nghĩa là sao? Vào đó được an toàn hơn là thoái hậu?

Quan Sơn Nguyệt có phần nào áy náy, tuy nhiên, trong trường hợp này, dù hối hận cũng chẳng làm gì được. Chàng từ từ tiếp:

– Tại hạ trong một phút kém suy nghĩ, lôi cuốn hai vị vào vòng thị phi, thật là đáng trách cho tại hạ quá chừng! Song, bây giờ có nghĩ sao việc cũng đã lỡ rồi, có muốn sửa chữa lại phần nào cũng chẳng còn kịp nữa. Hiện tại, nếu muốn rút lui, chúng ta cũng có thể rút được, song chỉ đi khỏi nơi này thôi, còn như ra lọt ngoài vùng ảnh hưởng của họ, thì chúng ta không hy vọng đâu bởi chẳng khi nào họ buông tha chúng ta. Các vị cũng hiểu, lùi lại, là rơi vào mai phục, tiến tới, là có động thủ, mà động thủ dù sao cũng quang minh hơn, còn mai phục là địch thấy mình, mình không thấy địch, địch có đủ mọi cách ám toán, mình không một phương tiện tự vệ. Cho nên, tại hạ nghĩ, thà đánh nhau quang minh chánh đại mà mình còn hy vọng thủ thắng, chứ đưa mình vào mai phục để địch thao túng, thì bất lợi vô cùng.

Chàng kết luận:

– Huống chi, nào đã biết chắc là mình vào đó rồi sẽ phải động thủ? Mình cứ vào, xem họ bố trí như thế nào đối phó với mình!

Lử Vô Úy gật đầu:

– Lão phu xin theo tùy sự phân phó của Lệnh chủ.

Lưu Tam Thái khẳng khái hơn:

– Tánh mạng của tại hạ, xin hoàn toàn đặt dưới quyền sử dụng của Lệnh chủ.

Quan Sơn Nguyệt còn biết nói chi hơn là tỏ sự cảm kích trước nhiệt tâm của cả hai? Rồi chàng cương quyết bước tới.

Minh Đà muốn bước theo chàng, chàng quay lại, vỗ tay nhẹ lên cổ nó thốt:

– Bằng hữu yên trí đứng đây, chờ ta! Giả như ta không trở ra thì chắc là bằng hữu cũng biết phải làm như thế nào rồi.

Minh Đà gật đầu, như một bằng hữu thực sự.

Quan Sơn Nguyệt trước, những người kia nối theo sau, tất cả vào trong cửa, ngang qua mặt Khôi Y Thị Giả.

Ngồi bên cạnh Quan Sơn Nguyệt trong tòa đại sảnh, là Lạc Tiểu Hồng, bên cạnh Lạc Tiểu Hồng, là Lử Vô Úy và Lưu Tam Thái. Xa hơn chút nữa, là Vạn Lý Vô Vân và Nhất Luân Minh Nguyệt.

Họ tạo thành một hình vòng cung, chừa trống phía đối diện.

Phía đối diện, chỉ có một mình Kỳ Hạo ngồi, còn Khôi Y Thị Giả thì đứng, cạnh Ma Quân của y.

Song phương giữ im lặng một lúc lâu.

Sau cùng, chính Kỳ Hạo cất tiếng trước:

– Ngươi muốn biết điều gì?

Quan Sơn Nguyệt suy nghĩ một chút:

– Tiểu Tây Thiên ở đâu?

Kỳ Hạo đáp:

– Trên đỉnh Thần Nữ Phong, trong vùng Vu Sơn. Nơi đó, luôn luôn có mây trắng bao bọc suốt bốn mùa.

Quan Sơn Nguyệt lại hỏi:

– Ân sư ta có mặt tại đó chăng?

Kỳ Hạo gật đầu:

– Đương nhiên là có! Lão ấy là một trong bốn vị Hội Chủ nhiệm kỳ trước.

Quan Sơn Nguyệt, trầm giọng:

– Ân sư ta ở đó làm gì?

Kỳ Hạo mỉm cười:

– Hưởng phước thanh thản, suốt đoạn đường đời còn lại, trải qua trong khoái lạc tiêu diêu!

Quan Sơn Nguyệt trầm ngâm một lúc, chuyển sang đề khác:

– Long Hoa Hội, là cái hội gì?

Kỳ Hạo đáp:

– Một tổ chức kỳ diệu, khác hẳn mọi tổ chức thế gian. Hội gồm những bậc dị nhân, kỳ sĩ, ai ai cũng thừa tuyệt kỹ, diệu tài, phần đông đều thích ẩn mình, giấu mặt, chỉ có một thiểu số xuất hiện trên giang hồ, trong đó, có lịnh sư là một …

Quan Sơn Nguyệt lại hỏi:

– Trong thiểu số đó, còn những ai, ngoài ân sư của ta?

Kỳ Hạo lắc đầu:

– Ta không tiện tiết lộ.

Quan Sơn Nguyệt suy tư một lúc, lại chuyển đề:

– Phong Thần Bảng là cái bảng gì?

Kỳ Hạo giải thích:

– Long Hoa Hội gồm một trăm lẻ tám hội viên, ba mươi sáu người đứng tên trong Tiên Bảng, bảy mươi người đứng tên trong Ma Bảng. Ngoài ra còn có bảng phụ, gọi là Quỷ Bảng. Thập Đại Du Hồn, dưới quyền sử dụng của ta, thuộc về Quỷ Bảng. Ngươi thấy đó, có tất cả hai bảng chánh và một bảng phụ:

Tiên Bảng, Ma Bảng và Quỷ Bảng.

Những điều hắn vừa tiết lộ. Quan Sơn Nguyệt có tưởng tượng trước, đại khái cũng chẳng sai lệch bao nhiêu. Chàng hỏi:

– Lấy gì làm chuẩn để phân biệt ba bảng, Tiên, Ma và Quỷ?

Kỳ Hạo mỉm cười:

– Ngươi hỏi thế, chứ ta đoán là ngươi có hiểu phần nào rồi. Tự nhiên phải căn cứ trên tài nghệ, và người giỏi nhất, được ghi tên vào Tiên Bảng, ngươi có bậc trung được liệt vào Ma Bảng, phần còn lại, sẽ là bảng viên của Quỷ Bảng.

Hắn kết luận:

– Ba bảng hợp lại, tức là Phong Thần Bảng.

Quan Sơn Nguyệt hỏi tiếp:

– Ngươi thuộc về bảng nào?

Kỳ Hạo cười nhẹ:

– Danh hiệu của ta là Thiên Tề Ma Quân, tự nhiên thuộc về Ma Bảng ta là thủ lĩnh quần ma, phàm những người được liệt tên trên Ma Bảng, đều thuộc quyền thống trị của ta.

Lạc Tiểu Hồng chớp mắt, hỏi:

– Mẹ ta, dì và dượng ta, có phải là người trong Ma Bảng chăng?

Kỳ Hạo gật đầu:

– Phải. Cho nên, họ chẳng dám cãi lịnh ta.

Lạc Tiểu Hồng cau mày:

– Còn Hồ Hải Dị Tẩu?

Kỳ Hạo đáp:

– Lão ấy thuộc về Tiên Bảng.

Lạc Tiểu Hồng «hừ» một tiếng, bĩu môi:

– Cái lão vô dụng đó, xứng đáng gì lại được liệt tên trong Tiên Bảng chứ?

Kỳ Hạo cười ha hả:

– Cô nương nói đúng! Bởi thế, tại hạ có cái nhận xét này, là Ma Bảng không hẳn kém Tiên Bảng, do đó tại hạ dám nêu câu liễn nơi trước cửa, cho rằng Ma cảnh có thể đẹp hơn Tiên cảnh, chắc các vị có đọc qua đôi liễn đó, lúc mới đến chứ?

Đối với Lạc Tiểu Hồng, là một nữ nhân, hẳn không tiện xưng là ta, mà phải dùng hai tiếng tại hạ, bởi dù sao thì hắn cũng chẳng thể có thái độ quá cộc lốc đối với nữ nhân, dù nàng cứ gọi hắn là ngươi.

Quan Sơn Nguyệt trầm ngâm một lúc lâu rồi cất tiếng:

– Ngoài cái quyền thống trị quần ma, ngươi còn uy lực chi khác chăng?

Kỳ Hạo mỉm cười:

– Ta chấp chưởng hình luật của Phong Thần Bảng, chức vị của ta trong Long Hoa Hội, là Tư Pháp, phàm người trong Tiên, Ma nhị bảng đều phải bị ta giám thị, bất quá, đối với người trong Tiên Bảng thì ta ít nghiêm khắc hơn phần nào vậy thôi.

Quan Sơn Nguyệt chớp mắt:

– Ân sư ta có bị ngươi giám thị chăng?

Kỳ Hạo thoáng biến sắc, suy nghĩ một chút, đoạn đáp:

– Không! Lão ấy là một Hội Chủ, địa vị ngang ta, chẳng ai quản trị ức chế ai được.

Nhất Luân Minh Nguyệt chen vào:

– Ma Quân nói thế, chứ Hội Chủ có quyền hành hơn Ma Quân nhiều. Có lúc Ma Quân phải tuân lịnh Hội Chủ.

Kỳ Hạo nổi giận:

– Lần đại hội sắp tới đây, tại hạ sẽ tranh chức Hội Chủ, lúc đó thì đừng hòng lão ấy ức chế tại hạ được.

Quan Sơn Nguyệt lại hỏi:

– Ai phát khởi Long Hoa Hội?

Kỳ Hạo, Nhất Luân Minh Nguyệt và Vạn Lý Vô Vân, luôn cả Khôi Y Thị Giả cùng biến sắc.

Vạn Lý Vô Vân cao giọng:

– Tiểu tử không nên tìm hiểu điều đó.

Quan Sơn Nguyệt lấy làm kỳ:

– Tại hạ không thể đề cặp đến vấn đề đó à?

Kỳ Hạo chưa hết kinh hãi, gật đầu:

– Đúng. Ngươi có thể hỏi mọi việc, trừ việc đó, bởi thuộc về trọng cấm.

Hiện tại, ngươi chưa nhập hội, nên chẳng đáng gọi là một cái tội, chứ nếu ngươi nhập hội rồi, mà còn hỏi như vậy, là khó tránh mình bị hình phạt.

Quan Sơn Nguyệt suy nghĩ một chút:

– Thế thì ta đặt câu hỏi khác. Trong Bảng Phong Thần, người có quyền oai cao lớn hơn hết, là ai?

Hình thức của câu hỏi, hoàn toàn khác, song cái ý thì hoàn toàn giống. Hỏi như vậy, có thể người ta đáp lời được. Cho nên, Kỳ Hạo do dự giây lâu, rồi thốt:

– Người có quyền uy tối thượng, là bốn vị Hội Chủ, có điều chỉ là quyền tượng trưng mà thôi, chứ chẳng phải thực quyền. Người có thực quyền chính là ta, bởi ta quyết định sự sanh tồn tử vong của tất cả. Ngươi biết không, danh hiệu của ta là Thiên Tề Ma Quân, mà Thiên Tề có nghĩa như thế nào?

Bây giờ, hắn tỏ vẻ đắc ý, hắn quên mất cái bực vừa rồi do Nhất Luân Minh Nguyệt gây cho hắn khi tiết lộ là một hội chủ có quyền ức chế hắn.

Quan Sơn Nguyệt cười lạnh:

– Nói vậy thì tại Tiểu Tây Thiên, ngươi là người có quyền hạn cao nhất?

Kỳ Hạo mỉm cười, gật đầu:

– Phải, chỉ trừ Thiên Ngoại Thiên …

Quan Sơn Nguyệt trố mắt:

– Thiên Ngoại Thiên là gì?

Kỳ Hạo lỡ lời, biến sắc mặt xanh dờn. Hắn có cái vẻ một kẻ phạm trọng tội, một tội bất xá. Hắn nhìn quanh một vòng, xem có kẻ nào nghe lọt câu nói của hắn chăng, kẻ đó hiển nhiên phải là ngoài bọn Quan Sơn Nguyệt, nếu có.

Nhất Luân Minh Nguyệt và Vạn Lý Vô Vân cũng biến sắc như hắn, mặc dù không phải hai vị nói lên câu đó. Hai vị cũng ngưng thần nghe ngóng.

Không lâu lắm, từ trên không, có tiếng âm nhạc phát sanh, vọng đến sảnh đường. Tiếng nhạc lạ lùng, không do dây tơ, dây đồng, mà cũng chẳng phải trúc.

Tiếng nhạc kỳ lạ đó, êm dịu vô cùng.

Tiếng nhạc vang lên từ xa xa, nghe văng vẳng, dần dần âm thinh lớn, cuối cùng thì nghe rất gần.

Rồi mọi người lại ngửi một mùi hương, cũng lạ như tiếng nhạc.

Kỳ Hạo nghe tiếng nhạc, đã quỳ xuống, Khôi Y Thị Giả đứng sau lưng hắn, cũng quỳ theo, đầu của y cúi thấp quá, hầu như sát mặt đất.

Quan Sơn Nguyệt và những người kia, đều giật mình.

Nhưng, Quan Sơn Nguyệt, Lạc Tiểu Hồng, Lưu Tam Thái và Lử Vô Úy dù sao cũng chỉ là người ngoài hội, có sợ là sợ biến cố gì đó phát sanh bất ngờ, không lợi cho họ, chứ họ có biết tiếng nhạc và mùi hương kia báo hiệu sự việc gì, như bọn Kỳ Hạo mà phải sợ hãi cực độ như họ?

Riêng Nhất Luân Minh Nguyệt và Vạn Lý Vô Vân, tuy đã bị xóa tên trong bảng, vẫn còn giữ cái hơi hướm của người trong hội, huống chi, cả hai lại nuôi hy vọng phục hồi ngôi vị cũ, họ biết rõ sự gì sắp đến như Kỳ Hạo và Tiêu Nhất Bình họ cũng sợ như Kỳ Hạo và Tiêu Nhất Bình, có điều họ không quỳ xuống. Họ không quỳ song, họ không dám ngồi, đứng lên, đứng thẳng mình, hai tay buông thõng, dáng trang nghiêm phi thường.

Chừng như cả hai rung rung người, y phục của họ lung linh, dù lúc đó chẳng có một ngọn gió nào từ bên ngoài thổi vào đại sảnh.

Không lâu lắm, có bóng người chớp lên nơi cửa đại sảnh.

Đầu tiên, là hai bóng, hai bóng đó là hai tiểu tỳ nữ, tuy còn nhỏ mà nàng nào cũng đẹp, tinh anh phát tiết sớm quá!

Những người có tinh anh phát tiết sớm như vậy, hẳn phải có vũ công cao, điều đó chứng tỏ hai tiểu tỳ nữ này có vũ công rất khá, và tỳ nữ đã vậy, đương nhiên chủ nhân phải là một nhân vật siêu phàm.

Mỗi tỳ nữ cầm một chiếc đèn Lưu Ly Thất Bửu, đèn tỏa sáng như ngàn sao kết tinh lại.

Đôi tỳ nữ cầm đèn vào rồi, một đôi khác tiếp nối, cũng đồng trạc tuổi với đôi trước. Mỗi nàng sau cầm một chiếc lư bằng vàng, tượng hình thú lạ, từ lòng lư bốc lên một ngọn khói nhạt, xanh.

Mùi hương lạ tỏa ra trong đại sảnh, chính là mùi khói của hai chiếc lư vàng.

Sau cùng, là một mỹ nhân, y gấm.

Gấm, chẳng phải dệt bằng tơ, lụa, gấm dệt bằng lông chim công, hay nói đúng hơn, y phục đó, bằng lông công kết lại, màu sắc chói lọi, thoạt nhìn, đôi mắt phải chóa lên ngay.

Mỹ nhân vấn tóc cao, để lộ rõ gương mặt đẹp tuyệt vời. Nữ nhân có thần thái siêu phàm, thoát tục. Nếu cho rằng nữ nhân là một tiên nữ lâm trần, điều đó không sai sự thật lắm bởi tiên nữ dù đẹp, cũng chỉ đẹp như vậy thôi, không hơn.

Tiên nữ dù phiêu nhiên, thanh thoát, cũng chỉ như nữ nhân thôi không hơn.

Nữ nhân vào đại sảnh, nhìn thoáng qua bọn Quan Sơn Nguyệt, Lạc Tiểu Hồng, Lử Vô Úy và Lưu Tam Thái vẫn ngồi trơ nơi ghế, bất giác cau đôi mày liễu.

Đôi mày cau lại, tạo một vẻ đẹp mê hồn cho gương mặt đã đẹp tuyệt vời. Đoạn, nữ nhân hỏi:

– Những ai thế?

Kỳ Hạo còn quỳ trên nền sảnh, cạnh chiếc ghế của hắn, đưa tay chỉ Quan Sơn Nguyệt đáp:

– Truyền nhân của Độc Cô Minh.

Nữ nhân cau mày thêm chút nữa:

– Truyền nhân của Độc Cô Minh? Độc Cô Minh là ai?

Dù ngu xuẩn đến đâu, trông qua sự tình, Quan Sơn Nguyệt cũng hiểu nữ nhân có thân phận rất cao. Muốn nhân dịp này đối thoại với nữ nhân, chàng đáp chận Kỳ Hạo:

– Gia sư có hiệu trên Tiên Bảng, người là Hoàng Hạc Tán Nhân!

Nữ nhân thoáng giật mình:

– Thì ra là lão ấy … Lão có diễm phúc đấy chứ, chọn được một truyền nhân rất khá!

Và vừa thốt, vừa nhìn Quan Sơn Nguyệt, nhìn chăm chú quá làm Quan Sơn Nguyệt hơi ngượng.

Để phá tan niềm ngượng, chàng hỏi:

– Bà là ai?

Nữ nhân cười nhẹ:

– Ngươi hỏi như vậy là vô lễ đấy nhé!

Quan Sơn Nguyệt trầm giọng:

– Tại hạ với bà, là hai người xa lạ, tại hạ không hề bị ràng buộc với bà bằng một ân oán nghĩa vụ nào cả, thì hỏi như vậy có gì là thất lễ đâu? Giả như bà là người có thân phận cao tại đây, cái thân phận đó chẳng ảnh hưởng chi đến tại hạ, bất quá tại hạ muốn biết, như vậy là vô lễ sao?

Nữ nhân lại cười:

– Người muốn hỏi Thiên Ngoại Thiên là cái chi, phải không? Ta chính là …


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.