Võ Lâm Phong Thần Bảng

Chương 49 - An Bày Diệu Kế

trước
tiếp

Cuộc chiến của bốn người biểu hiện rõ rệt sự tranh chấp giữa chánh và tà, một cuộc chiến quyết định an nguy của vũ lâm, kiếp vận của giang hồ.

Thiên Ma Giáo do dư đảng Long Hoa Hội lập thành, tự nhiên có cái hơi hướm gian tà, lại chính là Tạ Linh Vận lãnh đạo, thì cái gian tà đó càng rõ rệt hơn nữa.

Một bên, là chánh và phó giáo chủ, bên kia dù chưa có thân phận gì mới mẻ, song lại là những cột trụ của số người khuông phò chánh nghĩa, là niềm hy vọng của những ai còn biết tôn trọng đạo lý, công bằng.

Bởi những người lâm chiến có địa vị quan trọng như vậy, ai ai cũng chú ý theo dõi từng động tác một của họ. Nhưng, cuộc chiến giữa Lưu Ảo Phu và Quan Sơn Nguyệt mới là cái mục tiêu chính của bao nhiêu cặp mắt bên cánh Quan Sơn Nguyệt.

Lưu Ảo Phu sử dụng thanh kiếm Tử Sính, một trong năm thanh kiếm quái dị, hy hữu, có hiệu năng thần diệu, giá trị trên hẳn thanh kiếm Bạch Hồng, chặt sắt như chặt vào bùn, vũ khí thường không chịu đựng nổi cái chạm của nó.

Thoạt đầu, ai ai cũng lo sợ cho Quan Sơn Nguyệt, chính chàng cũng hơi ngán thanh kiếm đó, nhưng trong cái thế chẳng đặng đừng, bắt buộc chàng phải nghinh chiến đó thôi. Ngờ đâu, gặp chiếc Độc Cước Kim Thần của chàng, thanh kiếm Tử Sính như mất hết hiệu năng, trở thành vô dụng. Chẳng rõ chiếc Kim Thần của chàng được chế luyện bằng loại kim khí gì, gọi rằng Kim Thần chứ không hẳn là bằng vàng. Tử Sính Kiếm chạm vào, kêu cốp cốp, thế mà chẳng sao cả, bất quá chỉ lưu lại một vết trầy trụa vậy thôi. Cho nên muốn chém đứt chiếc Kim Thần của chàng, Lưu Ảo Phu phải chém hằng ngàn, hằng vạn nhát kiếm. Song, chém được một ngàn, một vạn nhát kiếm, tất phải sử dụng một ngàn, một vạn chiêu thức, đó là không kể những chiêu hụt.

Trên thế gian, có cao thủ nao đánh đủ hằng ngàn, hằng vạn chiêu chăng?

Nhất định là không có rồi, và như vậy thì Lưu Ảo Phu không hy vọng gì phá hủy vũ khí của Quan Sơn Nguyệt.

Ngoài ra, nào phải Quan Sơn Nguyệt chỉ đón đỡ hoặc tránh né mà thôi đâu?

Chàng vẫn phản công chứ!

Lưu Ảo Phu gặp cái bất lợi đó, thì Quan Sơn Nguyệt cũng chẳng hơn gì, bởi chiếc Kim Thần quá nặng, chàng không thể dùng nó mà xuất phát những chiêu thức học được lúc sau nầy, do đó chàng cũng không tạo được một ưu thế.

Tuy nhiên, Quan Sơn Nguyệt không mong cầu gì hơn là cầm cự được với Lưu Ảo Phu, miễn sao chàng giữ được thế quân bình là đủ. Chàng tin tưởng là nếu cuộc chiến kéo dài, thì Lưu Ảo Phu sẽ bại vì mệt mỏi. Chàng sinh ra, với một thần lực phi thường, sức chịu đựng dẻo dai, cuộc chiến càng về khuya, công lực của chàng càng gia tăng, chứ không hề giảm, như thế là Lưu Ảo Phu phải bị chàng hạ.

Cuộc chiến giữa Nguyệt Hoa Phu Nhân và Tạ Linh Vận cũng không kém phần ác liệt, cả hai đều là kiếm thủ hữu danh, họ gặp kẻ đồng tài nên sử dụng toàn những chiêu thức ngụy dị, hiểm độc.

Thực tình mà nói, Nguyệt Hoa Phu Nhân cầm cự được với Tạ Linh Vận, là nhờ kiếm thuật của bà có phần cao minh hơn Tạ Linh Vận, chứ thanh kiếm Hoàng Diệp của bà kém thanh Thanh Sách của Tạ Linh Vận một bậc. Bà phải chật vật né tránh những cái chạm mà Tạ Linh Vận cố tình gây nên, với mục đích hủy diệt kiếm của bà.

Người trong cuộc chiến khẩn trương đã đành, người ngoài cuộc cũng khẩn trương không kém. Ai ai cũng mong phe mình thắng thế, ai ai cũng sợ phe mình thất bại, nhưng chẳng một ai xông vào can thiệp, vì một sự tiếp trợ trong trường hợp nầy, đều có cái phản tác dụng tinh thần, là hạ thấp giá trị của người lâm chiến. Họ không tham chiến trực tiếp, song họ cũng cân nhắc lực lượng song phương.

Bên cánh Tạ Linh Vận, nhân số không nhiều, một Thị Tràng vẫn còn ở ngoài vòng. Thuộc hạ chân chánh của Tạ Linh Vận hiện tại, chỉ có một Tây Môn Vô Diệm, Kích Trúc Sanh và Kỳ Hạo.

Là người trong Long Hoa Hội, họ phải hiểu thực lực của nhau, Tây Môn Vô Diệm thì biết rõ không thủ thắng nổi trước Lý Trại Hồng, còn Kích Trúc Sanh thì đã có lần bị Nhàn Du Nhất Âu đánh bại.

Còn lại một Kỳ Hạo, đành rằng cầm cự nổi với Quan Sơn Nguyệt qua một cuộc đấu khá lâu, song bên cánh địch còn thừa đến hai người, là Vạn Lý Vô Vân và Nhất Luân Minh Nguyệt, hai người nầy liên thủ là hắn không hy vọng đắc ý.

Đã vậy, còn có Xà Cơ Giang Phàm trong bọn của Quan Sơn Nguyệt, nàng có tài nghệ như thế nào, Kỳ Hạo thừa hiểu, nếu nàng xuất trận, thì hắn mong gì thủ thắng?

Giả như Thị Tràng có nóng nảy mà vào cuộc, thì bên cánh địch vẫn còn Nhập Hoạch, một Nhập Hoạch cũng đủ sức cầm chân Thị Tràng kia mà!

Đó là không kể đến bọn Cầm Khiêu, Tư Kỳ cũng có mặt trong đoàn.

Nhàn Du Nhất Âu thấy rõ ưu điểm của cánh nhà, liền bước tới Lý Trại Hồng, thốt:

– Lý Tiên Tử! Giả như chúng ta muốn diệt trừ vây cánh của Tạ Linh Vận, thì đây là cơ hội tốt nhất cho chúng ta hạ thủ đó. Tạ Linh Vận bị phu nhân cầm chân, chúng ta còn sợ ai nữa?

Lý Trại Hồng suy nghĩ một chút, toan biểu hiện sự đồng ý, nhưng bên đối phương chừng như đã có cảnh giác trước rồi. Thị Tràng khẽ chớp thân mình, vung kiếm bước tới, đồng thời cao giọng thách:

– Nếu các ngươi muốn khởi diễn một cuộc hỗn chiến, thì ta không hề phản đối, tuy nhiên, nếu có tên nào tự cho rằng tài nghệ cao siêu, tên đó cứ bước ra, so mấy chiêu với ta xem ai hơn ai kém.

Lý Trại Hồng nhìn sang bọn Nhập Hoạch, như ngầm bảo:

“Nàng ấy là người của Quảng Hàn Cung, đồng bạn của các ngươi ngày trước, chính các ngươi phải xuất đầu đối phó mới hợp lý.”.

Tư Kỳ vốn nóng tính, bước ra liền, cao giọng mắng:

– Con xú phụ kia, ngươi là người của Quảng Hàn Cung, lại sanh lòng phản bội phu nhân, ta không thể tha thứ cho ngươi được. Hãy bước lại đây, cúi đầu nhận tội!

Vũ khí của Tư Kỳ là một chiếc bàn cờ, y cầm bàn cờ vụt sang Thị Tràng, một góc bàn cờ nhắm ngay đầu Thị Tràng lao tới.

Thị Tràng cười lạnh một tiếng, vung kiếm gạt chiếc bàn cờ vẹt ra ngoài.

Tư Kỳ giật mình. Y hết sức lấy làm lạ, trong cung Quảng Hàn, luận tài nghệ của bảy thị giả, thì người có kiếm thuật cao hơn hết, là Đạn Kiếm. Đạn Kiếm chết rồi thì chỉ còn Nhập Hoạch trổi hơn nội bọn. Vũ công của Thị Tràng, bất quá chỉ hơn mỗi một mình Chữ Trà mà thôi. Nhưng tại sao Thị Tràng có thể phát xuất một chiêu kiếm có oai lực phi thường? Chẳng lẽ ngày nay vũ công của nàng tiến triển đến mức độ vượt xa toàn thể bọn thị giả?

Đứng bên ngoài, Cầm Khiêu và Thị Thơ cũng có nhận xét như Tư Kỳ, cả hai sợ Tư Kỳ sơ thất, không hẹn mà đồng vào cuộc ngay. Cầm Khiêu vung đàn, Thị Thơ vung bút, tiến công Thị Tràng, trong khi đó, Tư Kỳ cũng vụt chiếc bàn cờ đánh tiếp.

Thị Tràng không hề nao núng, ung dung cử kiếm hất ba món vũ khí của đối phương lộn trở về.

Nhập Hoạch tức uất, dùng hai tay không gia nhập cuộc chiến liền, tuy chẳng có vũ khí, nàng vẫn tỏ ra lợi hại chẳng kém ba người kia.

Thế là một trận chiến mới, được khai diễn với số người quá chênh lệch, một bên bốn, một bên một.

Thị Tràng bình tịnh giao đấu, thanh kiếm của nàng loang loáng như ngàn ánh sao sa, nàng hóa giải thế công của đối phương rất dễ dàng, thành thử cả bốn người bị dồn về thế thủ, mà lại thủ một cách rất khó khăn.

Nhất Âu thấy cuộc hỗn chiến đã khai diễn rồi, cũng rút kiếm cầm tay, tiến tới trước mặt Kích Trúc Sanh, cười nhẹ một tiếng, thốt:

– Ngươi nghĩ sao, chẳng lẽ chúng ta chẳng có công việc gì để làm?

Kích Trúc Sanh không màng đến lão, chính Kỳ Hạo lại bước ra đánh chận:

– Ngươi quyết tâm muốn chết, thì ta cũng chịu khó thành toàn ý nguyện của ngươi!

Nhất Âu nổi giận:

– Cút đi nơi khác ngay, ngươi xứng đáng chi đó mà dám ngông nghênh trước mặt lão phu?

Kỳ Hạo cười mỉa:

– Ngươi đừng tưởng đây là Thần Nữ Phong, và nên thức ngộ là Long Hoa Hội đã cáo chung từ lâu rồi! Trong Thiên Ma Giáo, ta có thân phận cao hơn Kích Trúc Sanh một bậc đấy, ngươi khiêu chiến lão ấy, thì người cấp trên của lão vẫn có đủ tư cách đối phó với ngươi, nếu không nói là nhiều hơn! Ta đích thân đối phó với ngươi, là ta tự hạ mình, chính ngươi có vinh dự hơn nhiều!

Vẻ bất bình hiện lộ rõ rệt nơi gương mặt của Kích Trúc Sanh, song lão ta không hề mở miệng phản đối. Lão không phản đối, là mặc nhiên nhìn nhận mình có địa vị thấp hơn Kỳ Hạo, Kỳ Hạo đã nói đúng sự thật.

Nhất Âu sửng sốt một chút, sau cùng gọi Kích Trúc Sanh:

– Ngươi không sính bằng một tiểu tử như thế à? Đã không được trọng dụng thì ngươi còn chui đầu vào Thiên Ma Giáo mà làm gì cho chúng khinh? Ta thật tình bất mãn thay cho ngươi đó! Ngươi cam chịu khuất phục dưới sự điều khiển của bọn vô dụng như vậy, thì đúng là một sự lạ lùng.

Kích Trúc Sanh thẹn đỏ mặt. Nhưng, lão ta vẫn im lặng, chẳng thốt một tiếng nào, bất quá lão chớp đôi mắt mấy lượt vậy thôi.

Nhất Âu thở dài, tiếp:

– Mỗi người có một chí hướng, ngươi làm sao thì làm, ta không có quyền can thiệp vào công việc của ngươi, song nghĩ lại ngày nào Hoàng Hạc tiến cử ngươi đảm nhận chức đại hội chủ trong Long Hoa Hội, ta không khỏi chạnh lòng trước sự xuống dốc của ngươi hiện tại!

Kỳ Hạo biết là Nhàn Du Nhất Âu đang khiêu khích Kích Trúc Sanh để thực hiện kế ly gián, không cho lão kéo dài cuộc đối thoại với Kích Trúc Sanh nữa, hắn vội vung kiếm chém tới.

Nhất Âu không dám khinh thường, cử kiếm ngăn chặn liền.

Tây Môn Vô Diệm không đợi Lý Trại Hồng khiêu chiến, tự động lướt tới, tuốt kiếm khỏi vỏ, gọi:

– Lý sư tỷ! Chúng ta cũng nhập môn một lượt, vì các người thì có nhan sắc nên được ưu đãi, nuông chiều, liệt ngay vào Tiên Bảng, còn tôi xấu xí nên bị bỏ rơi, phải nhập vào Quỷ Bảng, tôi làm sao chịu nổi sự bất công đó? Tôi bất phục từ phút giây đầu tiên, tôi ôm hận mãi, chực chờ cơ hội để phát tiết khí hận phần nào. Thì, cái cơ hội đó giờ đây đã đến, tôi muốn lãnh giáo một vài chiêu của sư tỷ, thử xem Tiên Bảng hơn Quỷ Bảng ở điểm nào!

Lý Trại Hồng không đáp, vung kiếm bước ra, song phương mở thêm một mặt trận nữa, cũng ác liệt như các mặt trận kia.

Chiến cuộc đã khai diễn toàn diện rồi, gồm năm mặt trận với mười ba người tham gia, tuy nhiên bốn mặt trận kia thì gay go, nặng nề, chỉ có mặt trận của Lý Trại Hồng và Tây Môn Vô Diệm, tuy vẫn ác liệt, nhưng song phương rất ung dung, tiến thoái nhẹ nhàng.

Họ xuất toàn chiêu độc, song chẳng phải vì tư thù thâm sâu mà họ bắt buộc phải tử đấu với nhau, bất quá họ muốn so tài hơn kém, bởi họ là đồng môn sư tỷ muội, họ như hiểu rõ tài nghệ của nhau, người nầy công thì người kia phá. Trông vào họ, ai cũng có cảm nghĩ là họ luyện tậm với nhau vậy thôi.

Nhìn qua cục diện, chỉ thấy mặt trận của Thị Tràng là nhiệt náo hơn hết. Một mình nàng, chống lại bốn người, kiếm pháp không rối loạn, tỏ rõ cái oai phong của kẻ có thực tài.

Thực ra, nàng có bản lĩnh khá cao, chỉ vì tại Quảng Hàn Cung, nàng không hề biểu thị mức thành tựu cho bất cứ ai biết được, do đó các thị giả kia đánh giá nàng một cách lầm lẫn, họ khinh thường nàng, nàng cam tâm ẩn nhẫn, không một lời phản kháng.

Tự nhiên nàng chưa phải là thánh nên phải căm hận khi bị người miệt thị, nàng ôm mối hận đó suốt thời gian qua, hằng chực dịp phát tiết khí uất. Và cái dịp đó đã đến với nàng hôm nay, cũng như cái dịp chờ đợi của Tây Môn Vô Diệm đã đến rồi. Thì, có bao nhiêu sở năng, nàng mang ra thi thố trọn vẹn. Cho nên, những chiêu thức do nàng phát xuất, đều hàm sút sát cơ, nếu đối phương không nhờ đông người, người nầy chiếu cố đến người kia, tiếp trợ nhau, thì hẳn là đối tượng của nàng phải bị hạ từ lâu lắm rồi.

Song phương còn thừa lại bốn người, đứng ngoài vòng chiến.

Bên cánh Tạ Linh Vận, là Kích Trúc Sanh, bên cánh Quan Sơn Nguyệt, là Vạn Lý Vô Vân, Nhất Luân Minh Nguyệt và thêm Giang Phàm.

Vì sống biệt lập với thế nhân hơn mười mấy năm dài, Giang Phàm thuần phác như trẻ thơ ngây, đến độ nàng quên mình thuộc cánh nào, đứng một góc riêng biệt, nàng nhìn cuộc chiến thấy ai thắng thế nàng vỗ tay reo hò tán thưởng, bất cần người thắng thế ở bên cánh nầy hay cánh kia.

Vạn Lý Vô Vân và Nhất Luân Minh Nguyệt cùng có ý nghĩ như nhau, là cả hai xuất thủ, thì đối tượng của họ là Kích Trúc Sanh, nhưng qua lời trách cứ của Nhàn Du Nhất Âu, họ thấy thương hại Kích Trúc Sanh, thất cơ phải chịu phận thấp dưới tay người. Cho nên, mọi người đã tham gia cuộc chiến, riêng cả hai còn đứng nguyên tại chỗ.

Nhưng, Kích Trúc Sanh khi nào chịu để yên cho họ? Lão khích:

– Người ta đều có công việc làm cả, sao hai người không thử hoạt động như họ xem sao?

Vạn Lý Vô Vân lạnh lùng:

– Chúng ta đâu phải lánh nhọc tìm nhàn? Thực sự thì chúng ta không thấy cái hứng động thủ với ngươi.

Kích Trúc Sanh hơi thẹn, vì thẹn nên sanh hận, lão cao giọng trách:

– Nhất Âu còn có thể có cái thái độ khinh ngạo được, chứ các ngươi là cái quái gì mà cũng dám giở thói cao hãnh?

Nhất Luân Minh Nguyệt bật cười ha hả:

– Đành rằng chúng ta chẳng ra cái quái gì, song ít nhất chúng ta cũng chẳng phải khuất mình cúi mặt trước một tiểu bối hậu sanh, mặc cho hắn nặng nhẹ khinh khi tùy thích! Ta nghĩ, với mái tóc pha sương đó, ngươi lại để cho một tiểu tử lấn áp, thì cái kiếp đời của ngươi tủi hổ quá chừng! Ngươi hẳn cũng tức uất chứ, bởi tức uất nên ngươi tìm nơi phát tiết, phải không? Ngươi hãy đi tìm nơi khác mà phát tiết, chứ chúng ta thì thật tình chẳng dám lãnh giáo ngươi đâu!

Kích Trúc Sanh trầm gương mặt:

– Các ngươi nói mà có suy nghĩ hay chăng? Cái gã Quan Sơn Nguyệt kia, có bao nhiêu niên kỷ? Sao các ngươi gầm đầu mà đi theo gã như kẻ mù được dắt dìu trên mọi nẻo đường? Ta nghĩ, các ngươi ngày trước có thọ giáo với Hoàng Hạc, nên xem Quan Sơn Nguyệt như bạn đồng môn! Các ngươi là hậu bối của Hoàng Hạc chắc!

Vạn Lý Vô Vân cười vang:

– Kỳ Hạo sánh được với Quan công tử của ta sao chớ? Hà huống, chúng ta vì cái việc công ích, họp đoàn cùng Quan công tử, mở chiến dịch diệt ác trừ hung.

Việc làm của chúng ta là một sự hợp tác, không hơn không kém, không ai phải tuân mạng lịnh của ai, đó là chúng ta chưa nói đến cái việc Quan công tử trong lối xử sự hằng ngày, tôn kính chúng ta là bật tiền bối, chẳng hề buông lời vô lễ! Còn ngươi, là cái gì bên cạnh Kỳ Hạo nếu không là một thuộc hạ của hắn, tùy thời, tùy khắc, theo cái hứng mà hắn ra lịnh sai khiến ngươi, bất chấp ngươi niên cao kỷ trọng? Bằng cớ là vừa rồi, hắn gọi ngay cái tên của ngươi, chúng ta tưởng ngươi đã chấp nhận hắn là bạn vong niên rồi đấy!

Kích Trúc Sanh biến sắc mặt sanh rờn, song đôi mắt của lão ta lại đỏ lên.

Bất thình lình, lão cử chiếc vũ khí có hình dáng cực kỳ ngụy dị, màu đen sì, trông giống cái bát sành, phía sau có một cái cán.

Vạn Lý Vô Vân cười lớn:

– Kích Trúc Sanh! Ta thấy ngươi càng ngày càng đáng thương hại quá chừng. Thế Thiên Ma Giáo không nuôi ăn ngươi sao, mà ngươi phải vác bát xin cơm ven theo đường?

Kích Trúc Sanh rung người lên, dù lão có muốn nói gì cũng chẳng nói thành lời, bởi môi lão rung, lão líu lưỡi lại.

Lão đưa bàn tay tả lên, dùng ngón áp út móc vào chiếc vòng nhỏ nơi cán vũ khí, lảy nhẹ.

Một tiếng vang quái dị chấn dội màng tai, từ lòng chiếc bát bay ra một điểm đen, điểm đen lao vút tới, nhắm vào mặt Vạn Lý Vô Vân bắn vào.

Vạn Lý Vô Vân khẽ phất ống tay áo lên. Lão chẳng biết điểm đen đó là vật gì, song thấy cái đà bay của nó không mạnh lắm, nên tưởng rằng tay áo phất nhẹ của lão cũng đủ gạt bắn nó ra ngoài.

Nhưng, sự thực trái ngược với ức đoán của lão, điểm đen đó, chừng như vô hình mà cũng chừng như hữu thể, xuyên qua ống tay áo, chạm đúng giữa sống mũi của lão.

Không kịp kêu lên một tiếng, Vạn Lý Vô Vân ngã ngửa về phía hậu.

Nhất Luân Minh Nguyệt nhìn xuống, thấy Vạn Lý Vô Vân tắt thở rồi. Bất giác, lão sôi giận, quên mất sợ hãi, quay đầu trừng mắt nhìn Kích Trúc Sanh, hét:

– Ngươi dùng thủ pháp gì …

Kích Trúc Sanh lại đưa cao chiếc bát, bật cười âm trầm:

– Ta dùng cái món nầy đây, ngươi có thấy qua chứ?

Nhất Luân Minh Nguyệt sững sờ!

Một chiếc bát tầm thường quá, chẳng có đặc điểm gì cả, thế mà Vạn Lý Vô Vân bị sát hại nhanh chóng, chẳng kịp có một phản ứng gì!

Kích Trúc Sanh bật cười dài, trong tiếng cười, ẩn ước có sự thê thảm, hận uất, hòa lẫn niềm đắc ý. Rồi lão ngưng cười, tiếp:

– Ta nghĩ là ngươi không nhận ra đâu, vậy ngươi hãy nghe ta nói đây! Nó là chiếc nhạc khí rất cổ, ngày xưa chỉ có mỗi một Cao Tiệm Ly biết sử dụng mà thôi.

Nếu trước kia, Cao Tiệm Ly được thủ pháp bằng ta ngày nay, thì Tần Chánh đã chết nghèo trước khi gồm thâu lục quốc rồi, có đâu sau nầy dựng nên nghiệp đế, đốt sách chôn nho?

Vạn Lý Vô Vân chết, mọi người rụng rời, bộ pháp, thủ pháp chậm lại ngay, song phương cùng lùi lại, giữ một khoảng cách làm đường phân đôi mặt trận. Họ dừng tay từ lúc Kích Trúc Sanh bắt đầu giải thích lai lịch vũ khí quái dị của lão.

Mọi người nghe xong, hết sức hãi hùng.

Quan Sơn Nguyệt buộc miệng kêu lên:

– Chiếc Trúc …

Kích Trúc Sanh cao giọng:

– Phải, cái hiệu của ta do nơi nhạc khí đó mà thành!

Ai ai cũng trầm lặng, suy tư.

Sau khi Kinh Kha hành thích Tần Thủy Hoàng, việc bất thành phải bị giết, thì có Cao Tiệm Ly nối tiếp.

Nghe đồn Cao Tiệm Ly có biệt tài sử dụng nhạc khí đó, Tần bạo chúa một hôm vời y vào cung, bảo y cho thưởng thức tài nghệ. Nhân lúc Tần quân xuất thần vì nhạc điệu kỳ diệu, Cao Tiệm Ly bấm nút cơ quan nơi nhạc khí, bắn viên đạn sắt, bởi y mù mắt, nên nhắm không chuẩn đích, thành thử phải mang hận mà về theo Kinh Kha dưới suối vàng. Đoạn dã sử đó mọi người đều biết, song chẳng ai hình dung được loại nhạc khí đó như thế nào, bởi nó thất truyền từ sau ngày Cao Tiệm Ly chết. Không ngờ, ngày nay, Kích Trúc Sanh lại luyện được!

Quan Sơn Nguyệt mỉa:

– Cao Tiệm Ly dùng nhạc khí đó, hành thích bạo chúa, tuy không thành công nhưng danh lưu hậu thế, còn ngươi, may mắn luyện được, lại mang nó ra mà phục vụ tà đạo, như vậy ngươi không thấy thẹn với người xưa, chẳng hổ với người nay sao? Người ta nhờ nó mà thành hiệp danh, còn ngươi dùng nó để biến mình thành ma quái.

Kích Trúc Sanh bật cười ha hả:

– Tiểu súc sanh! Ngươi đừng đem cái giọng đạo lý mà thuyết phục ta! Ta lập thân, hành sự, bình sanh bất luận thiện ác, ta cứ do cái tâm mà làm, tâm thích làm sao, ta làm làm vậy, làm việc gì mà có sướng cho ta, là ta làm. Kẻ nào chỉ trích, ta có cách đối phó với kẻ đó ngay! Đừng ai khinh thường ta!

Nhất Luân Minh Nguyệt cao giọng:

– Tạ Linh Vận đối xử với ngươi như vậy, có xứng đáng với ngươi chăng?

Hắn trọng ngươi hay khinh ngươi?

Kích Trúc Sanh biến sắc mặt.

Tạ Linh Vận cấp tốc đề cao cảnh giác, vận công giới bị.

Nhưng, Kích Trúc Sanh khôi phục thần sắc như bình thường, rồi cười nhạt, thốt:

– Tại hội Long Hoa, các ngươi khinh ngạo ta, mỉa mai chế diễu ta, tất cả đều rẻ rúng, lạnh nhạt đối với ta, chỉ mỗi một mình Giáo chủ là xem trọng ta, ta cảm kích vô cùng, Giáo chủ là người tri kỷ của ta lúc đó, thì hôm nay dù ta không được biệt đãi lắm, cũng chẳng sao, việc trước bù việc sau mà!

Tạ Linh Vận thở phào, hấp tấp thốt:

– Kích Trúc Sanh! Nhân huynh trầm tịnh đáng phục! Nếu tiểu đệ biết được nhân huynh có tuyệt kỹ như vậy, thì vô luận làm sao, tiểu đệ cũng trọng dụng nhân huynh từ lâu rồi! Tiểu đệ tin rằng nhân huynh sẵn sàng tha thứ chỗ sơ suất của tiểu đệ! Trong lúc khai cơ lập nghiệp, tiểu đệ tự nhiên phải cần có người tài ba như nhân huynh tiếp trợ …

Kích Trúc Sanh cười nhạt:

– Giáo chủ không cần phải giải thích. Nếu thuộc hạ không minh bạch, thì khi nào lại chịu lưu lại trong Thiên Ma Giáo đến ngày nay!

Tạ Linh Vận thở phào lượt nữa:

– Nếu sớm biết tuyệt kỹ của Kích Trúc huynh, thì tiểu đệ nhất định …

Kích Trúc Sanh khoát tay:

– Chẳng phải thuộc hạ giấu giếm chút nghề mọn, chẳng qua thuộc hạ không phô trương là vì chưa đến thời cơ ra sức tiếp trợ Giáo chủ đó thôi. Vừa rồi, vì tức khí mấy lão khả ố đó mà bắt buộc thuộc hạ phải xuất đầu lộ diện …

Nhất Luân Minh Nguyệt kêu lên:

– Cái công phu của ngươi đó, có gì là cho cao cường đâu? Ta xem rất thường! Vừa rồi ta mắng ngươi, bây giờ ta cũng mắng ngươi, thử xem ngươi sẽ làm chi ta!

Kích Trúc Sanh lạnh lùng cử cao chiếc nhạc khí, lảy ngón tay nơi cái khoen nhỏ. Một điểm đem bay ra, vút thẳng đến Nhất Luân Minh Nguyệt.

Lần nầy, mọi người đều có phòng bị. Không để cho điểm đen bay đến gần, bọn Quan Sơn Nguyệt năm sáu người cùng xuất thủ một lượt, mỗi người cử vũ khí của mình ngăn đón.

Nhưng không, chẳng hiểu tại sao, điểm đen vẫn xuyên lọt như thường. Nó xuyên lọt mấy món vũ khí, tự nhiên nó phải đến tận đích, trừ ra cái đích xê dịch đi nơi khác.

Cái đích không xê dịch, chẳng rõ Nhất Luân Minh Nguyệt không xê dịch, vì khinh thường, hay vì không kịp, lão ta rú lên một tiếng thảm, đưa hai tay lên mặt, hai tay chà xát, vuốt mạnh gương mặt, đồng thời ngã ngửa về phía hậu.

Lão vặn mình mấy lượt, rồi nằm bất động.

Điều làm cho mọi người kinh khiếp, là nơi khoảng giữa sống mũi của Nhất Luân Minh Nguyệt, một viên đạn sắt bám dính, mường tượng sống mũi của lão ta có thêm một con mắt thứ ba.

Cái thủ pháp giết người của Kích Trúc Sanh cực kỳ quái dị, không ai có thể phòng ngự, dù có giới bị cẩn mật.

Tạ Linh Vận vô cùng kinh dị, nhưng liền theo đó, y điểm nhanh một nụ cười, khuất lấp vẻ kinh dị. Y hướng qua Kích Trúc Sanh, tán:

– Tuyệt kỹ của Kích Trúc huynh thần diệu thật! Một chiếc Trúc nơi tay, huynh đài nghiễm nhiên trở thành vô địch trong thiên hạ! Thiên Ma Giáo có một tay bản lĩnh cao cường như huynh đài, thì còn lo gì mà thiên hạ chẳng quy về một mối!

Y khích:

– Hạ tất cả luôn đi, Kích Trúc huynh! Nếu cái bọn kia bị tận diệt thì từ nay chúng ta ăn no, ngủ yên, chẳng còn phải lo sợ hằng ngày nữa!

Ngờ đâu, Kích Trúc Sanh thu chiếc Trúc về, rồi lạnh lùng thốt:

– Điều đó thì Giáo chủ miễn cho, thuộc hạ không thể tuân mạng!

Tạ Linh Vận sửng sốt:

– Tại sao thế, Kích Trúc huynh?

Kích Trúc Sanh cười nhẹ:

– Thú rừng hết, chó săn hết, điều đó, tưởng mọi người hiện diện tại đây đều biết rõ. Khi giáo chủ được cao gối mà nằm yên, thì thuộc hạ hẳn cũng sâu mồ mà bất động trong lòng đất lạnh.

Tạ Linh Vận hấp tấp hỏi:

– Tại sao Kích Trúc huynh lại nói như thế?

Kích Trúc Sanh vẫn cười:

– Biết Giáo chủ, không ai bằng thuộc hạ. Tuy sự nhận xét do thuộc hạ vừa nêu lên, có phần nào bất kính thật, song nó đúng với sự thật. Thuộc hạ tin rằng, Giáo chủ không thể nào phủ nhận được!

Tạ Linh Vận sững sờ, thừ người ra đó, chẳng nói được tiếng nào.

Kích Trúc Sanh tiếp luôn:

– Bất quá, thuộc hạ xin nói câu nầy, là Giáo chủ yên trí, tuy thuộc hạ có cái tâm bất kính, song ý niệm của thuộc hạ mãi mãi trung thành. Lưu mạng sống cho một vài cường địch của Giáo chủ, là tự thuộc hạ tìm biện pháp bảo vệ sanh mạng của mình đó. Địch còn, là thuộc hạ còn, bởi Giáo chủ không thể làm một việc bất lợi cho Giáo chủ là trừ diệt kẻ nguy hiểm như thuộc hạ. Hẳn Giáo chủ cũng nhớ việc xưa chứ? Ngô Phù Sai chưa chết, là Văn Chủng vẫn còn được Câu Tiễn tôn trọng, thuộc hạ chẳng dám sánh mình với người xưa, song trường hợp xưa và nay chẳng khác nhau mảy mai, Giáo chủ ạ.

Lão cười chua chát, một lúc sau lão lại tiếp:

– Còn một sự kiện nầy nữa, ngoài cái nghề phóng đạn sắt giết người, thuộc hạ chẳng có một tài năng nào khác, như vậy là chẳng bao giờ thuộc hạ trở thành một lãnh tụ trong thiên hạ. Và, cũng như vậy là Giáo chủ khỏi phải sanh tâm tật đố. Giáo chủ cứ yên trí về thuộc hạ, mà đừng hoạch định mưu kế phòng bị thuộc hạ, vô ích.

Bây giờ, Tạ Linh Vận mới lấy lại bình tịnh, y bật cười ha hả, thốt:

– Kích Trúc huynh khéo lo ngại viển vông thì thôi! Tiểu đệ thấy rằng, mình còn nhờ huynh đài rất nhiều, có thể bảo là nhờ trọn đời cũng vẫn chưa đủ, thì có lý đâu lại toan tính hãm hại nhân huynh bất ngờ? Bất quá, trước kia, vì hồ đồ cho nên tiểu đệ xem thường nhân huynh. Tiểu đệ xin hứa là từ nay sẽ chẳng còn dám bạc đãi nhân huynh nữa, cái cơ nghiệp nầy, thành tựu được bao nhiêu, từ hôm nay kể như là của chung của hai chúng ta vậy!

Kích Trúc Sanh cười lạnh:

– Không cần phải thế, Giáo chủ ạ! Giáo chủ là bậc nhất thế anh hào, hùng tài đại lược, tuy nhiên cộng sự với Giáo chủ, thì nên cộng cái hoạn nạn, tuyệt đối không nên cộng cái phú quý. Có khi nào Giáo chủ an tâm ngủ ngon giấc khi bên cạnh mình luôn luôn có mặt một kẻ mà Giáo chủ sợ hãi nhất trần đời chăng?

Lão nghiêm giọng, tiếp:

– Nếu Giáo chủ không lòng khinh rẻ thuộc hạ, thì thuộc hạ ước mong có một địa vị ngang với Lưu lão đệ. Giáo chủ thì chẳng có thể có hai, song Phó Giáo chủ thì thêm một người nữa, cũng chẳng hại gì!

Tạ Linh Vận gật đầu nhanh:

– Có khó khăn gì điều đó đâu, Kích Trúc huynh! Khi chúng ta trở về tổng đàn, tiểu đệ sẽ ra lịnh triệu tập toàn thể thuộc hạ, tuyên bố là từ nay Kích Trúc huynh là vị tân nhậm …

Kích Trúc Sanh ngăn chận:

– Thế thì xin Giáo chủ trở về tổng đàn ngay!

Tạ Linh Vận giật mình:

– Về tổng đàn ngay bây giờ? Còn bọn kia?

Y đưa tay chỉ Quan Sơn Nguyệt.

Kích Trúc Sanh quét ánh mắt ngang qua bọn Quan Sơn Nguyệt một vòng, tỏ thái độ cực kỳ ngạo nghễ, buông gọn:

– Thuộc hạ nghĩ, họ vẫn sợ chết như mọi người, thì khi nào họ dám khiêu khích thuộc hạ? Tạm thời, thuộc hạ cấp cho họ một khoảng đất an toàn, là họ phải ở cách xa tổng đàn ít nhất cũng một dặm đường, bên ngoài khoảng đất đó, họ sẽ được bình an vô sự, giả như họ không thích sống nữa, thì cứ vượt khoảng cách đó, thuộc hạ sẽ vì Giáo chủ mà ngăn chặn họ cho!

Lão cười lớn, giọng cười ghê rợn làm sao, rồi lão tiếp:

– Thuộc hạ nghĩ là họ không có can đảm mạo hiểm đâu!

Sau nầy thì sao, chẳng rõ, chứ hiện tại thì bọn Quan Sơn Nguyệt đã gờm Kích Trúc Sanh lắm rồi. Điều đó thì Tạ Linh Vận hiểu lắm, y bật cười ha hả, thốt:

– Đúng vậy! Ngày nào Kích Trúc huynh còn ở trong Thiên Ma Giáo, thì ngày đó nhất định là chẳng có một ai dám xâm nhập vào nội địa của chúng ta.

Y tiếp tục cười, âm thinh càng phút càng vang dội, rồi y chuyển mình trở về tổng đàn.

Tây Môn Vô Diệm và Kỳ Họa theo sau.

Lưu Ảo Phu còn đứng bất động tại chỗ.

Kích Trúc Sanh «hừ» lạnh:

– Lưu lão đệ còn lưu luyến cái gì ở đây nữa chứ?

Lưu Ảo Phu đưa mắt thoáng qua Quan Sơn Nguyệt, đáp:

– Vấn đề giữa tại hạ và Quan Sơn Nguyệt, nhất định phải được giải quyết ngay trong ngày nay.

Kích Trúc Sanh mỉm cười:

– Tại hạ sắp sửa tiếp nhậm chức Phó Giáo chủ Thiên Ma Giáo, nếu không có Lưu lão đệ chứng kiến cuộc tấn phong, thì còn hứng thú gì cho tại hạ nữa?

Chẳng lẽ Lưu lão đệ không muốn cho tại hạ được vui một vài phút giây à?

Lão đưa tay mò mò trong mình, mường tượng là sắp sửa lấy chiếc Trúc cầm sẵn.

Cử chỉ đó, đúng là một sự uy hiếp rõ ràng, Lưu Ảo Phu hận trong lòng, song ngoài mặt thì lờ đi, vẫy tay gọi Thị Tràng:

– Về thôi! Tạm thời chúng ta buông tha cho họ, cho họ sống thêm một vài ngày nữa cũng chẳng sao!

Hắn và Thị Tràng bước đi rồi, Kích Trúc Sanh bật cười vang.

Vừa lúc lão toan chuyển bước, Quan Sơn Nguyệt cấp tốc tiến lên, quát:

– Khoan đã!

Chàng gằn giọng tiếp luôn:

– Ta không tin chiếc Trúc của ngươi là một vật lợi hại!

Kích Trúc Sanh không dừng, không quay đầu, cứ bước tới, vừa đi vừa đáp:

– Nếu ngươi không tin, thì hãy theo ta mà thực nghiệm xem, chỉ cần ngươi đặt chân vào phần đất cấm như ta vừa nói, là ngươi sẽ được giáo huấn kỹ, và ngươi mang bài học đó xuống cửu tuyền mà nghiền ngẫm.

Quan Sơn Nguyệt bước tới liền.

Những người kia không thể yên tâm để cho chàng đi một mình như vậy, nên cùng bước theo chàng.

Bây giờ, Kích Trúc Sanh mới chịu dừng chân, rồi quay mình lại, «hừ» một tiếng:

– Đúng là các ngươi không thích sống nữa rồi đó!

Quan Sơn Nguyệt ngạo nghễ:

– Phải! Ta đang muốn chết đây, chỉ sợ ngươi không có biện pháp làm cho ta mãn nguyện thôi!

Kích Trúc Sanh quay đầu nhìn lại, thấy Lưu Ảo Phu và Thị Tràng đi đã xa, lập tức lấy trong tay áo ra một cuộn giấy, rồi nhanh tay bắn sang Quan Sơn Nguyệt, sau cùng vừa quay mình phóng chân chạy đi, vừa buông gọn:

– Vội gì mà tìm cái chết gấp thế, khi tuổi còn xanh?

Cuộn giấy rất nhỏ, Kích Trúc Sanh bắn nhanh, khoảng cách rất gần, cuộn giấy rơi vào lòng bàn tay của Quan Sơn Nguyệt, những người phía sau lưng chàng chẳng trông thấy kịp. Quan Sơn Nguyệt sững sờ.

Nhất Âu thấy chàng thừ người ra đó, trong khi Kích Trúc Sanh thoát đi, lão hết sức lấy làm lạ, vội bước tới, hỏi:

– Việc gì thế, Quan công tử? Sao lại để cho lão ấy thoát đi?

Quan Sơn Nguyệt khoát tay, đoạn mở cuộn giấy ra xem. Xem xong, chàng cấp tốc bỏ cuộn giấy vào miệng, nhai nát, rồi nuốt luôn vào bụng.

Hành động của chàng gây hoang mang cho tất cả mọi người.

Chàng không biểu hiện một thái độ nào cả, chỉ vẫy tay bảo mọi người lùi lại, rồi buông gọn:

– Chúng ta đi thôi! Sau nầy trở lại đối phó với bọn họ cũng chẳng muộn.

Thần thái của chàng nghiêm trọng quá, không ai dám hỏi gì, dù có hỏi, vị tất chàng chịu nói ra những gì đã ghi trên mảnh giấy đó.

Họ trở lại con đường cũ, lên lưng ngựa ra roi đi.

Quan Sơn Nguyệt cỡi Minh Đà đoạn hậu. Một nụ cười khoan khoái nở trên vành môi.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.