Hoàng Quyền

Chương 49 - Thư Ngắn Tình Dài

trước
tiếp

Type: Nhã

Phượng Tri Vi liếc nhìn cái hộp kia, thầm nghĩ không hiểu sao gương mặt mình giấu sau lớp mặt nạ lại nóng bừng lên thế này, đương nhiên sắc mặt nàng vẫn không hề suy suyển, giọng điệu cũng bình thản không chút xao động, tiện tay cầm cái hộp lên, thản nhiên nói:”Phiền Yên huynh mang nó tới đây, con đường vận lương đi về khổ sở, mau đi nghỉ sớm một chút.”

Yên Hoài Thạch nhìn nàng, nén cười lui xuống, ra đến cửa tình cờ chạm mặt Hoa Quỳnh, bèn đưa tay kéo cô,”Tinh thần đại nhân rất khá, nàng khỏi phải đến vấn an làm gì, đừng quấy rầy hứng thú của người ta.” Nói đoạn cười ha hả.

Hoa Quỳnh nhìn hắn thắc mắc, Yên Hoài Thạch cười nói:”À, ta phát hiện ra vị Nguỵ huynh đệ này, mỗi khi thực sự vui vẻ, thì sẽ đặc biệt lạnh lùng đặc biệt khoái giở giọng nhà quan. Người này ấy mà, có anh minh cơ trí đến đâu, đụng chuyện tình cảm vẫn không tránh khỏi non nớt mất tự nhiên. Như vậy cũng hay, như vậy mới giống một người mười sáu tuổi chứ.”

Hoa Quỳnh lại liếc hắn, cuối cùng không nhịn được nổi bật cười “Chàng đùa đấy hả, họ là hai nam nhân, cái gì mà tình cảm với chẳng không tình cảm.”

“Là nam hay là nữ có quan trọng gì?” Yên Hoài Thạch đảo tròng mắt, nửa cười nửa không, “Nàng chưa ra ngoài khơi xa, không biết có quốc gia dân phong hết sức văn minh. Năm mười tuổi ta theo tam thúc đến nước Phổ ở hải ngoại, nam nữ nước đó ôm nhau khiêu vũ trên đường lớn, ấy mới gọi là phong lưu.”

“Thật á?” Gương mặt Hoa Quỳnh có vẻ ngưỡng mộ,”Thiếp rất muốn tới đó xem.”

Cô thấy trên mặt Yên Hoài Thạch thấp thoáng rịn mồ hôi, đáy lòng mềm nhũn, rút khăn tay ra thấm mồ hôi cho hắn. Yên Hoài Thạch đang cao hứng kể lể, không ngờ cô đột nhiên áp sát như thế, ống tay áo thoang thoảng hương thơm, lướt qua mặt mềm mại ấm áp, trong lòng chấn động, vô thức tránh né.

Hắn vừa né tránh, bàn tay Hoa Quỳnh cũng khựng lại. Yên Hoài Thạch lập tức bừng tỉnh, vội vàng cười cười cầm lấy khăn tay của cô, “Nàng có thai rồi, còn phải chăm sóc cho ta nữa, để ta tự lau.”

Hoa Quỳnh nhìn hắn mỉm cười, đưa khăn tay cho hắn. Yên Hoài Thạch lau bừa mấy cái, do dự một hồi rồi nói:” Mẫu thân hỏi bao giờ thì tổ chức hôn lễ, nàng xem…”

“Chờ thiếp sinh con rồi hẵng bàn.” Sau một quãng dài im lặng, Hoa Quỳnh nói:”Với thân phận hiện giờ của chàng, hẳn phải thiết đại tiệc mời khách, đến khi đó vác cái bụng bầu trông không hay lắm.”

Yên Hoài Thạch trông như vừa trút được gánh nặng, cảm kích mỉm cười nhìn cô, “Vậy cũng được, khi ấy nhất định phải tổ chức cho nàng một hôn lễ long trọng náo nhiệt nhất, mới không uổng ân huệ nàng đổ máu cứu giúp trước từ đường.”

“Hoài Thạch.” Hoa Quỳnh ngước mắt lên, ánh mắt sáng ngời chiếu thẳng vào hắn.”Giữa chúng ta, chỉ có ân huệ thôi sao?”

Yên Hoài Thạch không ngờ cô lại đột ngột hỏi câu thẳng thắn như thế, há hốc miệng, trong lòng nhất thời hỗn loạn.

Cô gái trước mặt, không thể coi là tuyệt sắc, nhưng vầng trán lại toát lên anh khí siêu quần, hoàn toàn không giống một nữ tiên sinh tư thục, vợ một tú tài thi trượt.

Mà bằng vào sự hiểu biết của hắn về cô từ nhỏ, thì cô xứng đôi với bất cứ nam tử nào trong thiên hạ.

Năm lên bảy, lần đầu tiên hắn biết mẫu thân ở am ni cô, chạy mấy mươi dặm trong đêm tới đó, bíu lấy cửa am cầu xin cả ngày mà các ni cô không chịu cho hắn vào. Hắn gào khóc thảm thiết, cô nghe tiếng khóc của hắn bèn tìm đến. Khi ấy cô mới tám tuổi đã biết sai đám học sinh trong học đường nhà mình khiêng thang tới, giữa ban ngày ban mặt cô đưa hắn trèo tường đi gặp mẫu thân. Hắn ôm mẫu thân khóc lóc bên dưới, cô ngồi trên tường canh chừng cho hắn.

Năm hắn lên chín, do thường xuyên lén lút đi gặp mẫu thân, bị cấm túc trong nhà đúng lúc mẫu thân bệnh nặng muốn gặp hắn. Cô đã một mình chạy tới, trèo tường chui vào kho chứa củi, xách một con dao phay chém đứt then cửa, chẳng nói chẳng rằng kéo hắn đi.

Năm hắn mười hai tuổi, am ni cô được lệnh của gia chủ, không cho phép hắn tới thăm mẫu thân nữa, bốn bề canh chừng nghiêm ngặt. Cô cầm một cái cuốc, đào rộng lỗ chó chui ở chân tường phía Tây am ni cô, bảo hắn chui vào. Hắn cảm thấy mất mặt, không chịu chui, cô bèn đá vào mông hắn, mắng hắn đến tối tăm mặt mũi:”Đại trượng phu hành sự không câu nệ tiểu tiết, hôm nay ngươi không chui nỗi lỗ chó, mai này người sẽ không chịu nổi đấu đá tranh giành. Sau này giống ở Yên gia, ngươi sẽ chết không có chỗ chôn!”

Hắn chui lỗ chó lén gặp mẫu thân rất nhiều năm, mãi về sau mới biết, cô còn chui lỗ chó lâu năm hơn hắn nhiều. Trước khi hắn tìm thấy mẫu thân, cô đã thông qua lỗ chó này, cách vài ngày lại mang bánh bao cho mẫu thân hắn thường xuyên bị bỏ đói.

…Xưa nay hắn vẫn luôn kính cô, phục cô, cảm kích cô, khi bị nhốt trong từ đường hắn nghe tiếng cô cãi cọ với Yên gia ngoài cửa, cõi lòng hắn rung động, không nén được lệ nóng trào mi, nghe một tiếng hô “Chàng có chịu cưới thiếp không?”, hắn đã đáp chẳng hề do dự, đúng là tiếng lòng khi ấy.

Cưới, nhất định phải cưới, bằng không hắn sẽ không vượt qua nổi ải lương tâm kia. Cô là thê tử của hắn, đã nhận định, thì không nghĩ ngợi gì nữa.

Nhưng khi câu hỏi này ném đến trước mặt hắn, hắn bỗng dưng có cảm giác mờ mịt. Cưới, là nghĩa vụ là trách nhiệm là nhất thiết phải vậy, sau đó, còn gì khác nữa không?

Họ chẳng phải là thanh mai trúc mã lưỡng tình tương duyệt.

Họ là một đôi phu thê dở dở ương ương, bị một trận gia đấu tác hợp lộn xộn mà đến với nhau.

Trong suốt hai mươi năm qua, hắn đã vô số lần nghe mẫu thân dạy dỗ, rằng hắn là hậu duệ của hai đại thế gia Yên, Trần, là hậu duệ của dòng máu hoàng tộc Yên thị, vinh quang cao quý, chỉ xứng đôi với một nữ tử cao quý tương tự.

Nghe đã nhiều có lẽ cũng nên là như thế.

Cô gái đối diện nhìn hắn bằng ánh mắt trong veo, trong chớp mắt, lời mẫu thân dạy và hình ảnh cô bầu bạn bên hắn đã xẹt qua và đan xen lẫn nhau trong lòng hắn như một tia chớp. Hắn đứng ngây ra đó, không biết phải trả lời ra sao.

Hoa Quỳnh đã mỉm cười.

Cô ta bật cười sang sảng, đẩy Yên Hoài Thạch, nói:”Đúng là một câu hỏi ngốc nghếch, chẳng trách chàng cứng họng. Thiếp cũng thật là, sắp kết hôn rồi, còn hỏi chuyện này làm chi nữa.”

“Đúng thế.” Yên Hoài Thạch ngượng ngùng lấy khăn lau lung tung trên mặt,”Cũng sắp kết hôn rồi, sắp kết hôn rồi…”

“Chàng mau đi đi.” Hoa Quỳnh đẩy hắn, nhìn Yên Hoài Thạch đi xa dần như đang chạy trốn.

Cô ta đứng rất lâu trong hành lang, vịn vào cột, nhìn chân trời bốn bề giăng mây, cơn gió rong chơi, rồi nhìn lại căn viện đằng sau, Phượng Tri Vi đang gấp gáp ôm cái hộp đặt ở cửa sổ ra chỗ khác một cách cẩn thận, lại khép cửa sổ vào, cứ như sợ một cơn mưa bất ngờ sẽ thấm ướt cái hộp kia.

Hồi lâu, cô ta nhẹ nhàng nở một nụ cười.

Phượng Tri Vi nào hay phu thê Yên thị từng có một cuộc chuyện trò hết sức quan trọng như thế trong hàn lang, nàng nhìn sắc trời bên ngoài, thầm nghĩ Cố thiếu gia hiếm khi đích thân ra ngoài, không biết đi làm gì nữa, đừng có dính mưa nhé.

Chiếc hộp Yên Hoài Thạch đưa tới lặng lẽ nằm trên bàn, chất gỗ màu xanh nhạt, có vân gỗ hoa lệ tự nhiên hình gió lùa mưa tuyết, cực kỳ thanh nhã, bên cạnh in một đoá hoa mạn đà la màu vàng, là kiểu hoa thêu trên áo choàng Ninh Dịch. Hoa lá yêu kiều, không hoàn toàn ăn khớp với tổng thể thanh nhã của hộp gỗ, lại sinh ra vẻ mị hoặc khác thường, cũng giống như cảm giác mà người tên Ninh Dịch gây ra cho người ta vậy.

Người này…làm một chiếc hộp cũng muốn biến nó thành bản sao của mình, Phượng Tri Vi không nén nổi nhoẻn cười, nhẹ nhàng vuốt ve nước gỗ trơn mịn. Nhưng nàng vẫn rất bội phục nhãn quang của Ninh Dịch, so với những thứ dung tục như vàng ngọc, thì bản thân cái hộp này rất phù hợp với sở thích của nàng.

Trong hộp, sẽ là thứ gì nhỉ?

Nhìn chiếc hộp này là biết bên trong không phải một thứ trang sức thông thường. Hay nó là một thứ đồ chơi quý hiếm của Mân Nam? Là linh đan dược nào đó cho nàng tẩm bổ? Hoặc chỉ là một trò đùa vui, mở nắp hộp sẽ nhảy ra hai con bút hầu khác?

Y chỉ huy đại quân mà vẫn còn lòng dạ thảnh thơi để mua quà cho nàng, thật khó cho y mà.

Phượng Tri Vi ôm má nhìn cái hộp, sóng mắt loang loang, cẩn thận nghĩ bên trong hộp là thứ đây. Nàng không vội vàng mở hộp ra, cảm thấy mình cứ đối mặt với quà tặng thế này, ôm tâm trạng vui vẻ nhẹ nhàng mà phỏng đoán, cũng rất tuyệt vời.

Đây là món quà đầu tiên nàng được người ta cẩn thận đưa tới tặng trong mười sáu năm qua, nàng phải kéo dài tâm trạng vui vẻ này thêm ít lâu mới được.

Qua nửa canh giờ, cuối cùng nàng cũng cảm thấy thoả mãn rồi, biếng nhác mở hộp ra.

Ngón tay đặt lên chốt khoá, hơi dùng sức, ơ? Sao không mở?

Kéo lên trên, đè xuống dưới, cạy bên phải, vặn bên trái…Vẫn chẳng nghe thấy tiếng “kịch” khi nắp hộp mở ra.

Lần này Phượng Tri Vi không lười biếng nữa, trở mình ngồi dậy, cầm lấy chiếc hộp nhìn trái ngó phải, sau đó khoé miệng cũng co giật theo.

Cái chốt khoá này, vốn không phải là chốt khoá, mà chỉ là một vật trang trí giả làm chốt khoá, thương thay cho nàng hoá ra đã lọt tròng như thế!

Phượng Tri Vi cầm chiếc hộp dở khóc dở cười, thầm nghĩ Ninh Dịch hiếm khi đùa dai thế này, trong ánh mắt dâng lên nét cười nhàn nhạt, dịu dàng ấm áp.

Lần mò một lượt hết trên dưới trái phải chiếc hộp, nàng phát hiện hoá ra chiếc hộp này có bề ngoài kín mít, chỉ có một khe hở cực hẹp dưới đáy.

Đây là chỗ mở hộp ư?

Phượng Tri Vi ngạc nhiên nhìn chiếc hộp, thầm nghĩ, chiếc hộp này căn bản không tài nào mở ra được.

Xem ra mấy suy đoán đại loại như linh đan diệu dược, trang sức bút hầu, đều tiêu tan cả rồi.

Cái khe dưới đáy hộp vừa hẹp vừa dài, Phượng Tri Vi nhìn độ rộng ấy, trong lòng thoáng động, đưa ngón tay vào thăm dò, mơ hồ sờ thấy quả nhiên là vật gì đó giống như lá thư, rất nhiều, đều cắm dọc bên trong, còn một vài cái khác thì chen nhau trên khe hở, không tìm được cách nào để rút chúng ra trong một lần. Nàng đành phải ôm hộp vào lòng ra sức xóc xóc, để mấy thứ đang chen chúc trong khe hở văng bớt ra ngoài.

“Cạch”, một lá thư rơi xuống, bìa thư màu lục nhạt in hoa mạn đà la màu vàng kim. Chất giấy của lá thư này rất đặc biệt, vừa trơn lại vừa cứng cáp.

Phượng Tri Vi mím môi, nhìn lá thư kia, không nén nổi một nụ cười, người này ấy mà, đúng là nghĩ ra cách!

Nhưng nàng cũng hơi thất vọng – nếu trong hộp này chứa thư, thì chắc hẳn không có gì đáng kinh hỉ rồi. Mắt Ninh Dịch không nhìn thấy gì, bản thân y không thể tự viết thư, mà thư người khác viết hộ thì đại khái cũng chỉ nói chuyện công việc thôi.

Nàng ngơ ngơ ngẩn ngẩn ngắm phong thư rất lâu, chầm chậm đưa tay ra mở, lúc bóc đầu niêm phong nàng cực kỳ cẩn thẩn, như thể sợ làm hỏng bì thư vậy.

Nét mực thẫm màu in trên tờ giấy vân hoa ép the mỏng màu nguyệt bạch, Phượng Tri Vi còn chưa xem thư viết gì, đã phì cười.

Đây là chữ kiểu gì thế?

Ban đầu rặt những khoanh mực tròn, căn bản không nhìn rõ nét chữ, về sau mới đẹp hơn một chút. Mà nét chữ kia xiêu xiêu vẹo vẹo, tuy nhìn ra được cấu tứ đẹp đẽ nền tảng thâm hậu, nhưng hình dạng chữ viết lại quá khó coi. Chữ nào chữ nấy dưới đáy đều hơi bằng bằng, lại nhìn ra chút gượng gạo khó nói thành lời.

Nhưng trong nhát mắt, nụ cười của Phượng Tri Vi đã tắt lịm.

Đây là những chữ Ninh Dịch tự tay viết nên.

Đây là chữ của y, tuy bây giờ đã hoàn toàn thay đổi, nhưng vẫn lờ mờ nhận ra được. Cũng chính vì nét chữ thay đổi hoàn toàn, nàng mới có thể khẳng định những chữ này đều do y tự tay viết xuống từng chữ một, tron doanh trướng vào lúc đêm khuya.

Có trời mới biết với đôi mắt mù loà, y đã lần mò viết được lá thư bằng cách nào. Xem ra cái đáy bằng của những con chữ kia, ắt hẳn là do y sợ mình viết nhảy dòng, nên mới dùng thước ngang chặn dưới mà viết.

Khẽ khàng “úi” một tiếng, Phượng Tri Vi thì thầm:”Chữ khó nhìn như thế mà y cũng dám viết ra, không biết ngượng tay gì cả.” Giọng điệu tuy oán trách song ánh mắt lại đang cười.

Nàng vê bấc đèn cho nó sáng hơn một chút, nheo mắt gí sát lại gần, đọc từng li từng tí.

Mấy khoảng mực tròn đằng trước, nàng nghĩ chắc là tên nàng rồi.

“…Vi, thư này ta viết chữ nghĩa thế nào? Thực ra ta đã dùng quân báo để luyện từ lâu, Ninh Trừng chẳng biết ta định làm gì, cho đến khi hắn nói mình có thể đọc được chữ trong những bản thân quân báo ta chép, ta biết ta có thể viết thư cho nàng rồi.

Hôm nay đại quân vừa mới xuất phát, ra khỏi thành Phong Châu ba mươi dặm thì hạ trại, bàn bạc với tướng lĩnh trong trướng mãi đến giờ Tuất (1). Tướng lĩnh chia ra làm hai phe, tranh chấp không thôi: phe lão thành của Tướng quân Hoàng Hải tuân theo quy củ, đề nghị cho quân tiên phong đi trước, trung quân áp theo sau; còn phe cấp tiến của Tướng quân Mân Nam mới nhậm chức đang nóng lòng muốn lập công thì đua nhau xin ra trận, đề nghị được dẫn khinh kỵ tinh nhuệ tấn công thì đua nhau xin ra trận, đề nghị được dẫn khinh kỵ tinh nhuệ tấn công bất ngờ, đánh cho Thường thị trở tay không kịp. Khi hai bên đang tranh cãi gay gắt, ta nghĩ nếu nàng ở đây thì sẽ chọn chủ ý nào nhỉ? Với cá tính xấu xa nham hiểm ngày thường của nàng, hẳn sẽ chọn cách dương đông kích tây ám độ Trần Thương, cho nên ta lệnh cho Tướng quân Hoàng Hải dẫn kỵ binh đánh huyện Lạc Đô trước, lại phải Tướng quân Mân Nam dẫn theo một vạn binh mã mai phục trên con đường Bá Hà mà chúng ta nhất định

——— ———-

Từ bảy đến chín giờ tối.

Phải qua, đợi Thường thị đưa quân về thì phục kích, đánh tan trận thế của chúng rồi bao vây ba mặt. Nàng thấy chủ ý này có ổn không?

Nhưng nàng không cần quan tâm đến chuyện này đâu, Mân Nam chắc chắn nằm trong tay ta rồi, nàng nghỉ ngơi cho tốt mới là chuyện quan trọng.

Hôm nay ra đi ngang qua huyện Phượng Vĩ, nơi này có loại phượng vĩ, chất gỗ chắc chắn nhẵn mịn, vân gỗ đẹp đẽ tinh xảo, nhuộm lên nước lá phượng vĩ, sẽ cho ra màu lục nhạt như màu cây non xanh tươi mơn mởn, xinh xắn vô cùng. Ta lệnh cho Ninh Trừng đóng thành một cái hộp, vẽ hình dạng cho hắn xem, chẳng mấy chốc hắn đã làm xong rồi mang tới, lại tự ý làm thêm một cái chốt khoá vàng, nói đây là kế dương đông kích tây mê hoặc kẻ địch. Ta đuổi cổ hắn rồi, cho mi về Đế Kinh mà tha hồ dương đông kích tây.

Ngoài trướng trống canh điểm bốn tiếng, tới đây gác bút, thấy chữ như thấy người, nhất thiết phải bảo trọng.”

Phượng Tri Vi đọc thư đến bốn lần, tỉ mỉ gấp thư lại, dở khóc dở cười nhìn cái chốt khoá lại mắng, “Cái gì xấu xa nham hiểm hả? Ngươi thì có ấy!”

Nàng cầm thư đảo mắt nhìn quanh phòng, cảm thấy giấu ở đâu cũng đều không ổn, ngẫm nghĩ, rồi lại nhét lá thư vào trong khe hộp, ôm vào lòng xóc lung tung lên, xóc được một hồi, “cạch” một tiếng, lại rơi ra một phong thư.

Phượng Tri Vi không thể nín cười, nàng cảm thấy mình như trở về thuở ấu thơ đi dạo với đệ đệ trên đường tìm kẹo ăn. Người bán kẹo rong cũng dùng một cái hộp, đương nhiên không được đẹp thế này, bố trí vài cơ quan đơn giản, xoay một cái là lăn ra một bức tranh. Màu đỏ là kẹo đường to, màu vàng là kẹo đường nhỏ, màu xanh chính là đường dẻo kéo kẹo.

Số nàng đen đủi, quay đi quay lại đều ra đường dẻo.

Bây giờ vận may của nàng đã khá hơn chưa?

Nhặt lấy phong thư, chỗ ghi tên người nhận đánh một chữ “ba”. Phương Tri Vi ngây người, rồi lại nghĩ thư này có thể đã được sắp xếp theo thứ tự, nàng nhét thư trở vào hộp, thứ tự hẳn đã loạn lên rồi.

Loạn cũng có cái hay của loạn, nàng cười cười, mở thư ra.

“…Tri Vi, hôm nay hành quân đến Khê Tháp, cách chỗ hạ trại không xa có một hồ cỏ lau, rộng lớn hùng vĩ vô cùng. Ninh Trừng nói cỏ lau rất đẹp, mỗi khi gió thổi qua sẽ đồng loạt đong đưa, trông như một vùng biển trắng bao la. Ta đứng ven hồ cỏ lau lắng nghe, hình như còn nghe thấy tiếng thuỷ triều. Có con chim nhỏ vút bay trên biển cỏ, cất tiếng hót véo von, thả rơi một sợi lông trắng xuống tay áo ta. Ta lệnh cho Ninh Trừng đi hái bông cỏ lau to nhất đẹp nhất, buộc kèm lông chim và cỏ lau trên phong thư, mong nàng cũng nghe thấy tiếng gió.”

Trên phong thư đính kèm một sợi lông vũ trắng tinh và một ngọn cỏ lau đã hơi úa vàng, lấp lánh ánh huỳnh quang dưới ngọn đèn dầu. Ngón tay Phượng Tri Vi nhẹ nhàng mân mê sợi lông vũ nhỏ mịn và lớp tơ nhung nhạt màu của cỏ lau, nàng nghĩ đến nam tử thanh nhã mà đẹp đẽ đứng bên hồ cỏ lau kia, nghĩ đến chú chim trắng muốt bay vụt qua đôi mày kiếm đen nhánh của y, nghĩ đến gió cuốn bay tay áo y, đoá mạn đà la màu vàng nhạt kiêu kì nở rộ trong làn gió, nghĩ đến những bông cỏ lau lay động như hoa tuyết, vỗ vào y bào màu nguyệt bạch của y, khắp nghìn dặm bừng lên ngọn lửa trắng.

Nét cười của nàng cũng ngày càng dịu dàng hơn, một bức tranh đẹp đẽ nhường ấy, nở rộ dưới nền trời trong lòng nàng.

Xóc một cái, một phong thư rơi xuống, chỗ ghi tên người nhận, đáng một chữ “bảy”.

“…Tri Vi, hôm nay ta đi từ khe An Lan ra biển, để tránh gây kinh động ta đã cho hành quân trong đêm. Tiếng sóng vỗ dập dờn suốt đêm nghe mới vắng vẻ tĩnh lặng làm sao, thân thuyền lắc lư lên xuống làm người ta mơ màng say, hơi mệt mỏi, rồi lại trằn trọc không ngủ được. Ta lại nhớ tới cái ôm ở từ đường, tiếng hô hào của dân chúng cũng không ngừng không nghỉ như tiếng sóng triều dâng, sau đó nàng ngả vào lòng ta, giống như nước biển bỗng dưng đảo lộn…Thế nên ta lại càng khó ngủ, ngồi dậy uống trà khuya trên sàn tàu, còn đá một kẻ lén lén lút lút theo hầu ta xuống biển, bảo hắn không mò ra một viên ngọc trai cực phẩm thì không cho phép ngoi lên. Sáng hôm sau hắn lên thuyền, ngọc trai không có, lại nộp lên một nhánh san hô nhỏ, chỉ to bằng nửa đầu ngón tay, nói là vô tình phát hiện ra, trời sinh đã có hình dạng nửa đoá hoa, tuy phẩm chất không được tốt lắm, nhưng hình dạng lại tinh xảo, là vật mà trời đất sáng tạo ra, còn quý hơn một trăm viên ngọc trai…Kẻ này mồm mép tép nhảy không cần đếm xỉa tới hắn làm gì, san hô đính kèm trên thư, nàng thấy đẹp thì tốt, không đẹp thì cứ việc đá nó xuống biển.”

Góc thư quả nhiên đính kèm một nhánh san hô nho nhỏ, màu đỏ thắm, trơn nhẵn bóng loáng, cánh hoa lớp lớp, thật sự giống hệt như một đoá hoa mẫu đơn, do tự nhiên sinh ra.

Quả là quý giá hơn hẳn một trăm viên ngọc trai.

Phượng Tri Vi lấy nước ấm làm mềm một góc lá thư, thật cẩn thẩn bóc nhánh san hô xuống, tìm một cái hộp đặt vào trong đó.

Xóc một cái, lại một phong thư rơi xuống.

Giờ là phong thư thứ “hai”

“…Tri Vi, ta nghĩ nàng cầm thư này nhất định không biết giấu vào đâu thì ổn, với tính cách đa nghi của nàng, vừa sợ bị người ta đánh cắp thư, lại sợ bị Cố Nam Y cầm đi bọc vỏ hồ đào, cho nên khả năng dễ xảy ra nhất là nàng sẽ nhét lại lá thư vào trong hộp, cuối cùng thứ tự ta an bài kĩ lưỡng sẽ bị nàng đảo loạn. Nhưng như thế cũng tốt, có rất nhiều chuyện, do không biết rõ nên lại càng đẹp đẽ, giống như khi nàng lấy thư, sẽ nghĩ rằng, lần này rơi ra là phong thứ mấy?”

Phải, vì không biết nên mới hay mới đẹp, mỗi lần đều rơi xuống một phong, chẳng bao giờ biết được lần này rơi xuống sẽ là phong thư thứ mấy. Nhưng dù đó là bản ghi chép lại tâm trạng của ngày nào, thì bản thân việc phỏng đoán cũng là một thú vị.

Người này đúng là con giun trong bụng nàng, ngay đến chuyện nàng giấu thư ra sao cũng đoán trúng, không sai tí nào.

“…Tri Vi, dùng phương pháp của nàng quả nhiên là chính xác, chúng ta thắng Thường thị trận đầu, sĩ khí dâng cao, có lẽ chẳng bao lâu nữa ta sẽ trở về. Nàng đã nói chờ ta cùng nhau về kinh, nên ta không cho phép nàng chạy trước đâu nhé. Ai chạy trước, phạt người đó trọn đời không được gặp người kia…”

Cách nào của ta chứ…Sóng mắt Phượng Tri Vi lay chuyển, người này đúng là đổi trắng thay đen, rõ ràng quỷ kế dương đông kích tây là của y, lại cứ muốn đổ lên đầu nàng.

“…Tri Vi, gió thu từng trận thổi qua lạnh lẽo, cái rét buổi đêm ùa qua góc doanh trại, khi đi tuần doanh ta đã mặc thêm áo khoác. Nàng nhớ buổi tối ra ngoài không được quên mặc y phục dày, lần trước ta bắt mạch cho nàng, căn bệnh kia là cảm lạnh, cho nên nàng phải chú ý ăn mặc cho ấm áp một chút, đừng để phát bệnh lần nữa.”

Mắt y đã không nhìn thấy gì, còn muốn đi tuần doanh sao? Phượng Tri Vi nhẹ nhàng vuốt ve bức thư trong tay, nghĩ đến số thuốc Yên Hoài Thạch mang đi, không biết Ninh Dịch đã dùng chưa nhỉ. Yên Hoài Thạch đưa lương đến đại doanh xong lập tức trở về ngay, hiệu quả dùng thuốc nhất định không được nhắc tới trong hộp thư này rồi, đợi hôm khác nàng lại phải viết thư hỏi han mới được.

Nghĩ đến từng phong từng phong thư của người kia, từng chữ tha thiết, nhưng y lại không nói muốn nàng viết thư trả lời, nàng không khỏi nhướn mày.

À, đương nhiên nàng cũng sẽ không hồi âm, nhưng là người đưa thuốc giải, thì chuyện hỏi han bệnh tình của người bệnh là rất bình thường phải không?

Phượng Tri Vi đã tìm được lý do chính đáng cho mình, bèn nghiêm chỉnh cất mớ thư lại. Thư trong hộp chắc vẫn còn, nhưng nàng không định dốc ra hết trong một lần. Tâm tình nhua hoà đẹp đẽ như thế, nhoáng cái đã vung tay hết sạch, thì đúng là một sự lãng phí.

Đêm dài người lặng tiếng, tha hương trên đường, nỗi lòng muộn phiền, trăm sự vướng thân…Vào những lúc như thế, chớ ngại mà ôm chiếc hộp ra, vỗ một cái, xóc một cái, sau đó đổ ra sự mong chờ vui vẻ và tâm tình đẹp đẽ.

Giữ lại, để những ngày tháng đằng đẵng sau này, nàng vẫn còn một chỗ gửi gắm niềm vui sướng.

Nàng trải giấy viết thư, mài mực thấm bút, nằm bò ra bàn viết thư.

“…Ninh Dịch, thư của tôi bây giờ ngài vẫn chưa đọc được, dù sao cũng phải chờ mắt ngài sáng trở lại mới đưa cho ngài. À, tôi muốn hỏi ngài dùng thuốc rồi mắt có đỡ hơn chưa? – Tôi biết đây đúng là lời thừa, chờ ngài có thể đọc được bức thư này, tất nhiên là mắt đã đỡ, cho nên câu hỏi này ngài cứ xem như không đọc thấy.

San hô tôi nhận được rồi, rất đẹp, giống như một đoá mẫu đơn bé xíu, ngài nói xem nên làm nhẫn hay làm hoa cài đầu? Tuy tôi e rằng khó có dịp dùng tới, nhưng để nhìn thôi cũng tốt lắm rồi. Lông chim rất trắng, bông lau cũng rất đẹp, tôi nghĩ bao giờ chúng ta trở về kinh cũng sẽ đi ngang qua hồ cỏ lau kia, đến khi đó tôi muốn tận tai nghe tiếng hồ cỏ lau rì rào trong gió tựa như tiếng thuỷ triều, hoặc giả cũng có một cọng lông chim rơi xuống vạt áo tôi, ưm…Ngài có chịu cùng tôi nghe lại âm thanh đó một lần không?”

Ánh đèn dần dần leo lét, toát ra một quầng sáng màu vàng nhạt. Trong quần sáng ấy, đôi mắt trời sinh đã mơ màng của Phượng Tri Vi càng thêm ướt át long lánh, tựa như hạt mã não đen ngâm trong thuỷ tinh vậy.

Nàng mân mê giấy viết thư rất lâu, khoé môi hé nở nụ cười nhàn nhạt như trước, lại không mang hơi lạnh hiu hiu ngày thường, mà ấm áp mềm mại, khiến người ta nhớ đến cọng lông chim trắng muốt và màu tơ lau trắng tuyết.

“Kẹt”. Cửa đột ngột mở ra.

Phượng Tri Vi quáng quàng đứng dậy, luống cuống thu dọn giấy viết thư trên bàn, trong lúc cuống quýt không tìm được chỗ để, đành phải nhét vào cái hộp kia, ôm hộp đi quanh phòng một lượt, sau đó nhét vào trong chăn.

Đúng như nàng dự đoán, người bước vào là Cố Nam Y, ngoài ra cũng chẳng còn ai nói vào là vào phòng nàng. Có điều bộ dạng của Cố Nam Y, thật sự vượt ngoài dự đoán của nàng.

Phượng Tri Vi ngơ ngác nhìn Cố thiếu gia ào ào bước thẳng vào phòng, cảm thấy hôm nay đã có quá nhiều chuyện ngạc nhiên lẫn vui mừng, đặc biệt là ngạc nhiên.

Phía đối diện, hai bên vai Cố thiếu gia mỗi bên có một con khỉ lông vàng oai phong lẫm liệt, trái gãi phải cào, ngó quanh nhìn quất khiến người ta lầm tưởng vị này là một kẻ diễn xiếc khỉ rong mất thôi.

Thế đã hết đâu.

Cố thiếu gia vươn cánh tay cứng đờ ôm một đứa bé…

Phượng Tri Vi ngơ ngác nhìn Cố thiếu gia “hoàn toàn mới” vai gánh khỉ vàng tay ôm trẻ con, mất một lúc mới lấy lại giọng nói của mình,”Huynh…huynh làm gì thế?”

“Đứa bé, khỉ.” Cố thiếu gia nói,”Ta, thử xem sao.”

Vẫn là phong cách nói chuyện không đầu không đuôi ngắt câu loạn xạ, cũng chỉ có Phương Tri Vi ở chung đã lâu lại giỏi giao tiếp mới có thể hiểu nổi. Nàng vừa nghĩ xong, cõi lòng cũng chân đông, “Ý huynh là, huynh muốn học cách sống chung với người khác, nên muốn bắt đầu bằng việc học cách sống chúng với trẻ con và lũ khỉ?”

Cố thiếu gia gật đầu, đáp bằng giọng điệu chống đỡ một nỗi khổ lớn lao:”Ngày ấy rất khó chịu, cũng rất đặc biệt, vì thế thử chút.”

“Ngày đó ôm đứa bé này, huynh có cảm giác đặc biệt phải không?” Phượng Tri Vi nhận ra đây chính là đứa bé mà hôm ấy hai người đã cứu trên bến tàu, cứu xong thì đưa đến nhà từ thiện của thế gia, ai dè Cố Nam Y vẫn còn nhớ, bây giờ lại muốn đem nó về thử xem sao.

“Lúc học võ cũng có cửa ải, vượt qua được thì thuận buồm xuôi gió.” Mỗi khi nói về võ công, Cố thiếu gia lại đặc biệt lưu loát, “Cho nên, cái này cũng thế.”

Phượng Tri Vi lặng lẽ nhìn y, nàng biết vì mình suýt nữa bỏ mạng mà y hoàn toàn không biết, nên Cố Nam Y mới không ngừng tự trách, lần đầu lộ ra suy nghĩ muốn làm một người giống như bao người khác. Nào ngờ, y nói được thì cũng làm được, lại còn nảy ra ý nghĩ muốn nuôi nấng đứa bé kia, từ từ học cách làm một người bình thường.

Nhưng với một kẻ muốn sống cuộc đời bình lặng không sóng gió như y, thì hành động như thế chắc hẳn phải gây ra sự kháng cự đau đớn với bản tính của y?

Y đau khổ nhưng vẫn kiên trì, đơn giản vì y không muốn một lần nữa mất đi nàng mà chẳng hiểu vì sao.

Phượng Tri Vi mím môi, trong lòng đã hơi quặn thắt. Cố Nam Y bắt đầu bằng lòng tiếp cận đám đông, đây là chuyện tốt mà nàng vẫn luôn mong mỏi và cố gắng làm. Nhưng bỗng nhiên, trong lòng nàng lại dâng lên một nỗi sợ hãi và run rẩy không tên, tựa như thấy được gương mặt tái xanh của vận mệnh trong cõi âm u, đang nhe nanh cười nhìn xuống mọi thứ tốt đẹp và thuần khiết trên thế gian này.

Khiến cho thiếu niên vẫn luôn yên ổn sống trong thế giới của riêng mình, hiểu rõ và đối mặt với những tang thương phức tạp trên thế gian này, đây có đúng là chuyện tốt không?

Bước ra ngoài, có thể thấy đất trời tươi đẹp, nhưng càng thấy rõ hơn lòng người đen tối và máu đổ trên cõi nhân gian.

Vì lẽ ấy, trong khoảnh khắc nàng cảm thấy cõi lòng lạnh căm, có phần xao động.

“Cố huynh…” Nàng giơ tay muốn đỡ lấy đứa bé kia, nhìn tư thế cứng nhắc của Cố Nam Y nàng thật sự khó chịu thay cho y,”Có một số chuyện đừng nên miễn cưỡng, huống chi chăm sóc một đứa bé thì đừng nói là huynh, mà ngay cả người khác cũng rất khó làm được. Chi bằng chúng ta thử đổi sang cách khác xem…”

“Không.” Cố Nam Y tung người một cái, tránh né nàng, “Cái này có cảm giác.”

Hai con bút hầu trên vai y kêu chí choé rồi nháy mắt nhướn mày, túm lấy tóc Cố Nam Y đu qua đu lại, hoàn toàn không biết nếu đổi lại là trước kia, tổ tông vạn cổ nhà chúng nó sẽ lập tức biến thành bánh thịt cổ.

Phượng Tri Vi khuyên bảo không ăn thua, nháy mắt đã thấy Cố Thiếu gia ôm đứa bé đi thẳng đến ổ chăng của nàng. Trong cơn kinh hãi, nàng vội vàng đuổi theo, đẩy ổ chăn vào tít bên trong giường, quay đầu mỉm cười gượng gạo với Cố thiếu gia.

Cố thiếu gia làm sao ngờ được nữ nhân này có tật giật mình, tự động đặt đứa bé lên giường nàng.

Ngay sau đó, hai người ngửi thấy một mùi không được thơm tho cho lắm.

Cố thiếu gia nhìn Phượng Tri Vi.

Phượng Tri Vi nhìn sang Cố thiếu gia.

Một lúc sau, Phượng Tri Vi co giật khoé miệng, nói:”Thiếu gia, huynh ôm nó về, thì huynh phải chịu trách nhiệm với.”

Cố thiếu gia không đấu võ mồm với nàng, loạt xoạt tháo tã ra. Phượng Tri Vi đau khổ nhắm mắt lại, biết chắc đêm nay giường mình sẽ phải thay mới từ trong ra ngoài rồi.

Đau khổ thì đau khổ, chứ làm sao có thể quẳng Cố thiếu gia và đứa bé y muốn nuôi dưỡng sang một bên, không thèm ngó ngàng gì tới? Phượng Tri Vi đành phải tiến lên giúp đỡ, vừa vén tã lên đã “á” một tiếng.

Trông đứa bé kia để quả đầu trái đào như bé trai nhà giàu hay để, nên nàng vẫn đinh ninh nó là con trai, thì ra lại là con gái.

Cố thiếu gia nhìn nàng bằng ánh mắt nghi hoặc, Phương Tri Vi cảm thấy mình hơi khó mở lời, suy nghĩ một chút rồi bảo:”Đó là một đứa bé gái, không tiện cho lắm, lần sau tôi tìm một bé trai cho huynh nuôi.”

Cố thiếu gia vẫn nhìn nàng bằng ánh mắt trong veo vô tội không rõ sự đời, bộ mặt in rõ dòng chữ:”Bé gái thì bé gái, ta chăm sóc trẻ con cô cảm thấy không tiện chỗ nào?”, khiến Phượng Tri Vi cảm thấy đầu óc mình quá đen tối, muốn tìm lỗ nẻ chui xuống cho rồi.

Được rồi nàng không nói nữa, Phương Tri Vi thành thật xé tấm trải giường, đầu tiên là thay tã cho bé, sau lại sai người đi tìm Hoa Quỳnh. Phượng Tri Vi rất tin tưởng vào năng lực xử lý công việc của cô ta, ở một mặt nào đó Hoa Quỳnh con lợi hại hơn cả nàng – mấy hôm trước “Yên di nương” một khóc hai quậy ba đòi thắt cổ, Phượng Tri Vi định bụng đuổi nàng ta ra ngoài. Nhưng Hoa Quỳnh đã ngăn nàng lại, thuần thục đưa đến am ni cô “phổ độ chúng sinh”, đồng thời lấy thân phận chú mẫu nhà họ Yên để yêu cầu nàng ta cầu phúc tám mươi năm cho Yên gia, nói cách khác là đời này Yên di nương không còn đườn ra nữa rồi.

Chẳng mấy chốc Hoa Quỳnh đã tới, thấy hai người tay chân luống cuống liền phì cười. Nghe Phượng Tri Vi kể rõ đầu đuôi, cô ta bảo:”Dễ thôi, để tôi đi tìm một nhũ mẫu được việc rồi thu xếp cho ở một phòng nhỏ trong viện Tây Khoá bên này.”

Phượng Tri Vi cứ tưởng Cố thiếu gia nhất định sẽ phản đối, không ngờ y lại chẳng ừ hử gì. Xem ra y đã hạ quyết tâm, bất kể gặp bao nhiêu sự phản đối, cũng kiên quyết không lùi bước.

Nhũ mẫu không thể mời đến ngay trong đêm đó, Hoa Quỳnh bèn ở lại viện của Phượng Tri Vi, thay họ chăm sóc đứa bé. Khi cô ta tắm cho đứa bé, Cố thiếu gia cũng thành thật ngồi một bên quan sát tỉ mỉ; khi cô ta cho đứa bé ăn cháo loãng, Cố thiếu gia cũng uống một nửa, tỏ thái độ cực kỳ bất mãn đối với thứ đồ không ngọt không đắng nhạt nhẽo vô vị này, cũng tỏ ra vô cùng khó hiểu vì bé con vẫn uống cháo loãng ngon lành. Y cảm thấy, thứ gọi là “trẻ con” này quả đúng là một điều kì diệu.

Hai con bút hầu nô đùa mãi cũng mệt, say ngủ trên vai y, y bèn dùng hai ngón tay xách chúng nó xuống, động tác vô cùng cẩn thận. Hoa Quỳnh tỏ ra thắc mắc, Cố Nam Y thản nhiên nói với cô ta:”Sợ lỡ đâu sơ suất, bóp chết nó.”

Hoa Quỳnh không nén nổi phì cười, cười xong rồi cũng thôi. Sau khi dỗ dành cho đứa bé ngủ, cô ta lại trở ra vườn hoa đi dạo.

Đi dạo một đoạn, bỗng nhiên chạm mặt Phượng Tri Vi mất ngủ ra ngoài dạo quanh. Hai người nhìn nhau qua một khóm hoa, mỉm cười, cùng ngồi xuống bên bộ bàn ghế bằng đá trắng một cách hết sức ăn ý.

“Cô thật sự quyết định sao?”

“Đã quyết rồi.” Hoa Quỳnh vén tóc, “Tôi biết một thời gian nữa ngài sẽ đến Thượng Dã, nếu tôi đoán không lầm, thì có thể ngài sẽ dẫn theo Trinh tập doanh ra khơi diệt phi. Xem tình hình trước mắt của Thường gia, thì sớm muộn gì cũng phải trốn theo đường biển, phải chăng ngài định hội họp với điện hạ trên biển, giải quyết xong chuyện này thì đi thẳng về kinh?”

“Đúng thế.” Phượng Tri Vi cười,”Thuyền bạc sự vụ ti đã lập, thế gia đã khống chế xong, quan trường Hoàng Hải trên dưới có thóp gì ta đều nắm chắc trong tay, sẽ không xảy ra chuyện gì ngoài ý muốn. Công việc khâm sai của ở đây căn bản đã hoàn thành, mà điện hạ cũng đã nắm chắc thắng lợi. Ngài ấy là bậc thân vương chí tôn, không thể rời kinh quá lâu, sau khi chiến cục Mân Nam ổn định rồi, những chuyện còn lại tất nhiên phải giao cho Tướng quân Mân Nam xử lý. Ngài ấy và ta, sắp tới đều trở về kinh.”

“Vậy rất hay.” Hoa Quỳnh bình thản sửa sang xiêm y, “Sắp tới tôi sẽ lấy cớ ra ngoài sắm sửa vật dụng cho hôn lễ, rồi tới trấn Phong Lạc gần bến tàu Thượng Dã chờ ngài.”

Phượng Tri Vi nhìn vào đôi mắt tĩnh mịch của cô ta, biết cô gái này một khi đã hạ quyết tâm, thì trên đời không một ai có thể lay chuyển quyết ấy. Tương lai, cũng chỉ có thể xem rốt cuộc tâm ý của Yên Hoài Thạch là như thế nào.

“Ngài đừng nhìn tôi bằng ánh mắt lo âu buồn bã như thế.” Hoa Quỳnh cười sang sảng, “Thật ra tôi có câu này muốn nhắc nhở ngài.”

“Câu gì?”

“Điện hạ đối với ngài, không thể nói là tình không sâu,” Hoa Quỳnh nhìn thẳng vào mắt nàng, “Nhưng dù co sâu hơn nữa, cũng không sâu bằng xã tắc thiên hạ, ngài hiểu rõ chứ?”

“Cô đã gặp được bao nhiêu nam nhân chịu vì hồng nhan mà buông bỏ giang sơn?” Phượng Tri Vi yên lặng rất lâu, cũng không định che giấu làm gì, thản nhiên đáp:”Huống hồ điện hạ…Trước kia hẳn cô đã từng nghe một số việc về ngài, bằng vào trí tuệ của cô, hẳn cũng đoán ra ngài ấy hiển nhiên không cam lòng.”

Hoa Quỳnh thở dài, trong tiếng thở dài mang theo mấy phần thất vọng.

“Giống như cô thích Yên Hoài Thạch, nhưng cũng không chịu buông bỏ tự tôn để làm một vị phu nhân Yên gia bình thường,” Phượng Tri Vi đứng dậy, thong thả bước đi,” Ta cũng vậy thôi, có giới hạn mà ta không buông bỏ được.”

“Tri Vi, chúng ta là nữ nhân, không giống như nam nhân. Nam nhân động tâm, chỉ càng thêm hăm hở, càng tiến xa hơn trên con đường mình muốn đi; nhưng nữ nhân động tâm, lại thường lui nữa lui mãi, cho đến khi mất đi tất cả, cuối cùng chỉ đổi lại một thứ – thua.”

Phượng Tri Vi chấn động, hơi mím môi, hồi lâu mới chậm rãi nói:”Hoa Quỳnh, những người từng chết một lần, tâm tính lẫn suy nghĩ có khi sẽ thay đổi chút ít so với trước kia. Người ấy sẽ mềm lòng hơn một chút, nhẹ nhõm hơn một chút, mẫn cảm với sự dịu dàng hơn một chút, cũng sẽ vì lần đối diện với cái chết ấy mà tiếc nuối khoảng thời gian đã hời hợt trôi qua trong quá khứ, sẽ muốn thử sống một cuộc đời tốt đẹp hơn, muốn học cách quý trọng những tâm ý khó có được, muốn thi thoảng phóng túng một lần, thuận theo tấm lòng mình – bởi không biết đến lúc nào mình sẽ đột ngột chết đi, để lại vô vàn nuối tiếc…Nhưng cô phải tin tưởng tôi, Phượng Tri Vi vĩnh viễn là Phượng Tri Vi, bất cứ lúc nào, buông bỏ cũng có mức độ của nó thôi.”

Hoa Quỳnh nhìn đoá cúc tàn trước mặt, khoé miệng từ từ nở một nụ cười thê lương.

Cô ta đưa ta hái đoá khoa khô vàng kia, cười nói:”Cũng chưa chắc sẽ bi quan chán nản như chúng ta tưởng, con đường phía trước còn rất dài, tôi hy vọng họ có thể.”

Phượng Tri Vi không đáp lời cô ta, chắp tay nhìn ánh trăng phía chân trời, một mảnh trăng tàn vàng nhạt như hổ phách, toả ra ánh sáng âm u lạnh lẽo trên nền trời xanh biếc. Giờ này phải chăng y cũng đang đi tuần tra doanh trại trong sương đêm, cách mấy trăm dặm đường trường, cùng nàng chăm chú lắng nghe tiếng sương đọng đầu cành rỏ xuống trong đêm khuya.

Đúng thế, ta hy vọng.

Ngươi cũng có thể.

Tháng Mười hai năm Trường Hi thứ mười sáu, khâm sai đại thần Hoàng Hải đạo đến thị sát phân nha môn Thuyền bạc sự vụ ti Thượng Dã và Trinh tập doanh trên biển vừa mới thành lập. Sau đó khâm sai đến bến Thượng Dã đếm đủ hai vạn thuỷ quân Trinh tập doan rời bến, dựa theo bản đồ phân bố hải tặc do Yên gia cung cấp, dọc đường quét sạch hải tặc đã chiếm cứ Hoàng Hải tác quái nhiều năm.

Cùng lúc đó, cuộc chiến giữa Mân Nam và Thường thị cũng đã đi vào giai đoạn kết thúc, Hoàng Hải bị Ninh Dịch và Phượng Tri Vi quét sạch đã không còn đường li cho Thường gia. Đại quân của Ninh Dịch vẫn luôn theo kế hoạch từng bước một lấn về phía biển, ép Thường gia dồn ra biển lớn.

Sau đó Thường thị không còn cách khác, chuẩn bị chuyển quân về hướng biển, liên lạc với hải khẩu qua lại đã lâu, rắp tâm vãn hồi thế cục. Nhưng chúng lại gặp phải Trinh tập doanh trên biển làm bọ ngựa đứng sau, đang trên đường càn quét hải tặc mà tới.

Sau này, theo lời của một vị học giả quân sự, thì thời cơ đã nắm rất chuẩn.

Một đằng từ Mân Nam đẩy dồn ra biển, một đằng từ vùng duyên hải Hoàng Hải tấn tới, ở một điểm tập hợp đã tính toán từ lâu, khi cờ xí nền trắng thêu thuỷ thủ xanh biếc của hai vạn tân thuỷ quân đón gió tung bay lọt vào tầm mắt của tàn quân Thường thị, thì bọn chúng đồng loạt than thở não nề.

Phượng Tri Vi mặc áo bào trắng ưu nhã đứng trên thuyền lớn, áo choàng đỏ thẫm như lửa cháy bừng bừng, ống nhòm cầm ngang trong tay, giữa tầm mắt hình tròn, chiến thuyền của Thường thị xuất hiện ở bên kia biển cả.

Tác phong hình như vẫn rất chỉnh tề, thuyền cũng đồ sộ chắc chắn, đáng tiếc ngay cả cờ xí cũng chưa kịp treo lên cho tử tế.

Khoé miệng Phượng Tri Vi đọng lại một nụ cười lạnh, ống nhòm khẽ nâng, nhìn chếch lên mây cao, trên đường chân trời thấp thoáng như có khói đen bốc lên, ánh lửa sáng bừng.

Những hòn đạn nổ tung ấy, những tiếng kêu rên gào khóc ấy, những người mất đi thân nhân mất đi sinh mạng trong vụ nổ ở bến tàu ấy…

Nàng từng hứa, phải báo thù.

Nàng từng chém kiếm lập thệ, muốn Thường thị rửa cổ mà chờ.

Bây giờ, coi như đã chờ được đến ngày ấy.

Ống nhòm gác xuống, đặt trên mép thuyền kêu đánh “cạch” một tiếng. Sau lưng Phượng Tri Vi, Hoàng đại nhân, Tổng ti của phân nha môn Thuyền bạc sự vụ ti Thượng Dã, căng thẳng nhìn chằm chặp vào động tác trên tay nàng.

Bàn tay trắng nõn nà vạch xuống một đường trong bầu trời xanh, một động tác mạnh mẽ gọn gàng không chút do dự.

“Bắn!”

Trong tiếng ra lệnh hùng hồn văng vẳng, trên biển vang lên tiếng nổ ầm ầm.

Lợi pháo khạc ra một ngọn lửa đỏ rực, bay thẳng về phía quân đội Thường thị, trong phút chốc đã thiêu rụi con thuyền nghênh ngang dẫn trước. Nước biển bị một lực lớn bắn lên, dựng một bức tường thuỷ tinh liền trời nối đất giữa không trung.

Sau màn nước cao ngất, là tiếng ầm ầm khi hải quân giao chiến, là chiến thuyền bọc thép pháo nổ không ngừng, là nụ cười lạnh lẽo u ám của Phượng Tri Vi

Đôi mắt của Ninh Dịch, bệnh nặng của nàng, mấy trăm mạng người vô tội và vô số người bị tàn tật, món nợ chất chồng này, hôm nay ta sẽ trả lại!

Gió to thổi sóng lớn, nàng đứng giữa mây trời.

Tháng Mười hai năm Trường Hi thứ mười sáu, Trinh tập doanh trên biển mới thành lập lần đầu ra khơi, đã trực tiếp đối đầu với tàn quân của Thường gia, nghé mới sinh không sợ cọp, Trinh tập doanh lần đầu tiên nã pháo, phát pháo đầu đã đánh đắm một con tàu của đối phương, một trận đại chiến trên biển kéo dài hai ngày, nước biển nhuộm máu đỏ thẫm loang rộng đến hai trăm thước.

Thường thị vốn đang bỏ chạy trối chết, gặp trận thảm bại này thì hồn bay phách lạc, nghe nói Thường Mẫn Giang ở trên con thuyền đi đầu bị pháo đánh đắm, ngay đến thi thể cũng không tìm thấy, còn Ngũ hoàng tử tuy đích thân chỉ huy, nhưng chung quy vẫn khó xốc lại sĩ khí, sau khi tàn quân dưới trướng Thường thị đầu hàng thì hắn cũng nhảy xuống biển tự sát.

Thường thị hùng cứ hai vùng Mân Nam và Hoàng Hải nhiều năm, đến hôm nay rốt cuộc bị nhổ tận gốc, thế lực tàn dư mai danh ẩn tính chia ra trốn vào đất liền, trong khoảng thời gian ngắn, chúng không thể vùng dậy thêm một lần nữa.

Còn hải tặc vốn bám vào Thường thị để sinh sống, thế lực bản thân không lớn như trong tưởng tượng, bị Phượng Tri Vi dẫn tân thuỷ quân quét dọn sạch sẽ, cũng mau chóng bị đuổi ra biển, sĩ khí khó phục hồi.

Trong tháng Mười hai năm Trường Hi thứ mười sáu, Phượng Tri Vi quay về Thượng Dã. Nàng ở đây chờ Ninh Dịch chuyển giao sự vụ trong quân cho Tướng quân Mân Nam, sau đó cùng nhau trở về kinh.

Hoa Quỳnh đã chờ nàng ở Thượng Dã từ lâu, khi thuyền của Phượng Tri Vi từ từ cập bến, hai người nhìn nhau, lộ ra nụ cười thấu hiểu.

Một nụ cười trống trải mang theo nỗi thê lương, lòng nghĩ từ nay tạm biệt Hoàng Hải, ngày về không hẹn, thiếu niên nhỏ bé đứng trước cửa am ni cô năm đó, đã không con khóc lóc trong vòng tay cô nữa.

Một nụ cười trầm lắng ẩn chứa chờ đợi, lòng nghĩ hai bên đã chia tay mất tháng, mắt Ninh Dịch ắt hẳn đã lành rồi, mà Đế Kinh xa cách lâu ngày, rốt cuộc cũng có thể chờ y, cùng nhau bước trên đường về.

Nàng và Cố Nam Y bước từ trên sàn thuyền xuống, trên người nàng đeo chiếc hộp chưa từng rời thân trong những ngày liên tục chiến đấu trên biển, tâm trạng cũng rất sáng sủa.

Vừa đứng vững trên bến tàu, nàng còn chưa kịp mở lời, bỗng có một người áo xám lao tới nhanh như tia chớp, phóng đến trước mặt nàng, quỳ “bịch” xuống, dập đầu lạy trong nước bùn.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.