Type: Huyền
Quan viên đứng bên hết sức ngưỡng mộ Thu Thượng Kỳ – vốn là chức quan võ lớn, giờ lại có điệt nhi làm quan văn, là cận thần của thiên tử, tốt đẹp biết chừng nào…
Hai người “bắt tay vui vẻ trò chuyện”, hẹn nhau thường xuyên qua lại, rồi mới “lưu luyến không rời” chia tay. Phượng Tri Vi chật vật thoát thân khỏi đám quan viên, chuồn về viện mình nghỉ ngơi trước. Hoàng đế bệ hạ cũng khá là khai ân, cho nàng thời gian vài ngày chờ nhận nhà cửa ruộng vườn, cũng them thời gian cho Lại bộ chuẩn bị.
Vừa vào cửa đã bị Thuần Vu Mãnh tung một đấm: “Tiểu tử giỏi lắm, ta nhìn không ra đấy!”
Yên Hoài Thạch mỉm cười ranh ma: “Thật là, mới xa nhau nửa ngày mà quân đã vượt long môn rồi.”
Phượng Tri Vi phớt lờ bọn họ, gấp gáp nói: “Mau thu dọn đồ đạc, rời khỏi thư viện Thanh Minh. Yên huynh có nhà ở gần hoàng thành không? Trước hết chúng ta hãy đến đó ở, tin tức cũng nhanh nhạy hơn một chút.”
Mọi người kinh ngạc, Phượng Tri Vi lại liếc sang Thuần Vu Mãnh nói: “Thuần Vu gia chắc là không gặp chuyện gì đâu, hay là ngươi cứ nghe lời cha ngươi đi, tạm hoãn đến Trường Anh vệ báo danh.”
“Huynh đang nói cái khỉ gì thế?” Thuần Vu Mãnh còn chưa kịp nhập cuộc, thì Yên Hoài Thạch đã ngạc nhiên hỏi: “Chẳng phải thích khách đã chết rồi sao? Hoàng đế muốn động binh đao à?”
Phượng Tri Vi trầm ngâm không nói, nghĩ thầm chỉ e muốn động binh đao còn có một người khác. Vả lại hôm nay khi các Hoàng tử công kích Ninh Dịch, nét mặt Hoàng đế cũng cực kỳ đặc sắc; có một số việc, chưa chắc đã giản đơn như vẻ bề ngoài.
“Đừng hỏi, tin ta thì mau đi.” Phượng Tri Vi trả lời qua quýt, quay lưng lại đã thấy Cố thiếu gia ôm khư khư cái gối bảo bối của y.
Ban đêm, sau khi ngự giá rời thư viện Thanh Minh, Đế Kinh có loạn.
Bởi năm đó là năm Canh Dần, nên sử gọi là “Canh Dần chi biến.”
Biến loạn này ban đầu không hiển lộ, người trong cuộc vẫn hồn nhiên không biết. Cho đến nhiều năm sau, khi người có tâm chậm rãi hồi tưởng và suy diễn, mới chợt tỉnh ngộ mà “à” lên một tiếng.
Đầu tiên Thiên Thịnh đế triệu Thái tử vào cung, phụ tử mật đàm, rồi Thái tử rời cung với sắc mặ hốt hoảng bất an.
Ngay trong đêm đó, Sở vương bị giam lỏng ở hành cung gặp thích khách, cung nữ toan hạ độc trong thức ăn, bị Trường Anh vệ phát hiện.
Thiên Thịnh đế trong một ngày lại cấp tốc triệu Thái tử lần thứ hai, không biết vì sao xảy ra xung đột, nghe đồn cung nhân đứng ngoài điện nghe rõ mồn một tiếng bàn trản (*) vỡ vụn.
(*) Bàn trản: Một loại chén có đĩa kê bên dưới.
Hôm sau Hoàng đế lệnh cho Ngũ hoàng tử tạm lãnh chức tổng quản Trường Anh vệ.
Trường Anh vệ xưa nay vẫn phụ trách bảo vệ Đông cung, hôm đó Ngũ hoàng tử mượn cớ lực lượng canh giữ hoàng cung thiếu người, Trường Anh vệ không thể tự ý rời cương vị, để điều Trường Anh vệ ra khỏi Đông cung, đổi thành Ngự Lâm quân thủ vệ dưới trướng mình.
Thái tử nổi giận, đích thân đến tìm Ngũ hoàng tử hỏi tội, Ngũ hoàng tử thái độ cung kính miệng đầy khuôn phép, nhưng nhất quyết không chịu điều Trường Anh vệ trở về, lại nói Trường Anh và Ngự Lâm đề là thủ vệ của hoàng gia, cớ sao Thái tử lại khăng khăng giữ Trường Anh mà bỏ Ngự Lâm, hay là trong lòng có điều chi mờ ám? Thái tử nổi giận, vơ lấy chén trà ném Ngũ hoàng tử bị thương.
Bấy giờ Thái tử đã nhận ra mình bị cô lập hoàn toàn, thư viện Thanh Minh lấy cớ cho về suy ngẫm chờ trị tội để đuổi hết môn hạ học sinh có quan hệ thân thiết với Thái tử. Cửu Thành nha môn do Sở vương cai quản thì bằng mặt không bằng lòng, quần thần trong triều thất vọng vì Thái tử kém cỏi bạc bẽo, dù ngoài mặt vẫn cung kính như xưa, nhưng khi đụng việc lại gây nhiều trở ngại thoái thác.
Chỉ còn lại Thập hoàng tử, trước kia còn nhỏ tuổi nên không được Thái tử coi trọng; giờ đây Thái tử đã mất đi sự trợ giúp của Ninh Dịch, không chịu đựng nổi đành đi than thở với ấu đệ. Thập hoàng tử khuyên Thái tử không việc gì phải nhường nhịn, cứ tỏ rõ uy nghi của bậ trừ quân (*), khiến những kẻ coi thường quân thượng này biết tay một phen. Thái tử bèn cứng rắn tiếp quản Cửu Thành nha môn, ở Tuần tra ti trong Cửu Thành nha môn, hắn đã tra ra một số chứng cứ bí mật về việc Ngũ hoàng tử ngấm ngầm kết giao với tướng lĩnh biên thùy, lén thu ruộng tốt, đặt cạm bẫy ám hại những lão thần khai quốc năm xưa.
(*) Trừ quân: Tương tự như hoàng trừ, là người kế thừa ngộ vị.
Tìm hiểu đến ngọn nguồn, thì việc này hình như cũng có bàn tay Thất hoàng tử nhúng vào. Thái tử mừng điên lên, cứ như lấy được báu vật, lại sợ sau khi bẩm báo lên Hoàng đế việc này sẽ bị ém đi, bèn chơi đòn hiểm ngay lập tức, một mặt sai người lựa đúng giờ cửa cung khóa lại, cố tình trì hoãn việc vào cung báo tin, mặt khác lại truy tìm nhân chứng ngay trong đêm ấy, dùng bảo ấn Thái tử để đình chức một đám quan lại có liên quan chờ xem xét.
Thái tử sợ Ngũ hoàng tử và Thất hoàng tử bí quá hóa liều, không nghe lời khuyên can của phụ tá Đông cung, dùng thủ dụ điều động đại doanh Hổ Uy quân ngoài kinh toan bao vây quanh hai toàn vương phủ. Ngũ hoàng tử yêu cầu được yết kiến Thiên Thịnh đế, bị binh lính nhiều lần ngăn cản, trong cơn giận dữ điều động Ngự Lâm quân xong thẳng vào cung, nếu không có Thất hoàng tử đến can ngăn kịp thời thì khó lòng tránh khỏi một trận đổ máu.
Thất hoàng tử nhận sai, Thái tử vừa lòng, bấy giờ mới cảm thấy mọi chuyện đã ngã ngũ, hết sức vui vẻ, lén lút thiết yến trong Đông cung, nói giữa buổi tiệc: “Phụ hoàng lúc nào cũng bảo tính tình ta nhu nhược, giờ ta cho ông ấy thấy ta mạnh mẽ dữ dội thế nào!”
Lời còn chưa dứt, đã nghe có tiếng người cười nhạt tiếp lời: “Chưa chắc!”
Kế đó một người từ phía sau bình phong bước ra, gương mặt nặng trịch ánh mắt lạnh lùng, chính là Thiên Thịnh đế.
Những câu chuyện truyền miệng đến khúc này là chấm dứt, về sau xảy ra chuyện gì thì chẳng còn ai có thể kể tường tận. Trong hơn mười ngày ngắn ngủi mà tình thế xoay vần, phong vân biến ảo khôn lường, Thái tử còn đang dương dương đắc ý vì nắm được thóp lão ngũ lão thất, thì nháy mắt thế cục đã đột ngột biến đổi. Sau đó bảo ấn Thái tử lại bị tịch thu, những triều thần thuộc phe Ngũ hoàng tử và Thất hoàng tử thuận thế phản công, buộc tội phe Thái tử bổ nhiệm người của mình can thiệp vào hình ngục, kết bè kết đảng liên lụy với người vô tội, hai bên công kích lẫn nhau, triều chính biến thành một mớ lộn xộn.
Trong những chuyện này, có một số chuyện ai nấy đều biết, còn đâu là do Phượng Tri Vi thông qua môn khách Yên gia thăm dò khắp nơi, sắp xếp thu gom lại. Người ta còn đang lờ mờ phỏng đoán, nhưng Phượng Tri Vi đã hiểu rõ ngọn ngành: Thái tử đã từng bước sa vào vũng bùn.
Thì ra ngay từ đầu, mục tiêu của Ninh Dịch, chính là Thái tử.
Ngoài ra còn có các huynh đệ thế lực tầm cỡ như sói như hổ này nữa.
Mùa hạ gió thổi hiu hiu, nắng vàng rực rỡ, gió lùa qua rèm lụa biếc đem đến cảm giác mát mẻ. Phượng Tri Vi ngồi ở phòng trong cuốn rèm lên một nửa, dùng kẹp nhỏ bằng vàng ròng để đập hồ đào, đập một nhát lại cười một tiếng.
“Tâm kế rất khá! Thế cục liên hoàn cũng rất tuyệt!”
Cố Nam Y ngồi đối diện nàng, đập một nhát lại ăn một quả.
“Đây là Thái tử.” Phượng Tri Vi đầy bụng sầu não, cầm hồ đào bắt đầu lảm nhảm. Nàng nhặt ra một quả hồ đào lớn, rồi thả một quả nhỏ bên cạnh, “Đây là Ninh Dịch, được triều đình công nhận là tâm phúc trong vây cánh Thái tử.”
Cố Nam Y lập tức tóm lấy quả Ninh Dịch kia chén bay.
Phượng Tri Vi ngạc nhiên, lại nhặt một quả hồ đào vẫn còn vỏ cứng đóng vai Ninh Dịch, nhưng vô ích, Cố thiếu gia vẫn đánh nhanh diệt gọn, vừa ăn vừa nhổ hết vỏ ra một cách cực kỳ chính xác.
…Sau cùng Phượng Tri Vi đành lấy một cây bút lông đóng vai Sở vương điện hạ, rốt cuộc mới tránh khỏi số phận bị nuốt.
“Bởi y được công nhận là vây cánh Thái tử, cho nên trước khi thoát ly khỏi thân phạn này, y tuyệt đối không thể ra tay với Thái tử. Bằng không nếu xảy ra chuyện gì, y đều phải chịu tội liên đới.”
Phượng Tri Vi cạch cạch bày ra một đống hồ đào, rồi bắn rầm rầm vào đống của Thái tử và Ninh Dịch, “Cho dù y động đến Thái tử xong vẫn bình yên vô sự, thì các Hoàng tử đang rình rập như hổ đói xung quanh sẽ thi nhau nhào lên, ai cũng được Thiên Thịnh đế yêu quý hơn y, ai cũng có địa vị cao hơn y, cuối cùng vẫn là cốc mò cò xơi, người ngồi lên ngôi báu chắc chắn không phải y.”
“Vậy y nên làm gì đây?” Phượng Tri Vi khẻ mỉm cười, bắn quả hồ đào tượng trưng cho Thái tủ về phái đám Hoàng tử kia, đống hồ đào va đập vào nhau, văng ra bốn phía, “Trước rũ bỏ mối liên hệ bản thân, sau lại mượn lực chống lực, kéo tất cả xuống nước, chỉ lo giữ mình an toàn.”
Nàng cầm cây bút lông Ninh Dịch gõ lên quả hồ đào Thái tử, “Thích khách là bước đầu tiên, vốn không nhằm thích sát Hoàng đế, mà để bản thân y ‘gặp oan bị nhốt’.”
“Thích khách được y cố tình giới thiệu cho Thái tử, cố tình để các huynh đệ tình cờ thấy mặt. Y biết tỏng tính cách ích kỷ của Thái tử, biết hắn gặp chuyện nhất định sẽ đổ hết trách nhiệm lên đầu mình.” Phượng Tri Vi ngẩng đầu trầm ngâm, “Nếu ta đoán không lầm, thì y đã dùng một cách thức đặc biệt để tiết lộ cho Hoàng đế chân tướng của gã thích khách này. Cho dù y không tiết lộ, thì với bản lĩnh của Thiên Thịnh đế, lẽ nào lại thật sự không biết chút gì về mấy đứa con? Cho nên khi Thái tử đổ trách nhiệm lên đầu Ninh Dịch, các Hoàng tử bỏ đá xuống giếng, sắc mặt Thiên Thịnh đế mới khó coi làm vậy.”
“Y ‘chịu oan ức’, lại lấy đại cục làm trọng ẩn nhẫn chịu đựng, các Hoàng tử biết thừa có điều giả trá, lại bất chấp tình thân nói dối không chớp mắt. Thiên Thịnh đế chứng kiến tất cả, chẳng trách lại có sắc mặt đặc sắc như thế.”
Phượng Tri Vi cầm lấy quả hồ đào Thái tử, chậm rãi lấy một đầu bút lông khoét thịt quả ra ăn, rồi tiện tay chia cho Cố Nam Y một nửa, “Lão Hoàng đế quả nhiên không phải nhân vật đơn giản, giả vờ không biết, giam lỏng Ninh Dịch để dò xét tâm tư mọi người. Nực cười thay một đám huynh đệ hoàng gia còn tưởng rốt cuộc đã đẩy ngã được một người, mà không ngờ rằng, thử thách chỉ vừa mới bắt đầu.”
“Chuyện về sau vẫn nằm trong ván cờ của Ninh Dịch, nhưng lúc này y đã không thể coi là vây cánh Thái tử, hơn nữa còn bị ‘giam lỏng trong biệt cung, trọng thương nằm liệt giường’, dù có tính toán thế nào, cũng không thể tính đến y. Thế là hồ đào ngào đường…” Phượng Tri Vi nheo mắt cười, “Nào hạ độc, nào điều quân, nào xới tung đủ loại chứng cớ… Đợi cho đến khi Thái tử và các huynh đệ lưỡng bại câu thương ăn hành ngậm mồm thì vết thương của y cũng đã lành, oan uổng cũng được rửa trôi, y hóa trang hoàn chỉnh đúng lúc bước lên sàn diễn.”
“Bốp bốp bốp bốp.” Phượng Tri Vi vỗ tay, đưa hồ đào Thái tử và hồ đào Hoàng tử cho Cố Nam Y đã đợi rất lâu, hoàn toàn không nghe nàng nói. Cố thiếu gia liền sốt ruột chén gọn.
“Bốp bốp.” Có người vỗ tay ngoài cửa sổ, mỉm cười thò đầu vào, “Hay cho một tràng suy diễn cục diện chính trị, nếu Sở vương biết toàn bộ kế hoạch đều bị huynh nắm rõ, thì liệu có nảy ra ý định thủ tiêu huynh không?”
“Tại hạ xương cốt tuy mềm, nhưng cũng hông dễ thủ tiêu đến thế.” Phượng Tri Vi cười, vung tay ném, bút lông cắm chuẩn xác vào ống bút.
“Cho huynh biết một tin nóng hổi nè.” Yên Hoài Thạch ngồi trên chấn song cửa sổ, nhìn về hướng hoàng thành, “Hôm nay Hoàng đế đã từ chối không cho Thái tử yết kiến, đồng thời gọi Tam đại học sĩ tiến cung.”
Phượng Tri Vi cười, nghĩ bụng Thái tử tiêu đời rồi.
Đêm hôm ấy, Thái tử nhiều lần cầu kiến Thiên Thịnh đế không thành, lại biết Tam đại học sĩ vào Ngự thư phòng cả đêm chưa ra, tỏng cơn tuyệt vọng, hắn triệu tập thị vệ Đông cung, mượn cớ “thanh trừ gian nịnh bên hoàng đế” để xông vào cung.
Nhưng trước khi hắn kéo quân vào, thì Thiên Thịnh đế đã rời hoàng cung, đến đại bản doanh Hổ Uy quân ngoài thành.
Sau đó phát liền mấy đạo chiếu chỉ, phong tỏa chín cổng kinh thành, điều động Hổ Uy quân bao vây loạn đảng.
Phượng Tri Vi cũng nằm trong đội cận thần hộ giá – thật ra Thiên Thịnh đế nhắm vào Cố thiếu gia bên cạnh nàng.
Đại doanh Hổ Uy nằm kế bên hành cung Chiếu Thủy giam lỏng Ninh Dịch, Sở vương biết tin này, ruổi ngựa trong đêm, chỉ mang theo hơn mười hộ vệ đến trước đại doanh cầu kiến Thiên Thịnh đế.
Hôm ấy phụ tử kề gối (*) đàm đạo thâu đêm, cụ thể họ nói những gì, trên đời vĩnh viễn không ai biết. Có lẽ là phụ từ tử hiếu dốc hết ruột gan, cũng có thể là binh bất yếm trá có qua có lại.
(*) Kề gối: Chỉ tư thế ngồi ngang hàng nhau, đầu gối hai bên chạm nhau, nghĩa bóng là cuộc nói chuyện thân mật không phân thứ bậc cao thấp.
Vào khuya, trong phòng phảng phất hương trầm, hơi sương trắng nhờ che đi những ánh mắt thâm trầm u ám.
Hửng sáng, sương sớm đậu trên cỏ biếc quanh thềm. Ninh Dịch cung kính lui ra, đôi mắt đỏ hoe dưới nắng ban mai, mà ánh mắt nhìn về phía kinh thành, lại lạnh như sương tuyết.
Gió loạn cuối cùng cũng thổi, ai thuận gió bay cao? Phải xem xét từ đầu mới rõ.
Y chợt ngoảnh đầu như có linh cảm.
Rồi y thấy, trên thảm cỏ ngưng sương, dưới bầu trời ngợp nắng mai, cô gái ăn vận như thiếu niên kia để cho tà áo tung bay phần phật. Nàng chắp tay trước trướng, dõi mắt nhìn y từ phương xa.
Cười mà như không.
Ninh Dịch cũng dõi mắt nhìn nàng.
Trên gò cao, gió lộng nắng gắt, suối tóc đen và tà áo nàng dập dờn múa lượn, đứng trên cao không khiến người ta cảm thấy khí thế bức người, ở dưới thấp cũng không gây cho người ta cảm giác đê hèn khúm núm. Nàng vĩnh viễn ung dung bình thản, mà dằng sau vẻ bình thản ấy là sóng gió dâng trào.
Một cô gái vững vàng hiên ngang như thế.
Ánh mắt hai người giao thoa, giờ khắc này đã mang một ý vị khác hẳn xưa kia.
Từ thuở ban đầu hoàn toàn bị động, sống chết một tay y thao túng, đến hôm nay nhìn nhau từ xa, giữa nụ cười ẩn chứa vô vàn toan tính.
Y biết nàng nắm rõ mọi điều về y, cũng như nàng biết y nắm rõ mọi điều nàng biết.
Ninh Dịch chợt có linh cảm kỳ lạ – từ rày trở đi, nàng sẽ tiến dần về phía y, bằng phong thái ngày càng khó nắm bắt.
Y bỗng dưng muốn xích lại gần, nói với nàng đôi câu, còn nói gì thì tạm thời y chưa nghĩ ra. Nhưng y cảm thấy, đoạn đường đến gần nàng quá đủ để y nghĩ ra chủ đề câu chuyện.
Y mới vừa dợm bước, nàng đã đột ngột quay đi.
Xa xa, trên thảm cỏ xanh mượt, bên người nàng nổi lên sắc xanh thiên thủy nhàn nhạt. Con người như tạc từ ngọc kia vẫn không thèm để mắt đến bất cứ ai, lại đứng rất gần nàng, ngẩng đầu lên đón tia nắng nguyên sơ.
Tia nắng mảnh mai chiếu vào khuôn cằm lờ mờ ẩn hiện sau lớp mạng che, đường cong nơi đó như tạc từ ngọc, ánh nắng chiếu đến đây bỗng chảy xuôi lưu loát như dòng suối, rơi xuống thảm cỏ xanh biết, trong không trung dường như có quầng sáng rực rỡ đang bay múa.
Nàng dời mắt đi, quay đầu mỉm cười với nam tử đó. Không biết nàng nói gì, nam tử kia vẫn tỏ ra hờ hững dửng dưng với tất cả, hơi ngẩng đầu chuyên chú, nhắm nghiền hai mắt thưởng thức hương thơm cây cỏ dưới ánh mặt trời. Nàng bèn cúi người tìm kiếm khắp nơi, tìm ra một ngọn cỏ có vị ngọt rồi cẩn thận bứt lá cỏ, gập lại làm đôi, một nữa bỏ vào miệng mình chầm chậm mút, một nửa đưa cho y, dạy thiếu niên đứng đối diện bằng ánh mắt thấp thoáng nét cười.
Thiếu niên như tạc từ ngọc ấy nhìn ngọn cỏ kia rất lâu, cuối cùng cũng học theo nàng, đưa ngọn cỏ vào trong miệng.
Gò cao gió ấm, ánh nắng như hun, nàng mỉm cười với kẻ kia, nụ cười bình đạm nhạt phai.
Đây là một người khác của nàng mà y chưa từng gặp.
Nàng đối xử với y bằng sự xảo trá, tàn nhẫn, bằng tâm kế thâm trầm, bằng thái độ chỉ sợ không kịp tránh né.
Y chợt cảm thấy lòng mình nóng rực.
Ánh nắng dường như mỏng đi, tiếng gió cũng không còn vi vu êm ái, quầng sáng bảy màu rực rỡ vỡ òa trên thảm cỏ, tiết trời oi bức khiến người ta khó lòng chịu đừng.
Ninh Dịch đưa tay lên, từ đằng xa, chỉ thẳng vào Phượng Tri Vi.
Phượng Tri Vi ngoái đầu, thấy Sở vương điện hạ đằng xa không biết từ bao giờ mặt mũi đã sa sầm, đôi môi mỏng nhếch lên, có vẻ rất khó chịu, trong lòng bèn nảy sinh oán niệm – vừa rồi hình như ngươi còn rất hòa nhã cơ mà, sao nháy mắt đã trở mặt như tiết trời tháng Sáu thất thường vậy?
Y chỉ nàng, rồi chỉ vào hoàng thành, sau đó phất tay áo bỏ đi.
“Lo mà giải quyết êm thấm.”
Nàng khom lưng, mỉm cười, nhìn theo bóng y dứt khoát rời đi.
“Như ngài mong muốn.”
Vào tầm sáng muộn, Yên Hoài Thạch dẫn theo tùy tùng đến tặng vài món quà vặt cho Phượng Tri Vi, đương nhiên chủ yếu là chuẩn bị cho Cố Nam Y. Phượng Tri Vi tiện thể an bài cho hắn “tình cờ gặp gỡ” với vài vị Tể phụ (*), xem như lưu lại ấn tượng đầu tiên.
(*) Tể phụ: Chức quan đứng đầu triều đình, có thời dùng để chỉ Tể tướng, có thời dùng để chỉ người đứng sau Tể tướng một bậc.
Yên Hoài Thạch mang tin tức trong kinh, quả nhiên, Thái tử đối đầu với Hoàng đế chỉ có bốn chữ “lấy trứng chọi đá” là phù hợp nhất để miêu tả.
“Thái tử cũng hồ đồ mất rồi.” Yên Hoài Thạch lắc đầu ngán ngẩm, “Mấy năm nay Hoàng đế có vẻ lơ là chính sự, nhưng người chưa bao giờ buông lỏng tầm khống chế với binh quyền. Thái tử tưởng rằng nắm giữ được non nửa lực lượng hộ vệ ở kinh kỳ là có thể nắm chắc phần thắng? Chậc chậc…”
Phượng Tri Vi chắp tay, dõi mắt nhìn đăm đăm về phía chân trời, rồi tựa như bị máu lửa chốn hoàng thành làm cho lóa mắt, nàng nheo mắt lại, hồi lâu mới chậm rãi nói: “Điểm khác biết lớn nhất giữa Thái tử và Sở vương, chính là Sở vương chưa bao giờ dám coi thường Thiên Thịnh đế.”
Cân đo thời thế, lựa sức mà làm, sự trầm ổn của Ninh Dịch, người thường không tài nào theo kịp. Ngay cả Phượng Tri Vi ban đầu cũng không ngờ rằng, Ninh Dịch sẽ bỏ ra mười năm để bày thế cục đối phó với một vị Thái tử tầm thường mà ai ai cũng tin chắc sẽ bị lật đổ bất cứ lúc nào.
Bởi lật đổ Thái tử thì dễ, nhưng lật đổ Thái tử mà không bị Hoàng đế nghi ngờ mới khó.
Nếu nàng đoán không sai, thì vào đêm trước hôm ám sát, nhiệm vụ thật sự của những binh lính kia là đảm bảo cho thích khách có thể thuận lợi lọt vào nội đường và khống chế con em các trọng thần theo học trong thư viện.
Thanh Minh là khâu quan trọng nhất trong toàn bộ kế hoạch. Thông qua thư viện này, Sở vương phong lưu chốn Đế kinh thật ra đã sớm khống chế được mạch máu của nhiều triều thần.
Kế hoạch bắt đầu từ bao giờ? Từ khi mới lập quốc? Hay là sớm hơn?
Khi mọi người thấy được tầm quan trọng của Thanh Minh, Ninh Dịch lập tức rút lui, “rất mực trung thành” đem nó “dâng lên” Thái tử.
Sở vương phong lưu, cầm đầu một đám công tử hoàng thân quốc thích trong kinh thành, tỏ ra phóng đãng không màng triều chính, chơi hết hoa Đế kinh, thưởng trọn liễu phong trần.
Tựa như hai lần Phượng Tri Vi gặp y ở kỹ viện và trên đường phố, hiển nhiên rằng, đám công tử này đều nghe lời y răm rắp.
Hoặc cố ý hoặc vô tình, dần dà ngấm sâu, nhiều năm trôi qua, đám con em quý tộc này chắc chắn đã lén kết thành mối quan hệ lợi ích vô cùng thân thiết với Sở vương phủ. Dẫu là chuyện đời tư hay là thư viện của công, những điểm yếu của họ đều bị bàn tay của Tân Tử Nghiễn và y kiểm soát chặt chẽ.
Điều Ninh Dịch muốn làm tuyệt đối không chỉ là lật đổ Thái tử, mà là lấy được lòng tin của Hoàng đế trong quá trình đó; chờ Thái tử bị lật đổ rồi, chiếm được càng nhiều sự ủng hộ.
Y chưa bao giờ khinh thường vị Đế vương khai quốc đã một tay sáng lập ra hoàng triều Thiên Thịnh, dù cho mấy năm nay ông đã già yếu, chán chường chính sự, không lập được công tích nào.
Mà vị Thái tử trong hoàng cung kia vĩnh viễn cũng không biết cánh tay phải của mình lại nuôi ý đồ hiểm ác như thế. Hắn đã bị vòng vây trùng trùng điệp điệp của Hổ Uy quân và tình thế bất lợi nghiêng hẳn về một phía ép cho mất đi bản tính, gần đi đến bước đường điên cuồng.
Sau khi ý đồ xong vào cung thất bại, hắn không ngừng bị bức bách phải lùi vào trong phạm vi Đông cung. Thiên Thịnh đế muốn giải quyết hết thảy tranh đấu trong Đông cung; máu tươi có thể nhuộm đỏ Đông cung, nhưng không thể vấy lên chính điện Triều Hoa.
Hoàng đế xem ra rất bình tĩnh, kéo Phượng Tri Vi vào trướng chơi cơ, nàng cứ thua hai ván lại thắng một ván, khiến Hoàng đế rất vừa lòng.
Quân báo thỉnh thoảng được đưa đến, Thiên Thịnh đế xem một cách ung dung bình thản, đôi mắt lặng lờ dưới ánh nến, mỗi một nếp nhăn đều nhíu chặt, trông mà tang thương.
Đáy lòng Phượng Tri Vi cũng se lạnh như những quân cờ bằng ngọc này.
Lạnh vì nhà Đế vương thâm trầm như vực thẳm.
Chơi cờ đến khuya, một con khoái mã đạp bóng đêm mà đến, nghe thấp thoáng có tiếng xưng danh xin vào. Thiên Thịnh đế ngồi thẳng không nhúc nhích, hạ quân cờ đánh “cạch” một tiếng, động tác hình như dồn sức hơi mạnh, khiến ánh nến chập chờn muốn tắt.
Phượng Tri Vi ngấm ngầm than thở, đứng dậy cáo mệt, “Vi thần chơi cờ kém cỏi, xin bệ hạ tha cho thần!”
Thiên Thịnh đế bật cười, xáo tung bàn cờ. Phượng Tri Vi lập tức cáo lui, ra đến cửa lại nghe tiếng Hoàng đế thở dài: “Ở lại nghe cùng trẫm đi.”
Trong lòng căng thẳng, lại không dám chối từ, nàng đành hạ mày khép mắt: “Dạ.”
Vừa ngước lên, thấy ánh mắt Hoàng đế có vẻ bơ phờ, trong cơn hoảng hốt hốt nàng nhớ lại cái hôm mình nấp sau bình phong chứng kiến các Hoàng tử công kích Ninh Dịch, ông cũng từng lộ ra ánh mắt như thế.
Quân báo gắn xi niêm phong kín mít được trình lên, Thiên Thịnh đế xem xong, chân mày đột ngột run rẩy, rồi nổi giận vỗ bàn.
“Khốn nạn!”
Thái tử không biết vì sao lại nổi điên, ngang nhiên lấy hỏa pháo san bằng tường ngoài của Đông cung. Đông cung vốn là một phần của hoàng cung, sau lại xây một bức tường tượng trưng để ngăn ra thành một khu vực biệt lập. Bắn ra viên đạn pháo này, hắn không lùi mà tiến, tiến thẳng vào hoàng cung. Đám thị vệ bị đẩy vào đường chết, tự biết mình xui xẻo kia bổng bạo phát hung tính, vào cung đốt giết bốn bề, lại bắt giữ Thập hoàng tử và Công chúa Thiều Ninh làm con tin, luôn mồm đòi Thiên Thịnh đế trả lại công bằng cho mình.
Ngọn đèn trên bàn bị chấn động rơi xuống, quân báo bắt lửa cháy bừng bừng. Giữa làn khói mờ, Thiên Thịnh đế nổi trận lôi đình – ông rất hiểu Thái tử, biết đứa con này lá gan không lớn, đáng ra chẳng thể gây nên sóng gió gì, lại trông mong Thiều Ninh vốn thân thiết với Thái tử có thể khuyên nhủ đại ca mình, cho nên mới không mang theo con gái. Ai dè Thái tử phát rồ phát dại, ngay đến em ruột cũng không buông tha!
Vài vị lão thần nghe tin báo chạy tới, đều có vẻ bàng hoàng, nhưng không một ai đi tìm lời giải thích cho sự to gan lớn mật đến đáng ngờ của Thái tử. Ai nấy đều bảo lòng người khó dò, bên cạnh Thái tử có rất nhiều tiểu nhân, còn nói Thái tử gặp chuyện nổi điên, bệ hạ ân nặng nhường nào, lại dám phụ lòng người đến thế!
Phượng Tri Vi thờ ơ chứng kiến cảnh này, lại nhớ tới con trai của Đông các Đại học sĩ, chính là vị Diêu công tử từng bị Cố Nam Y bẻ gãy tay đó. Mấy lần gặp gỡ trước kia, hắn đều đi bên cạnh Ninh Dịch.
Thiên Thịnh đế phát tác một trận rồi cũng dần dần lấy lại bình tĩnh, bỗng ông hạ giọng nói: “Ngụy tiên sinh.”
Thôi xong… Phượng Tri Vi âm thầm oán than, mình vãn không tránh được rồi. Nàng gấp gáp rời khỏi Thanh Minh, theo Hoàng đế trốn vào đại doanh, bên người có vạn quân, đáng ra không cần dùng đến nàng chứ? Ai ngờ lại xảy ra việc này.
Hôm ấy đáng ra Cố thiếu gia không nên để lộ bản lĩnh, để bây giờ bị người ta nhớ nhung thế này.
Một khắc đồng hồ sau, một nghìn Hổ Uy quân đã đứng chờ ngoài trướng, Phượng Tri Vi không còn đường lui, đành trèo lên ngựa, dỗ dành Cố Nam Y: “Chúng ta đi uống rượu nhé.”
Cố thiếu gia vốn không thích nửa đêm bị dựng dậy, nghe được câu này lập tức yêu cầu: “Phải là loại rượu ngày hôm đó.”
Phượng Tri Vi tiếp tục dỗ dành: “Thuần Vu Mãnh có, tôi đưa ngài đi tìm hắn.”
Cố thiếu gia hình như rất hào hứng, tiện tay bứt một ngọn cỏ, gập lại làm hai đoạn, đưa cho nàng để làm phần thưởng.
Phượng Tri Vi cắn thử – là vị đắng.
Ngậm ngọn cỏ đắng giữa hai hàm răng, Phượng Tri Vi ngồi lắc lư trên yên ngựa, trong lòng lại hồi tưởng những lời Thiên Thịnh đế nói khi tiễn biệt. Đế vương thâm trầm này lúc ấy đã nhìn nàng bằng đôi mắt lo âu, rồi tha thiết dặn dò nàng: “Nhất định phải cứu được Công chúa.”
Không ngờ Thiên Thịnh đế thật sự vẫn còn chút tình thương của người cha dành cho Thiều Ninh, đây có lẽ là tình thân còn sót lại trong hoàng gia Ninh thị chăng?
Khi khoái mã về thành, Đế Kinh đã giới nghiêm, tất cả nha môn trong hoàng thành đều có Hổ Uy quân đóng giữ. Đội quân này Thiên Thịnh đế đã nắm chắc từ thuở ông vẫn còn là ngoại thích của vương triều Đại Thành, thống soái trong quân đều là hậu duệ của các lão thần khai quốc có công phò tá thiên tử, đặc biệt Phó soái Thuần Vu Hồng còn là thân tín của Ninh Dịch.
Cửa Tây Hoa khói lửa cuồn cuộn, tiếng hô chém giết rung trời. Ninh Dịch lĩnh chỉ, đang dẫn Hổ Uy quân truy quét tàn quân của Thái tử, mà Thái tử bị vây trong lầu Thiên Ba ở Nam cung, Thiều Ninh và Thập hoàng tử cũng đang ở đó.
Phượng Tri Vi thu tay áo ngồn trên lưng ngựa, nhìn một góc hoàng thành nhuộm trong máu lửa. Ánh lửa đỏ thẫm chiếu lên gương mặt nàng, sáng rực như sắc nước long lanh.
Nàng không hề đưa một nghìn Hổ Uy quân kia vào chiến trường, càng không dẫn theo Cố Nam Y xông vào trong quân cứu người. Nàng chỉ lẳng lặng mà chờ.
Lát sau Ninh Dịch quả nhiên thúc ngựa phi tới, lặng lẽ dừng lại bên cạnh nàng.
Một đôi nam nữ, lẵng lặng dừng ngựa dõi mắt nhìn cảnh chém giết đổ máu một góc hoàng thành.
“Có những kẻ không thể sống.” Hồi lâu, Ninh Dịch thản nhiên mở miệng.
“Có những kẻ cũng không nên chết.” Phượng Tri Vi cười với y, “Ví như, con tin.”
“Cô cứu được Ninh Tế,” Ninh Dịch nhíu đôi mày dài, “cũng đủ để ăn nói với bệ hạ rồi.” Y dừng một chặp, rồi bình thản nói, “Ta sẽ bảo vệ cô.”
Phượng Tri Vi tin vào câu nói này, nhưng lại lặng thinh không đáp. Đây là lần đầu tiên nàng tiến hành đàm phán trao đổi lợi ích với Ninh Dịch, đáy lòng đã hơi lành lạnh.
Chỉ vẻn vẹn mấy lời, đã định đoạt tính mạng của người ta. Ninh Dịch bình chân như vại cũng là lẽ thường, nhưng còn mình, cớ sao cũng điềm nhiên như không?
Lão Hoàng đế lạnh nhạt, Sở vương thâm trầm, một khi nàng đã bước vào vòng tranh đoạt, thì người đầu tiên phải bảo vệ, chỉ có thể là bản thân.
Thì ra bản chất nàng cũng là kẻ lạnh nhạt.
“Đừng để ta thất vọng.” Trong ánh lửa bập bùng, người kia nở một nụ cười hoa diễm, “Bằng không, cô sẽ tuyệt vọng.”
Nụ cười kia ẩn chứa ý vị sâu xa, trong đôi ngươi như mặc ngọc toát ra sắc thái mà ngay đến Phượng Tri Vi cũng không nhìn ra.
Phượng Tri Vi quay đầu ngựa.
“Đừng để tôi tuyệt vọng.” Nàng ngoái lại mỉm cười.
“Nếu không, tôi sẽ điên cuồng.”