Võ Lâm Phong Thần Bảng

Chương 17 - Đốt Đàn Nướng Hạt

trước
tiếp

Gió thu bắt đầu thổi mạnh, trước vọng cửa Đại Tán Quan, một biên ải hoang tàn, giữa đêm thu, cảnh vắng, vẻ tiêu sơ càng làm não lòng người, nhất là những ai mang nặng niềm tâm sự, cảm thấy thê lương xâm chiếm tâm tư, càng phút càng thấm thía.

Trước cửa ải, năm người vẫn còn đó, dù đối phương đã đi từ lâu, có lẽ đã đi xa lắm rồi.

Quan Sơn Nguyệt choàng tay lên cổ Minh Đà, thì thầm to nhỏ, như đôi tri kỷ xa cách qua nhiều thời gian, kể lể cho nhau nghe những điều tao ngộ.

Minh Đà, hoặc lắc lắc, hoặc gật gật chiếc đầu, ngôn ngữ của con vật là lắc và gật, song chủ nhân vẫn hiểu cái ý của nó như thường.

Lữ Vô Úy cất đôi chân nặng nề như đeo đá, chầm chậm bước về con ngựa của lão, dắt nó đến trước mặt Quan Sơn Nguyệt, trầm buồn thốt:

– Lão phu xin cáo từ Lịnh Chủ!

Quan Sơn Nguyệt ngẩng đầu lên, hỏi:

– Chưởng môn định đi đâu?

Lữ Vô Úy thở dài:

– Đừng gọi lão phu là Chưởng môn nữa, Lịnh Chủ! Lão phu còn mặt mũi nào xưng mình là người lãnh đạo một môn phái? Đệ tử bị người sát hại, lão phu bất tài, không báo thù cho chúng, chỉ nuốt căm hờn, gương ánh mắt nhìn cừu nhân ung dung bước đi, như vậy còn xứng đáng lãnh đạo ai nữa chứ? Việc làm trước tiên của lão phu, từ bây giờ, là thu nhặt thi hài các đệ tử xấu số, tìm cách đưa về Chung Nam, an táng xong xuôi, sau đó lão phu đóng kín sơn môn, sống âm thầm bên cạnh các ngôi mộ, vĩnh viễn xa rời nhân thế …

Quan Sơn Nguyệt vội an ủi:

– Mạng người đành là quý, sáu người cùng chết một lượt hẳn là một biến cố phi thường, song cái tang đó đem so với đại sự của phái Chung Nam, chẳng thấm vào đâu, bởi từ xưa đến nay, có môn phái nào lại chẳng có lúc phải hy sanh một vài đệ tử để bảo tồn danh dự chung? Chung Nam phái từ nhiều năm qua, rất có thinh danh trên chốn giang hồ, há vì một cái chết của vài người mà Chưởng môn lạnh lòng, bỏ phế danh dự của môn phái chứ?

Lữ Vô Úy cúi đầu, thấp giọng:

– Không lạnh lòng sao được, Lịnh Chủ, khi lão phu nhận ra mình quá bất tài, và mối thù kia, cầm như không hy vọng báo phục …

Quan Sơn Nguyệt suy nghĩ một chút:

– Tại sao Chưởng môn không định đi theo tại hạ một thời gian? Biết đâu trong khoảng thời gian đó, Chưởng môn có thể báo phục hận cừu, rồi sau đó, chấn chỉnh sơn môn, lấy lại phong độ của ngày xưa cũ?

Lữ Vô Úy chớp mắt:

– Lịnh Chủ chỉ thị cho lão phu như thế nào?

Quan Sơn Nguyệt nghiêm giọng:

– Cái tiếng chỉ thị đó, tại hạ làm sao dám nhận, Chưởng môn? Có điều tại hạ nhận thấy, giả như Chưởng môn bằng lòng theo tại hạ trong chuyến Tây hành nầy, Chưởng môn có nhiều hy vọng thu hoạch lợi ích. Tuy nhiên, tại hạ không dám cưỡng ép Chưởng môn, nếu Chưởng môn không bận việc gì quan trọng cần phải trở lại Chung Nam Sơn, thì thiết tưởng Chưởng môn nên cùng tại hạ đăng trình …

Lữ Vô Úy trầm ngâm giây lâu, đoạn hỏi:

– Chắc có lý do gì, Lịnh Chủ mới định Tây hành?

Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:

– Lý do thì tự tại hạ cũng chẳng biết như thế nào mà nói, bất quá Minh Đà cáo tố với tại hạ một điều, do sự cáo tố đó, tại hạ phải làm một chuyến viễn hành về hướng Tây Nam.

Chẳng những riêng Lữ Vô Úy ngạc nhiên, mà đến cả Lạc Tiểu Hồng, Lưu Tam Thái và Tôn Thất cũng sửng sốt.

Quan Sơn Nguyệt cười nhẹ:

– Minh Đà là một linh thú, rất hiếm có tại miền Tây Vực, gia sư nuôi dưỡng nó từ lâu, nó có linh giác nhận ra người và việc, tiếc một điều là nó không biết nói tiếng người. Ngoài sự nhẫn nại, chịu đựng, ngoài cái tánh trung thành của nó, nó còn hơn đồng loại ở chỗ ngửi cái hơi hướm của ai rồi, dù người đó xa cách nó bao nhiêu năm, gặp lại là nó nhận ra ngay, và nó còn hướng dẫn cuộc truy tầm người đó, cho nên đừng ai mong trốn khỏi nó, dù trốn tận hải giác thiên nhai, nó cũng tìm ra.

Lữ Vô Úy tỏ vẻ tán thưởng phi thường, gật đầu:

– Lão phu từng nghe nhiều người ca tụng giống lạc đà Tây Vực có linh tánh không kém loài vượn …

Rồi lão hỏi tiếp:

– Thế ra, Lịnh Chủ định truy tầm tung tích một người? Người đó là ai thế?

Quan Sơn Nguyệt điểm phớt một nụ cười:

– Ngoài Khổng Linh Linh ra, còn ai khác nữa đâu? Bại nơi tay tại hạ, chắc chắn là nàng sẽ tìm về trượng phu nàng, báo cáo điều đó, và thúc giục hắn ta mau mau báo thù cho nàng. Chúng ta theo dấu nàng, tìm đến Phi Lạc Đà, như vậy chóng gặp hắn hơn là cứ vẩn vơ, quanh quẩn nơi nầy, chờ hắn đến.

Lữ Vô Úy im lặng một lúc lâu, chưa có ý kiến gì.

Lạc Tiểu Hồng cao hứng vô cùng, còn Lưu Tam Thái lại sợ hãi.

Tôn Thất thì đương nhiên là tùy theo quyết định của Lữ Vô Úy.

Lưu Tam Thái do dự một chút, đoạn thốt:

– Lịnh Chủ quyết định như vậy, tại hạ cảm thấy có phần nào mạo hiểm đó …

Quan Sơn Nguyệt chính sắc mặt:

– Kỳ Hạo thất ước, đúng như Khổng Linh Linh đã nói, là vì một việc vô cùng quan trọng, tại hạ có cảm tưởng là việc đó liên hệ đến tại hạ, liên hệ lớn lao, có thể ngoài chỗ nghĩ của tại hạ. Mà chính tại hạ cũng đang lo lắng về việc đó. Cho nên bằng mọi giá, tạ hạ phải đến gặp hắn để biết rõ sự tình. Một ngày nào tại hạ chưa truy nguyên ra sự tình đó, là tại hạ vẫn còn mang nặng niềm thắc mắc, tâm tư khó an tịnh được. Đây chính là một cơ hội tốt, Lưu huynh ạ. Bỏ qua cơ hội nầy, cầm như suốt đời khó có dịp may thứ hai, và như vậy là ân hận cho tại hạ lắm.

Chàng dừng lại, nhìn Lưu Tam Thái, trầm giọng tiếp:

– Giả như Lưu huynh nhận thấy bất tiện cho mình, thì không nên tham gia công cuộc của tại hạ làm gì, bởi dù sao thì Lưu huynh cũng là người ngoài, không can hệ gì đến sự việc, tới cũng hay, mà lui cũng chẳng sao.

Lưu Tam Thái nào phải là con người khiếp nhược, sợ nguy hiểm mà rút cổ, co đầu?

Y khoát tay lắc đầu, đáp gấp:

– Lịnh Chủ xem thường Lưu Tam Thái nầy quá! Đành rằng tại hạ là một tiểu tốt vô danh trong giới giang hồ, song ít ra tại hạ cũng có một con tim, một bộ óc, biết suy nghĩ hợp đạo lý, thuận chánh nghĩa, biết phân biệt nẻo tà mà tránh, đường chánh mà noi, cho nên nhận thấy Lịnh Chủ là bậc can trường, nghĩa khí, tại hạ mới tình nguyện đi theo. Đã đi theo rồi, khổ cực đồng, gian nguy chung, dù có chết cũng chẳng hề thán oán. Khi nào tại hạ thấy nạn mà lùi, chờ cái phước mà lướt tới chia phần? Bất quá, tại hạ có ý kiến như vậy thôi, tại hạ nói lên, là để Lịnh Chủ quan tâm, đề phòng mọi bất trắc …

Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:

– Đa tạ Lưu huynh cũng có lòng mến phục, nhưng gặp việc phải làm, dù biết rằng nguy hiểm cũng phải làm, Lưu huynh ạ, cần gì phải suy nghĩ chứ?

Lưu Tam Thái tiếp:

– Vũ lâm ngày nay đang trải qua một cuộc phong ba, sự an ninh của giang hồ do nơi cách an bài của Lịnh Chủ, ngoài Lịnh Chủ ra, còn ai dám đảm đương đại sự? Do đó, Lịnh Chủ phải trân trọng lấy mình, giả như Lịnh Chủ có bề nào, thì kỳ vọng của mọi người trở thành tuyệt vọng.

Quan Sơn Nguyệt nhếch nụ cười khổ:

– Lưu huynh xem tại hạ quá trọng! Thực ra thì, tại hạ đã bị lôi cuốn vào vòng, có muốn rút lui cũng chẳng còn làm sao được. Đừng nói chi tại hạ, đến cả Lạc cô nương và Lưu huynh vẫn không tránh khỏi liên hệ, có điều ít quan trọng phần nào vậy thôi. Bởi lẽ giản đơn nhất là tại Tạ Dương Trang ngày ấy, Kỳ Hạo đã chứng kiến Lạc cô nương khiêu khích Hồ Hải Dị Tẩu, và Lưu huynh có mặt bên cạnh các vị tiền bối. Dù muốn dù không, Lạc cô nương và Lưu huynh cũng phải bị hắn xem như những kẻ đồng minh, trong cánh chống đối lại hắn …

Lưu Tam Thái trầm lặng giây lâu, chưa nói gì.

Lạc Tiểu Hồng gương tròn đôi mắt, hỏi:

– Mình đến đó, có gặp mẹ và dì dượng của tôi chăng, Quan đại ca?

Quan Sơn Nguyệt suy nghĩ một chút:

– Ngu huynh nghĩ rằng chúng ta có hy vọng gặp các vị tiền bối đó tại địa điểm chúng ta sắp đi đến.

Lữ Vô Úy chẳng hiểu họ đề cập đến những ai, và về chuyện gì, vội hỏi:

– Lịnh Chủ nói gì, lão phu nghe ra chẳng hiểu chi cả. Chắc là một sự bí mật nào đó, quan trọng lắm? Chẳng hay Lịnh Chủ có thể cho lão phu biết đại khái chăng?

Quan Sơn Nguyệt lắc đầu:

– Chưởng môn lượng xét cho, hiện tại, tại hạ chưa dám tiết lộ một điều gì, bởi lẽ chính tại hạ cũng chẳng minh bạch cho lắm. Có thể là sau khi đến nơi đó rồi, Chưởng môn sẽ hiểu được ít nhiều chi tiết. Tuy nhiên tại hạ cũng cần nói rõ cho Chưởng môn biết trước, là trong chuyến viễn hành nầy, chúng ta sẽ gặp dữ nhiều lành ít đấy.

Lữ Vô Úy thở dài:

– Lão phu xem mình như kẻ đã chết chờ chôn, thì còn sợ gì nguy hiểm nữa, Lịnh Chủ? Bất quá, lão phu tự hỏi mình có thể làm điều gì hữu ích cho Lịnh Chủ, hay lại phải gây phiền lụy cho Lịnh Chủ lưu tâm chiếu cố!

Quan Sơn Nguyệt bật cười thắng thắn:

– Chưởng môn khiêm nhượng đó thôi, chứ trong chuyến đi nầy, có Chưởng môn theo, chắc chắn là Chưởng môn sẽ tiếp trợ tại hạ một cách đắc lực.

Chàng ngừng lại một chút, rồi ngưng giọng tiếp:

– Ngoài ra, có thể trong một ngày nào đó, khi đại cuộc cần một nhân số quan trọng, để có đủ người ứng phó với tình hình, tại hạ phải kêu gọi đến sự tiếp trợ của các môn nhân trong quý phái.

Lữ Vô Úy trầm ngâm một lúc:

– Huynh đệ đồng hàng của lão phu, có tất cả chín người, chết sáu còn ba.

Ba người đó hiện giờ trấn thủ ở tổng đàn, về các đệ tử đời thứ hai của tệ phái, thì có ba mươi người. Các đệ tử này không ở tại Chung Nam Sơn, song nếu lão phu có lịnh triệu tập, thì tất cả đều hội về tổng đàn ngay, và sẵn sàng thi hành mọi sự do lão phu ủy thác.

Quan Sơn Nguyệt gật đầu:

– Như vậy là mình sẽ có một số người thừa thãi rồi đó. Bất quá, tại hạ thấy hiện tại, mình chỉ cần độ mười người thôi, sau nầy nếu có cần hơn số đó, mình sẽ gọi thêm. Trong số người đó, Chưởng môn nên chọn ba vị anh hùng tại tổng đàn, và triệu tập thêm năm sáu vị đệ tử nữa. Phần liên lạc với các vị đó, Chưởng môn ủy thác cho Tôn Thất.

Lữ Vô Úy hỏi:

– Bây giờ, chúng ta trước hết bảo họ phải làm gì?

Quan Sơn Nguyệt nín lặng một lúc, rồi đáp:

– Bảo họ cải dạng, để giữ hành tung bí mật, họ cũng chẳng cần tiếp xúc thẳng với chúng ta. Chúng ta do một ký hiệu riêng biệt, lưu lại dọc đường, họ sẽ âm thầm theo sau chúng ta, khi nào hữu sự, cần dùng đến họ, Chưởng môn lúc đó sẽ ra mặt chuyển lại lịnh cho họ thi thành.

Lữ Vô Úy khẳng khái đáp:

– Nếu theo Lịnh Chủ đến tận phương trời, lão phu cũng chẳng từ nan, miễn làm sao trừ diệt được Khổng Linh Linh, báo thù cho tệ phái, thì thôi! Ví dù có phải hy sanh tính mạng lão phu, hay tính mạng của các môn đồ, lão phu vẫn cam tâm như thường.

Lão day qua Tôn Thất, dặn dò mấy câu, trước khi Tôn Thất từ biệt lão để trở về Chung Nam Sơn, lão còn ân cần nhắc nhở hắn phải mua sắm quan tài, tẩm liệm thi hài sáu người xấu số đưa về Chung Nam Sơn an táng.

Sự việc sắp xếp thỏa đáng rồi, Quan Sơn Nguyệt lên lưng Minh Đà.

Lữ Vô Úy, Lạc Tiểu Hồng và Lưu Tam Thái cũng lên ngựa.

Đoàn người khởi cuộc đăng trình.

–––- oo –––- Nửa tháng sau, họ đến Bạch Long Giang, một con sông tại vùng biên giới Tây Thục.

Qua sông rồi, là họ đã đặt chân lên đất Thục thực sự, họ theo con đường lớn dẫn vào nội địa, nhưng họ không đi xa lắm.

Cũng trên con đường lớn đó, có một tiểu trấn, từ tiểu trấn nhìn lại, họ thấy con sông rõ ràng. Họ tìm một ngôi khách sạn yên tịnh, thuê phòng, ở trọ tại đó.

Quan Sơn Nguyệt ngày ngày ra tận bờ sông, ngắm sơn, ngoạn thủy, chàng có vẻ trầm tư, ít nói, ít cười, bất quá ngày hai lần, chàng nói mấy tiếng với Lữ Vô Úy vào buổi sáng, lúc gặp nhau đầu tiên trong ngày, và vào buổi tối, lúc cả bọn sắp sửa lên giường nghỉ ngơi.

Lưu Tam Thái thấy thái độ của chàng khó hiểu, muốn hỏi, nhưng y chẳng dám mở lời.

Chỉ có Lạc Tiểu Hồng, không chịu được cái vẻ trầm trọng của chàng qua mấy hôm liền. Vào một buổi sáng, khi Quan Sơn Nguyệt sắp sửa ra đi như mọi khi, Lạc Tiểu Hồng hỏi:

– Đại ca định đi đâu đấy?

Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:

– Hôm nay ngu huynh định lên Ma Thiên Lãnh xem phong cảnh. Nghe nói cảnh trí trên đó rất đẹp, ngu huynh muốn nhìn qua một lần, cho bỏ cái công vượt đường dài đến địa phương nầy.

Lạc Tiểu Hồng vội nhắc:

– Đại ca nên nhớ là chúng ta viễn hành để thực hiện một công tác quan trọng, chứ chẳng phải là một chuyến viễn du suông.

Quan Sơn Nguyệt lại cười:

– Người sanh ra trên cõi tạm, hưởng thọ được bao nhiêu ngày? Trong số ngày hạn chế đó, có mấy dịp cho chúng ta hưởng lạc thú? Nếu không biết thừa tiếp những cơn may đưa đến, mở rộng tầm mắt trước những vẻ đẹp của thiên nhiên, thì cầm như sống một cuộc đời vô vị. Lạc hiền muội phải biết, dịp may là những cái gì rất hiếm trên đời. Dịp may đến tay, không chụp lấy nó sẽ mất vĩnh viễn …

Lạc Tiểu Hồng kinh ngạc, trố mắt nhìn chàng:

– Đại ca nói gì thế? Cái ý tứ của đại ca …

Quan Sơn Nguyệt cười vang:

– Ngu huynh chẳng có ý tứ gì lạ cả, bất quá, ngu huynh muốn xem núi vậy thôi. Nếu hiền muội ngồi nhàn, cảm thấy bực bội thì cứ theo ngu huynh, còn như không muốn đi, thì ngu huynh đi một mình vậy.

Lạc Tiểu Hồng thừa hiểu, miệng nói thế chứ tâm tư Quan Sơn Nguyệt đã có chủ trương riêng biệt. Chính nàng đang tìm hiểu chủ trương của chàng như thế nào, nên nghe chàng chấp thuận cho đi theo, nàng cao hứng không thể tưởng.

Quan Sơn Nguyệt cỡi lạc đà, Lạc Tiểu Hồng cỡi ngựa, cả hai giục thú sải nhanh. Không lâu lắm, cả hai đến đầu đường dẫn lên núi, họ theo con đường đó, tiến lên. Càng lên cao, họ càng khoan khoái.

Mây thấp ngang đỉnh đầu, gió lộng từng cơn mạnh, vụt vù, những cội tùng xanh vặn mình theo gió. Nhìn xa xa, khung trời bao la, nhìn chung quanh, chẳng thấy một bóng người. Quan Sơn Nguyệt và Lạc Tiểu Hồng cảm thấy tâm tư phiêu nhiên phóng khoáng trước những vẻ đẹp thiên nhiên của núi đồi hùng vĩ.

Bình sanh, Lạc Tiểu Hồng chưa từng thưởng ngoạn những cảnh trí như thế nầy, niềm thích thú dâng cao, nàng khoa tay, tung chân như để phát tiết cái cao hứng tràn ngập nơi lòng, càng lúc càng ứ đọng …

Quan Sơn Nguyệt mỉm cười, cảnh cáo:

– Đường dốc, thỉnh thoảng có rêu xanh, rêu thì luôn luôn trơn trợt, hiền muội không lưu tâm kềm thúc con ngựa, e phải ngã đấy!

Lạc Tiểu Hồng bật cười vang:

– Đại ca khỏi phải lo, tiểu muội cỡi ngựa rất vững, vả lại con ngựa này thuộc loại quý, leo núi chẳng kém lạc đà của đại ca đâu. Nhất định không thể …

Nàng chưa kịp buông tiếng ngã, con ngựa trượt một chân, nó chuồi nhẹ tới, nàng chới với, suýt rơi xuống đường. Bất giác, nàng hoảng hồn, nhún khẽ chân vào bàn đạp, tung mình lên. Trong khi đó, Quan Sơn Nguyệt giật cương, lạc đà vọt tới, nó vươn chiếc cổ dài, chận con ngựa khỏi rơi xuống hố sâu bên đường.

Lúc Lạc Tiểu Hồng đáp xuống, con ngựa của nàng cũng đã thoát khỏi tai nạn.

Vừa khoa trương, con ngựa lại trượt, Lạc Tiểu Hồng đâm thẹn, thẹn rồi tức, rút ngọn roi ngựa quất vào cổ con thú, đồng thời mắng lớn:

– Ta mới lên tiếng khen ngươi, ngươi lại ngã nhào, làm cho ta mất mặt quá chừng! Phải trừng trị ngươi mới được!

Nhưng ngọn roi của nàng không giáng xuống cổ con ngựa, bởi Minh Đà đã ngẩng cao cổ nó lên, hứng chịu cho con ngựa. Quan Sơn Nguyệt kêu lên:

– Đừng hiền muội. Đừng đánh đập nó. Trong lúc nó đau, nhảy lồng lên, rất có thể nó rơi xuống hố đấy! Vừa uổng con ngựa quý, vừa mất phương tiện chở hiền muội trở về.

Lạc Tiểu Hồng hằn học:

– Nó vô dụng quá, còn để làm gì? Mất nó thì tiểu muội đi bộ, chứ có sao?

Quan Sơn Nguyệt cười nhẹ:

– Hiền muội đi bộ nổi sao? Trong hai hôm nữa, chúng ta sẽ lên đường sâu vào đất Thục đấy.

Lạc Tiểu Hồng trố mắt:

– Còn phải đi nữa à?

Quan Sơn Nguyệt gật đầu:

– Đương nhiên! Nơi đây, chưa phải là địa phương mình muốn đến. Sở dĩ ngu huynh còn lưu lại đây mấy hôm, là để chờ bọn người trong phái Chung Nam.

Lạc Tiểu Hồng trố mắt:

– Chờ họ? Tiểu muội nghĩ, số người đó chẳng giúp ích gì được cho đại ca trong việc đánh nhau với Kỳ Hạo đâu!

Quan Sơn Nguyệt mỉm cười:

– Nếu cần tiếp trợ mình trong cuộc chiến tương lai với Kỳ Hạo, thì có khác nào chờ một thất vọng? Không đâu hiền muội! Ngu huynh có chỗ dùng họ, ngoài cái việc đánh nhau với Kỳ Hạo. Ở địa hạt khác, họ giúp ích cho ngu huynh rất nhiều và việc mà ngu huynh sắp sửa nhờ họ đảm trách đây, ngoài họ ra, chẳng còn ai đắc lực hơn.

Lạc Tiểu Hồng nhìn sững chàng.

Quan Sơn Nguyệt lắc đầu không nói gì.

Lạc Tiểu Hồng thở dài:

– Tiểu muội biết rồi, tiểu muội không hỏi nữa đâu. Bởi có hỏi, đại ca cũng chẳng chịu nói cho nghe. Đại ca cứ xem tiểu muội như đứa bé lên ba, lên năm, chẳng biết gì!

Nàng oán trách chàng một cách nũng nịu.

Chàng điểm nhẹ một nụ cười, nói:

– Hiền muội không phải là vừa lên ba, lên năm, song hiền muội còn trẻ con lắm! Trẻ con trong ngôn từ, trẻ con trong cử động, trẻ con luôn trong tâm tưởng.

Hiền muội không nhận thấy điều đó sao? Một vị cô nương thì ít nhất cũng phải trầm tĩnh, điềm đạm, chứ có đâu lại bôn chôn, cứ mỗi chút bất mãn là phản ứng liền, bằng những bộ tịch nông nổi như thế?

Lạc Tiểu Hồng thoáng đỏ mặt. Nàng bình tịnh trở lại ngay.

Quan Sơn Nguyệt rời lưng lạc đà, nhảy xuống đường, đảo mắt nhìn quanh bốn phía, đoạn gật gù:

– Địa thế nơi đây hạp với sở nguyện của ngu huynh vô cùng. Từ lâu rồi, ngu huynh muốn có một khung cảnh như vầy để an vui ngày tháng, cho trọn tuổi trời.

Trong tương lai, khi nào xong phần việc đối với đời, có thể là ngu huynh trở lại đây, chôn chặt kiếp sống thừa, luôn cả thân xác giữa cảnh trí u nhàn nầy!

Lạc Tiểu Hồng bĩu môi:

– Có gì hấp dẫn đâu mà đại ca lại thích cái khung trời tịch mịch ở chốn xa xôi nầy chứ? Tiểu muội chẳng thấy một cái gì tạo nên nhiệt náo rất cần cho đời sống của con người, ngoài những vật vô tri như cây, đá … Chẳng lẽ đại ca tìm bạn tâm tình trong các loại thú rừng, chim muông?

Quan Sơn Nguyệt cười nhẹ:

– Đừng vội phê phán cái sở thích của ngu huynh. Với thời gian, hiền muội sẽ hiểu cái giá trị của chữ nhàn.

Đoạn, chàng chỉ tay ra bốn phía, tiếp:

– Hiền muội thử nhìn xem, có nơi nào là có khói, có mái nhà, có gia súc chăng? Một địa phương nào, còn có những thứ đó, thì địa phương ấy còn đượm mùi trần tục. Mà con người thoát được tục trần, mới bảo dưỡng được tâm hồn thanh cao …

Lạc Tiểu Hồng chận lại:

– Đại ca nói rằng, nơi đây không khói, lửa?

Quan Sơn Nguyệt gật đầu:

– Đây là tiên cảnh, chỉ có tùng, có hạc, có gió, có mây thôi!

Lạc Tiểu Hồng chớp mắt, cười vang:

– Nếu có tiên ở đây, thì vị tiên đó hẳn phải thọt một chân!

Quan Sơn Nguyệt kinh ngạc:

– Tại sao?

Lạc Tiểu Hồng vẫn còn cười:

– Tiên một chân, chắc đại ca biết là Lý Thiết Quảy chứ? Chừng như ngày xưa, Lã Đồng Tân thích uống, Lý Thiết Quảy thích ăn, mà hiện tại tiểu muội nghe phảng phất có mùi rượu thịt, cho nên tiểu muội nghĩ rằng, hai vị tiên đó đang ở quanh quẩn đâu đây!

Quan Sơn Nguyệt vội hểnh mũi ngửi khơi khơi một lúc, đoạn gật đầu:

– Hiền muội nói đúng, quả thật có mùi rượu và mùi thịt nướng phảng phất trong không khí.

Chàng cau mày, lẩm nhẩm:

– Ai cao hứng, lên tận chín tầng mây, uống rượu, ăn thịt như thế chứ?

Lạc Tiểu Hồng nheo nheo mắt:

– Thì chính là thần tiên chứ còn ai nữa? Đại ca cho rằng đây là tiên cảnh mà, làm gì có người trần tục cư ngụ?

Nàng cười lớn hơn, tiếp:

– Người phàm mơ cảnh tiên, thì ngược lại thần tiên cũng mơ hưởng mùi vị của phàm trần, người phàm mạo hiểm lên non tiên, thì thần tiên cũng lét lút xuống phàm trần tìm rượu thịt được chứ! Đó là cái mâu thuẫn nhiệm màu của hóa công, có cái mâu thuẫn đó mới có cái lẽ tuần hoàn, biến chuyển chứ, nếu không thì vũ trụ nầy là một cõi chết sao? Hóa công không thể để vũ trụ chết, nên bày ra náo nhiệt, tạo cái mâu thuẫn khắp nơi, càng có nhiều mâu thuẫn, càng phát sanh nhiệt náo!

Quan Sơn Nguyệt phì cười trước lý luận ngỗ ngược của Lạc Tiểu Hồng. Đợi nàng dứt lời, chàng bảo:

– Dù thần tiên đang chén hay phàm nhân đang say sưa, chúng ta cứ đi tìm xem cho biết.

Lạc Tiểu Hồng không đợi giục, nhảy lên lưng ngựa, giật cương. Quan Sơn Nguyệt cũng thúc lạc đà theo sau liền. Cả hai tiến theo con đường dốc, bỏ lại sau lưng từng đám mây mờ. Đường lạ, dốc cao, họ không lo ngại, bởi họ là những kỵ sĩ lành nghề.

Dĩ nhiên, họ tìm đến nơi phát xuất ra mùi rượu thịt.

Họ càng đi tới, mũi họ càng ngửi nặng mùi đó, chứng tỏ họ đi đúng hướng, nên càng lúc càng gần, có gần nên mới ngửi mùi càng nồng. Không lâu lắm, họ đến một chỗ có tảng đá cao, từ nơi đó, họ nhìn ra, xa xa, ẩn ước thấy có hai bóng người.

Hai người đó, đang ngồi đối diện nhau, một người nghiêng bầu, nốc, người kia gầm đầu, nhai ngồm ngoàm.

Lạc đà và ngựa có chậm vó lại phần nào, song Quan Sơn Nguyệt cũng nhận ra được hai người đó niên kỷ rất cao, y phục của họ bình thường. Họ có dáng vẻ là những tiều phu, nhân lúc tạm ngưng công tác, cùng nhau đánh chén.

Lạc Tiểu Hồng đinh ninh là sẽ gặp kỳ nhân, dị khách, vì chỉ có những bậc ẩn dật mới có cái thú lên non cao nhắm rượu, nhìn mây, hứng gió, nghe lá rụng, suối reo. Cho nên, trông thấy hai người bình thường, nàng thất vọng ngay, đưa mắt thoáng qua Quan Sơn Nguyệt, «hừ» một tiếng:

– Tưởng ai, không ngờ lại là hai lão già quê …

Nàng thốt hơi cao giọng, Quan Sơn Nguyệt hấp tấp khoát tay.

Cái ý của chàng là muốn cho nàng nói khẽ một chút, đừng để cho hai lão nhân nghe lọt. Chàng chỉ sợ họ nghe được rồi, lại sanh sự ra, thì đúng là tự mình gây rắc rối cho mình, rắc rối một cách vô lý, vô bổ ích.

Đúng ra, chàng sợ Lạc Tiểu Hồng không nhịn người ta được, nếu người ta trách cứ nàng sao lại phê bình có tánh cách mạ nhục, rồi nàng đánh đập người ta, thành ra mang tiếng húng hiếp dân lành.

Chàng cũng nhận thấy hai lão nhân đó, quê mùa, mộc mạc, còn tánh Lạc Tiểu Hồng thì chàng thừa hiểu rồi, chính chàng và Lưu Tam Thái đã bị nàng phiền nhiễu bên cạnh Hoàng Hà. Giả như có sự tranh luận xảy ra, thì nàng buông lung tánh khí nóng nảy, hồ đồ ngay.

Ngờ đâu, Lạc Tiểu Hồng không màng đến cái hiệu tay do Quan Sơn Nguyệt vừa biểu lộ. Trước đó, nàng đã thốt cao giọng, bây giờ nàng càng cất giọng cao hơn:

– Ta cứ tưởng là hai vị thần tiên từ nước nhược non bồng nào đến đây mà thưởng cảnh, không dè lại chính là hai lão già chờ chết! Chán quá!

Câu nói thì bâng quơ, nhưng cái ý lại hướng về hai lão nhân rõ rệt.

Chưa biết hai lão nhân có nghe lọt câu nói của nàng hay không. Trước hết, Quan Sơn Nguyệt bất mãn vô cùng, chàng toan mở miệng trách nàng, nhưng một trong hai lão nhân gọi đối tượng thốt:

– Vạn Lý huynh! Có người cho rằng chúng ta là thần tiên đấy! Hẳn Vạn Lý huynh cũng có nghe chứ?

Lão nhân vừa thốt, có gương mặt tròn, còn người đối diện lại có gương mặt vừa ốm vừa nhỏ. Lão nhân mặt ốm không nhìn lên, cứ nghiêng bầu, nốc rượu, nốc mấy hơi, buông bình rượu ra, đoạn đáp:

– Dù chúng ta không hẳn là thần tiên, thiết tưởng thần tiên cũng chẳng ai hơn chúng ta!

Khẩu khí của hai lão nhân có phần siêu trần thoát tục, Quan Sơn Nguyệt nhận ra điều đó, bất giác giật mình.

Chàng chưa nói gì, Lạc Tiểu Hồng lại cao giọng thốt, lần nầy thì nàng đối thoại thẳng với hai lão nhân:

– Thần tiên gì các ngươi? Thần tiên đâu lại quê mùa, thô tục như các ngươi?

Người mặt tròn đưa tay lên che mắt, nhìn nghiêng nghiêng xuống, bởi họ ở trên cao, còn Quan Sơn Nguyệt và Lạc Tiểu Hồng ở dưới thất. Lão mỉm cười, hỏi:

– Theo ý cô nương, thì phải như thế nào mới là thần tiên?

Lạc Tiểu Hồng trong lúc thất vọng buông những lời hằn học như vậy, chứ nàng làm gì có gặp thần tiên mà biết những vị đó ra sao? Bị cật vấn bất ngờ, nàng sững sờ, không đáp được.

Lão nhân mặt ốm cười nhẹ, tiếp lời:

– Lã Đồng Tân say rượu nằm queo tại Nhạc Dương Lâu bất quá chỉ là một đạo sĩ lạc phách, còn Lý Thiết Quảy du hí trần gian, bất quá chỉ là một gã ăn mày thối tha. Đem cả hai mà so sánh với bọn lão phu sao được? Lã và Lý đã không bằng bọn lão phu, mà họ vẫn được tôn là thần tiên như thường, thì bọn lão phu lại không thể là thần tiên được sao?

Quan Sơn Nguyệt lại giật mình lượt nữa! Suy theo khẩu khí của hai lão nhân, chàng biết ngay họ là những bậc phi phàm, dù chàng chưa biết lai lịch của họ.

Trong khi chàng lo sợ Lạc Tiểu Hồng thất lễ, thì nàng lại cao hứng quá độ, nàng kêu lên, niềm hân hoan bốc lên rõ rệt:

– Nếu vậy, hai vị là thần tiên?

Bây giờ, nàng mới bắt đầu giữ lễ độ, không xưng hô ngạo mạn nữa.

Lão nhân mặt tròn chùi hai tay dính dầu mỡ nơi ngực áo, nơi đó, dấu mỡ, dấu dầu bấy bê bết, dấu cũ có, dấu mới có, chứng tỏ lão nhân từng chùi tay lên ngực áo, chẳng hề được giặt giũ lần nào. Lão bật cười hì hì, hỏi:

– Cô nương có biết không, ngày xưa, Lý Bạch là một tay rượu cạn bầu, thơ nghiêng túi, lúc say khướt nằm ngay tại quán ngủ khì, Hoàng đế gọi, không đáp lời, tự xưng là tửu trung tiên, cô nương sắp lão Lý đó vào hạng tiên nào?

Lạc Tiểu Hồng chớp mắt, mỉm cười:

– Thi tiên!

Lão nhân lắc đầu:

– Sai! Lão ấy chỉ là một tửu tiên, lão lưu lại ngàn vạn bài thơ, để làm gì?

Lão phí mất bao nhiêu thời gian, để làm những bài thơ đó? Kiếp sống của lão được bao nhiêu lâu, mà lão bỏ phí những thì giờ quý báu để làm ra những bài thơ vô dụng. Vô dụng cho lão, vô dụng cho đời, bởi thơ có giúp ích gì cho đời một cách thiết thực? Sống, không biết thụ hưởng trọn vẹn những ngày trời, phung phí những ngày trời cho việc vô ích, cuối cùng rồi cũng chết! Phàm con người làm những việc vô ích, sống cũng như chết, huống hồ là chết đi rồi! Chết đi rồi, sao lại được gọi là tiên? Sống ở cõi tạm, không biết thụ hưởng, thì cõi tiên tiêu diêu, lão Lý còn biết thụ hưởng cái quá gì? Cho nên, nếu gượng ép mà cho rằng lão ấy là tiên, thì bất quá cũng chỉ là một tiên chết mà thôi!

Lão gật gù, tiếp nối:

– Như bọn lão phu đây, không bỏ phí một giây, một phút, trời cho bao nhiêu ngày, thụ hưởng bất nhiêu ngày. Hưởng thụ trọn vẹn một kiếp đời, là tiên giữa trần gian, có thành tiên trần gian, mới mong thành tiên thượng giới! Cho nên bọn lão phu nghĩ rằng, dù chưa là thần tiên thực sự, cũng xứng đáng được gọi là thần tiên!

Quan Sơn Nguyệt càng phút càng chú ý đến hai lão nhân. Đợi lão có gương mặt tròn dứt lời, chàng cung kích hỏi:

– Chẳng hay quý tánh cao danh của nhị vị tiên trưởng …

Lão nhân mặt ốm chận lời:

– Tiên trưởng chỉ có hiệu chứ không có tên, dù có cái tên, khi được liệt vào tiên bảng rồi, cái tên mất, chỉ còn cái hiệu là lưu lại nghìn đời. Cho nên thế nhân chỉ biết đến Thái Thượng Lão Quân, chứ có mấy ai nghĩ về Lý Nhỉ?

Quan Sơn Nguyệt lại cung kính hỏi:

– Chẳng hay tiên hiệu của nhị vị là chi?

Người mặt tròn bật cười ha hả:

– Lão phu là Nhất Luân Minh Nguyệt, còn lão nầy là Vạn Lý Vô Vân.

Chàng điềm nhiên thốt:

– Thì ra, nhị vị là những nhân vật trong bảng tiên!

Chừng như cả hai có giật mình, song họ cố giữ vẻ bình thản. Lão nhân mặt ốm, chính là Vạn Lý Vô Vân, bật cười vang:

– Cái gì là Tiên Bảng, Quỷ Bảng? Ngươi nói sao, lão phu chẳng hiểu chi.

Buông ra câu nói đó, Quan Sơn Nguyệt cố ý quăng một hòn sỏi dò đường.

Và hòn sỏi đó được quăng ra, chàng thấy không uổng chút nào, bởi nhìn vào thái độ của hai lão nhân, nghe khẩu khí của họ, chàng tin chắc là điều chàng đang suy nghĩ không sai sự thật.

Tuy nhiên, đề nhóng kỹ ý tứ của hai đối tượng, chàng mỉm cười tiếp:

– Vãn bối nghe nhị vị xưng là thần tiên, lại còn nêu lên tiên hiệu, nên nghĩ rằng hai vị đã được liệt trong Tiên Bảng.

Lão nhân mặt tròn, tức Nhất Luân Minh Nguyệt cười lớn:

– Ngươi lầm rồi! Cái tiên hiệu đó, bất quá chúng ta tùy tiện mà nói lên, nói để nghe cho vui tai vậy thôi, ngươi không nên quá chú trọng.

Rồi lão hỏi:

– Còn ngươi, ngươi tên họ chi?

Quan Sơn Nguyệt trầm ngâm một chút, đoạn đáp:

– Tại hạ là Quan Sơn Nguyệt …

Nhất Luân Minh Nguyệt à một tiếng, chận lời:

– Quan Sơn Nguyệt? Cũng hay đấy! Song ngươi giải thích như thế nào?

Quan Sơn Nguyệt lại trầm ngâm một chút, nói:

– Vạn lý quan sơn, vô vân; nhất luân cô nguyệt độc minh. Giang sơn vạn dặm, khung trời trong vắt, chẳng gợn chút mây mờ. Một vầng trăng dù lẻ loi, cô quạnh, vẫn đủ sức soi sáng. Soi sáng cái khung trời trong vắt đó.

Lần nầy thì hai lão nhân để lộ sự giật mình phần nào. Chừng như họ muốn kêu lên một tiếng kinh ngạc.

Nhanh tánh hơn, Nhất Luân Minh Nguyệt vừa định mở miệng, nhưng Vạn Lý Vô Vân vội trừng mắt nhìn lão, lão liền chuyển sang đề khác:

– Hay! Cái câu Nhất Luân Cô Nguyệt Độc Minh có ý tứ lắm đó! Xem ra, tiểu tử cũng biết chút ít chữ nghĩa đó! Lại đây, tiểu tử, lại đây, ăn thịt, uống rượu với bọn chúng ta!

Tuy nói thế, lão không đợi Quan Sơn Nguyệt đến, chính lão với một miếng thịt quăng sang cho chàng.

Quan Sơn Nguyệt đưa tay đón bắt miếng thịt. Chàng cảm thấy lòng bàn tay hơi đau, biết ngay là công lực của lão nhân rất thâm hậu. Biết được điều đó, chàng không còn hoài nghi gì nữa.

Trong lời giải thích cái tên của chàng, chàng có ngụ cái tên của ân sư qua đoạn cuối câu, thốt xong, chàng có theo dõi mọi biến chuyển thần thái của hai lão nhân.

Chính lão muốn kêu lên một tiếng, bất ngờ người kia lại trừng mắt, ngăn chặn.

Qua sự nhận xét và suy diễn đó, Quan Sơn Nguyệt quyết đoán hai lão nhân phải có một quan hệ nào với cái hội Long Hoa tại Tiểu Tây Thiên, và cả hai hẳn phải có tên trong Phong Thần Bảng, như sư phụ chàng, như Lạc Hành Quân, Lạc Tương Quân, Liễu Sơ Dương …

Cầm miếng thịt nơi tay, chàng miên man nghĩ ngợi, tìm cách khám phá thêm một vài chi tiết khác nơi hai lão nhân, để có một cách xác nhận về họ.

Riêng về Lạc Tiểu Hồng thì rất thích cái lối ngôn từ và cử động rất phóng khoáng của hai lão nhân. Hơn thế, ra đi từ sáng sớm, nàng chưa kịp ăn gì, giờ đây nghe cơn đói cấu cào dạ dày, cái đói có thể bị bỏ quên nếu chẳng có món gì hiện ra trước, kích thích. Cái đói hành hạ nàng ngay khi ánh mắt nàng chạm phải những miếng thịt nướng thơm béo.

Cố gắng lắm nàng mới giữ được nước dãi khỏi trào ra, nàng gọi to:

– Hai vị tiền bối kia ơi! Có cái gì ăn được, cho ăn với, chắc chắn là các vị có thừa chứ? Ăn không hết, vứt bỏ đi cũng thế, đừng lơ là tôi mà thành mang tiếng láu ăn đấy nhé!

Nhất Luân Minh Nguyệt có tánh khôi hài, chưa nói đã cười, mà nói ra thì toàn là những câu nghe vui vô cùng. Chính lão đáp lời Lạc Tiểu Hồng:

– Cô nương muốn ăn thịt nướng à? Được chứ, muốn ăn lão phu sẵn sàng tặng cô nương ăn, song phải có điều kiện …

Lạc Tiểu Hồng gấp giọng hỏi:

– Điều kiện chi đó?

Nhất Luân Minh Nguyệt đáp:

– Phải đáp ứng lão phu hai vấn đề.

Lạc Tiểu Hồng bực tức:

– Cho ăn thì cho, không cho ăn thì thôi, sao lại còn bày chuyện đày đọa con người ta thế, hở ông lão?

Nhất Luân Minh Nguyệt cười hì hì:

– Tiểu cô nương sợ vấn đề khó khăn nên tránh né phải không? Tránh né thì làm sao có thịt nướng mà ăn? Nói thế chứ hai vấn đề của lão phu rất giản đơn, cô nương ơi! Bất quá lão phu muốn khảo sát sự thông minh của cô nương vậy mà!

Nếu nàng hằn học nữa, chẳng hóa ra nàng không thông minh sao? Mà nàng có tánh tự cao, khi nào chịu nhận mình là ngu xuẩn. Do đó, nàng hỏi nhanh:

– Tiền bối nói thử cho tôi nghe xem!

Nhất Luân Minh Nguyệt chỉ tay ngay chiếc mũi của lão, cười trước mấy tiếng rồi mới thốt sau:

– Cô nương giải thích tại sao lão phu lại tự xưng là Nhất Luân Minh Nguyệt?

Lạc Tiểu Hồng bật cười ha hả:

– Dễ! Rất dễ! Cái mặt của tiền bối tròn như chiếc dĩa kia, tự nhiên phải giống một vầng trăng có sáng đầy đủ là khi nào trăng tròn. Khó khăn gì cái đó mà tiền bối phải đặt thành vấn đề.

Vạn Lý Vô Vân cười vang:

– Lão mập ơi! Gương mặt của ngươi đúng là một tấm chiêu bài, nhìn vào chiêu bài đó, còn ai chẳng hiểu cái hiệu của ngươi? Tự nhiên vị tiểu cô nương đó phải đoán đúng!

Nhất Luân Minh Nguyệt suy nghĩ một chút, đoạn tiếp:

– Vấn đề thứ nhất kể như thông qua. Và đây là vấn đề thứ hai, cô nương thử đoán xem, lão phu đang nướng cái thứ thịt gì?

Lạc Tiểu Hồng nhìn sang bàn tay của Quan Sơn Nguyệt. Nơi bàn tay đó, còn nguyên vẹn miếng thịt, mường tượng một đùi gà, nàng toan nói lên là thịt gà, bỗng nàng thức ngộ ra là không hẳn đúng.

Nàng thầm nghĩ:

“Giả như đúng là thịt gà, thì ai nhìn vào mà chẳng biết ngay?

Và nếu là một thứ thịt rất thường như vậy, lão ta cần gì phải nêu vấn đề? Chắc là không phải thịt gà rồi, và có thể là thịt của một loại chim nào đây …”.

Loại chim có thịt ăn được, chẳng phải hiếm, nhưng nàng có thể nhìn vào hình thức của chiếc đùi mà định loại, chiếc đùi trong tay của Quan Sơn Nguyệt khá to, có to nên nàng mới nghĩ là đùi gà. Nhìn đùi chim, nàng suy nghĩ, tìm các thứ chim nào có đùi cỡ đó.

Nhất Luân Minh Nguyệt muốn cho nàng đáp gấp, có lẽ lão sợ nàng đáp sai, nên vội đề tỉnh nàng:

– Thứ thịt đó, lão phu tìm ngay tại núi này đấy, tùy tiện mà bắt con mồi, chứ chẳng cần phải săn đuổi vất vả. Vậy cô nương cứ luận xét trong các loại điểu thú sinh sản tại núi nầy, chọn một thứ đi!

Lạc Tiểu Hồng lại suy nghĩ:

– Trên núi nầy, hay bất cứ núi nào, có thiếu chi các giống chim? Chọn một con chim đích xác, hẳn chẳng phải là việc dễ.

Nàng do dự.

Nhất Luân Minh Nguyệt lại mách nước:

– Thịt đó, là của một loài thú biết bay, mỗi lần bay là nó lên tận chín tầng mây.

Lạc Tiểu Hồng reo lên:

– Chim ưng! Mà lại là lão ưng!

Nhất Luân Minh Nguyệt thất vọng, buộc miệng thở dài:

– Lão phu có cái danh hiệu phong nhã quá chừng, người có cái danh hiệu đó lại có thể ăn được thứ thịt thô tục ấy sao?

Lạc Tiểu Hồng trố mắt:

– Thế là tôi đoán sai à? Loài biết bay, lại khó tìm nhất chẳng phải là chim ưng, thì là chim gì?

Nhất Luân Minh Nguyệt bỗng cao hứng lên, thái độ của lão mâu thuẫn hẳn với những gì lão vừa tỏ lộ. Lão đáp:

– Nào lão phu có nói là tiểu cô nương đoán sai đâu? Lại đây, tiểu cô nương!

Lại đây ăn thịt nướng với bọn lão phu!

Cũng như đối với Quan Sơn Nguyệt, tuy là lão bảo Lạc Tiểu Hồng bước lại, song chính lão cầm một miếng thịt quăng về phía nàng.

Lạc Tiểu Hồng đưa tay đón bắt. Miếng thịt vừa tới tay, nàng buông xuống đất ngay. Thì ra miếng thịt lão nhân quăng sang cho Lạc Tiểu Hồng, chẳng phải là thịt chim ưng mà lại là thịt hạc.

Nàng nhận ra, từ lúc nàng đến đây với Quan Sơn Nguyệt, chỉ có mỗi một con hạc tay lơ lửng trên không, nó quanh quẩn trên đầu nàng một lúc rồi bay luôn lên đỉnh núi.

Bây giờ, lão nhân lại có thịt hạc để ăn, nếu chẳng phải là thịt của con hạc đó, thì còn của con nào khác nữa?

Hạc là loài chim tiêu diêu nhất, nó cao nhã đến độ không hề bén mảng xuống hồng trần, nó vui với mây ngàn, nó thích khung trời cao rộng. Nó như ẩn sĩ, không lẫn lộn với các loại phi cầm nào khác, nó chỉ gần những bậc siêu nhân.

Thế mà lão lại có thể giết nó để làm món nhắm được à? Thế thì lão đâu phải là bậc thần tiên? Lão có cái tâm tàn ác lắm!

Chẳng những nàng buông miếng thịt, mà lòng nàng còn đố kỵ lão nhân vô cùng.

Nhất Luân Minh Nguyệt từ trên cao phi thân xuống đến chỗ Lạc Tiểu Hồng và Quan Sơn Nguyệt đang đứng, nhặt miếng thịt hạc cầm nơi tay, trầm giọng trách:

– Lão phu có hảo tâm, chia sẻ cho cô nương một phần thịt hạc, cô nương chẳng dùng thì hoàn lại cho lão phu, tại sao lại ném nó đi, thành ra hủy hoại một món nhắm của lão phu?

Thốt xong, lão cho miếng thịt vào miệng nhai liền. Lão nhai ngồm ngoàm, tiếng nhai kêu trách trách, xem chừng ngon lắm.

Lão càng tỏ ra thích thú, Lạc Tiểu Hồng càng cảm thấy nhờm gớm vô cùng.

Phải cố kềm chế lòng, nàng mới không nôn ọe lên. Nàng xẵng giọng phê bình:

– Trên đời nầy, có hai hành động bất nhã nhất, là đốt đàn, nướng hạc. Đã là kẻ sĩ, không ai làm nổi hai việc đó, huống chi là cao sĩ? Thế mà tiền bối làm được, hơn nữa, tiền bối lại tự hào là mình cao nhã!

Nuốt đánh ực miếng thịt hạc xong, Nhất Luân Minh Nguyệt đưa tay áo lau qua miệng, rồi thốt:

– Tiểu cô nương ơi! Cô nương nói đúng quá chừng! Nướng hạc là cái gì thô tục nhất trên đời, cho nên lão phu nghiên cứu qua nhiều năm, tìm một phương pháp hóa cái tục thành cái thanh. Bây giờ thì lão phu đã tìm được phương pháp rồi, phương pháp đó đúng là một diệu pháp!

Lạc Tiểu Hồng không lộ vẻ hoan nghinh, hừ một tiếng, hỏi:

– Phương pháp đó như thế nào, tiền bối cho là tuyệt diệu?

Nhất Luân Minh Nguyệt cười tít, nụ cười banh gương mặt lão, gương mặt đã tròn, đã lớn rồi, được banh ra, trông như cái mâm. Từ nơi cái mâm đó, một giọng nói sang sảng phát ra:

– Phương pháp đó, nằm trong cách nướng, biết nướng đúng cách, thì ăn mới ngon, ngoài ra lại còn biết loại gia vị nào thích hợp, chọn sai gia vị là miếng thịt chẳng thể thơm được!

Lạc Tiểu Hồng bực tức:

– Thiết tưởng tiền bối im đi là hơn, cái việc nướng thịt hạc đã thô tục rồi, tiền bối càng nói, cái thô tục đó càng nặng hơn. Tôi muốn nôn ra đây tiền bối ơi!

Nhất Luân Minh Nguyệt cười hì hì:

– Gái nhà lành, lại chưa được bao nhiêu tuổi đầu, không nên ăn nói bạo như vậy, tiểu cô nương! Cô nương không tin, cứ ăn thử một miếng đi, ăn rồi sẽ biết phương pháp của lão phu có tuyệt diệu hay không!

Lạc Tiểu Hồng «hừ» một tiếng:

– Tôi nói, là nói cái hành động, chứ có luận về cái chất của thịt đâu mà tiền bối cứ quả quyết là thịt rất ngon?

Nhất Luân Minh Nguyệt không nói gì nữa, cứ nắm tay nàng, định lôi nàng lên tảng đá, bắt nàng ăn.

Nàng nạt một tiếng lớn, xoay ngược bàn tay, đầu nhuyễn tiên quật xuống lưng bàn tay lão nhân.

Nhất Luân Minh Nguyệt cười nhẹ, trở lòng bàn tay lên trên, sè năm ngón, chụp ngọn roi của nàng.

Lạc Tiểu Hồng đã luyện thành Linh Xà Tiên Pháp rất thuần thục, lối sử dụng ảo diệu phi thường, hụt chiêu đầu, nàng biến thế nhanh chóng, lập tức rút roi về, rồi quất sang tiếp một chiêu thứ hai.

Nhất Luân Minh Nguyệt chừng như không tưởng là nàng có tiên pháp tân kỳ như vậy, nên chậm phản ứng một chút, thành ra đầu roi đập xuống lưng bàn tay, tuy không đau đớn gì, song bị đối phương đánh trúng là một sự nhục. Lão nổi giận «hừ» lên một tiếng lớn:

– Tiểu cô nương ngông cuồng đến mức độ đó à? Lão phu đã giảng lý, lại không chịu nghe, cứ hung hăng mãi!

Lạc Tiểu Hồng cũng nổi giận, hét:

– Lão quái vật bảo ai ngông cuồng? Chính lão xuất thủ trước kia mà!

Chính lão nắm tay tôi trước kia mà!

Lão nhân nắm tay nàng, chưa hẳn là lão có ác ý, nàng vẫn vịn vào cái cớ đó, để đổ lỗi cho lão nhân.

Nhất Luân Minh Nguyệt gắt:

– Hay chưa! Lão phu xuất thủ bao giờ? Lão phu định nắm tay tiểu cô nương, kéo cô nương lên trên tảng đá kia ăn thịt mà!

Lạc Tiểu Hồng gạt ngang:

– Nhưng tôi có thích ăn đâu?

Nhất Luân Minh Nguyệt cao giọng:

– Trong đời lão phu, chưa có một ai dám cự tuyệt lão phu điều gì. Nhất định là cô nương phải ăn một miếng thịt! Lão phu muốn như vậy!

Lão vươn tay tới, định chụp nàng lôi đi.

Lạc Tiểu Hồng sôi động tính khí muôn đời, vung roi tới tấp, đánh sang lão nhân vun vút, đánh bất kể trúng vào đâu và trúng hay không trúng.

Nhưng, sau lần bị roi chạm lưng bàn tay, Nhất Luân Minh Nguyệt đã đề phòng. Có đề phòng là có phản ứng thích hợp, tuy lão mập mạp, song lão di động hết sức nhẹ nhàng, nhanh nhẹn, tiên pháp của Lạc Tiểu Hồng nhanh, thân pháp của lão nhanh hơn. Lão nhảy bên này, tràn qua bên kia, thoạt tung mình lên, thoạt thoái về phía hậu.

Lạc Tiểu Hồng đánh ra hơn mười chiêu, chẳng có chiêu nào chạm trúng lão nhân.

Vạn Lý Vô Vân đã trở lên trên tảng đá, ngồi tại đó mà uống rượu, vừa uống vừa nhìn cuộc chiến, càng nhìn càng thích thú.

Lão thốt lên oang oang:

– Lão mập ơi! Ta xem ra, càng ngày ngươi càng vô dụng, tại Tiểu Tây Thiên, ngươi đã bị người ta trục xuất, điều đó chẳng nói làm chi, bởi những người đánh đuổi ngươi, kể ra cũng có hạng lắm, còn như ngày nay, ngươi bị vị tiểu cô nương đó quần cho mấy đường roi, ngươi phải kinh hoảng như vậy, thì thật là đáng chê! Thật đáng chê đó lão mập!

Nhất Luân Minh Nguyệt nổi giận quát:

– Vạn Lý! Ngươi đừng tưởng mình tài giỏi rồi khinh ngạo ta! Chẳng qua ta không muốn xuất thủ làm thương tổn đến cái vị tiểu cô nương nầy đó thôi, chứ nếu ta có ác ý, thì ngay trong chiêu đầu, tánh mạng nàng đã …

Vạn Lý Vô Vân đưa chén rượu lên nốc cạn, rồi cười khích:

– Nhờ có ngươi nói ra, nên ta mới biết ý tứ ngươi đó. Chứ chẳng lẽ đối với một tiểu cô nương như vậy, ngươi lại đành tâm sử dụng «Thái Âm Chưởng Pháp» sao? Hừ! Ngươi nói gì cũng bằng thừa thôi!

Đoạn lão trầm giọng tiếp luôn:

– Ngươi nhớ là chiêu mười chín xong rồi đó nhé, nếu trong chiêu thứ hai mươi, ngươi không đắc thủ, ta chẳng biết ngươi sẽ làm thế nào để chường mặt trước người đời!

Nhất Luân Minh Nguyệt nhảy về phía hậu cách xa đối phương thở dài thốt:

– Tiểu cô nương ác độc quá không muốn cho lão phu sống sót cho trọn chuỗi ngày tàn! Lão phu bị người ta đánh đuổi, chạy hoang, không đất dung thân, bây giờ cô nương lại toan hạ độc thủ nữa! Khổ ơi là khổ! Khổ quá đi cô nương ơi!

Lạc Tiểu Hồng giật mình:

– Nào tôi có ý sát hại tiền bối đâu?

Nhất Luân Minh Nguyệt lại thở dài:

– Theo thường lệ thì chẳng khi nào lão phu giao đấu với ai đến chiêu thứ hai mươi cả. Nếu có đánh nhau, qua đủ hai mươi chiêu, lão phu chưa hạ được địch, thì cầm như lão phu bại rồi đó. Mà bại là nhục, nhục tất phải chết, như vậy chẳng phải tiểu cô nương muốn hại chết lão phu sao? Còn một chiêu nữa, cô nương ạ, là đủ hai mươi chiêu. Giả như lão phu không thắng, thì chịu làm sao nổi với cái miệng của lão Vạn Lý kia?

Bất thình lình, lão vọt mình đi. Lão không vọt nơi nào, lão lại vọt ngay vào vách núi, đầu vào trước, như vậy là đầu chạm đá, đầu phải nát tan. Lão tự tử?

Tại sao?

Lạc Tiểu Hồng biến sắc, không tưởng là lão nhân quyết liệt đến thế. Nàng định vung ngọn roi ra, cho đầu roi quấn quanh mình lão, giật lại ngăn trở lão.

Nhưng, động tác của nàng chậm một chút, đầu lão nhân đã chạm vào đá rồi.

Lạ lùng thay, đầu của lão không vỡ, máu không đổ, trái lại thân hình của lão bị bắn dội trở về, chiều hướng lại đi đúng chỗ đứng của Lạc Tiểu Hồng, chẳng những thế, lại đi đáp xuống trước mặt nàng. Khi lão đặt chân xuống đất, thì một tay lão nắm chặt ngọn roi của nàng, tay kia đặt lên đầu vai nàng. Lão bật cười ha hả, bảo:

– Lần nầy thì tiểu cô nương bị lão phu bắt được rồi, không còn từ chối ăn thịt hạc nữa! Đi, cô nương lên trên đó ăn với lão phu một miếng xem nào!

Lão nhún chân, phi thân lên tảng đá, dĩ nhiên là mang luôn Lạc Tiểu Hồng theo. Nhưng, chân lão vừa chạm mép tảng đá, lão rú lên một tiếng, buông Lạc Tiểu Hồng rơi xuống.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.