Type: shiriboss
Vào khoảnh khắc đoàn người đưa dâu của Mai Đóa rời khỏi thảo nguyên, Phượng Tri Vi đang xem xét mật báo từ khắp mọi nơi do Tông Thần cung cấp.
Tổ chức thuộc về nàng nằm dưới quyền quản lý của Cố Nam Y và Tông Thần này, rốt cuộc thế lực của nó rộng lớn đến đâu, nàng chưa bao giờ đặt câu hỏi. Nàng chỉ lờ mờ biết Tông Thần rất nhanh nhạy với tin tức, hơn nữa hình như tổ chức này chỉ có một phần ở lại bên nàng, một phần khác lại rải rác khắp nơi. Còn rốt cuộc họ mang thân phận gì, làm những việc gì, nàng đều không biết.
Tông thần đã từng nói, bí mật biết càng ít càng tốt, không biết, thì rơi vào hoàn cảnh gian trá mới có thể tỏ ra ngây thơ một cách chân thật, không bị người khác hoài nghi.
Phượng Tri Vi cho là rất đúng, nhưng trong lòng đã xác định được thân phận của Tông Thần – Trong tứ đại thế gia, Hiên Viên gia tộc giỏi về y đạo, mà năm xưa Thừa Khánh đế Hiên Viên Việt đứng đầu Hiên Viên quốc từng mang tên giả họ Tông.
Trong cuốn sách Tông Thần đưa cho nàng, giúp nàng một bước lên mây, nữ tử kia từng viết một câu thế này:
“Tông Việt, Tông Việt, chỉ mong hoa mãi nở, người mãi ở. Một đời tri kỷ, vĩnh viễn không phụ lòng nhau.”
Chỉ mong người mãi ở đây, nhưng vị Hiên Viên đại đế tài hoa kia cuối cùng chỉ tại vị có năm năm.
Truớc khi rời kinh, Phượng Tri Vi từng sưu tầm được một phần quốc sử của Đại Thành, từ đó mơ hồ biết được một vài tin tức.
Năm ấy vào thời kỳ cực thịnh của Đại Thành, năm châu đại lục ngoại trừ nước Đại Uyển của Mạnh Phù Dao, còn có bốn nước Đại Hãn, Hiên Viên, Phù Phong, Đại Yên, trong đó Phù Phong tự nguyện làm một nước thần phục. Nghe nói đế quân năm nước hồi ấy ai cũng có một đoạn tình nghĩa, vào thuở Thần Anh Hoàng hậu tại thế, từng lập thệ không xâm phạm lẫn nhau. Nhưng trải qua dăm mười đời sau, theo sự phát triển mạnh mẽ của Đại Thành, quốc sự biến đổi, các nước dần dần thần phục dưới quyền của Đại Thành.
Năm Đại Thành thứ một trăm hai mươi bảy, Đại Yên quy thuận.
Năm Đại Thành thứ hai trăm mười lăm, đế quân đời cuối cùng của Hiên Viên là Hiên Viên Cảnh nhường ngôi.
Năm Đại Thành thứ ba trăm hai mươi chín, Đại Thành Huyền Cảnh đế chiếm quốc đô của Đại Hãn, Đại Hãn diệt vong.
Cho đến đây, thiên hạ mới thống nhất, trên lãnh thổ rộng lớn chỉ còn cờ xí hoa lăng tiêu đỏ rực như lửa của Đại Thành tung bay.
Kỳ nữ anh tài phong hoa trác tuyệt rực rỡ mấy trăm năm trước, lời thề sang sảng của nàng phát trên núi thần Trường Thanh, cuối cùng bị thời gian đằng đẵng mai một, mang theo cả những truyền kỳ nhiệt huyết, tuyệt đại nhi nữ kia. Lần gặp gỡ kinh diễm, hứa hẹn cả đời giữa nàng và họ ghi dấu vào dòng chảy của tháng năm, rốt cuộc chỉ lưu truyền trong mặt tối của lịch sử, không còn được người ta nhớ tới nữa.
Nghe đâu năm ấy người kế thừa ngôi vị đế quân của năm nước vì lời thề không xâm phạm lẫn nhau kia, đều đã từng hỏi tương lai phải tuân thủ đến bao giờ. Khi ấy Đại Hãn đế quân cất tiếng cười sang sảng: “Thiên hạ này, ai muốn có được, kẻ đó hãy lấy đi.”
Hiên Viên đế quân ho khẽ: “Đừng hỏi trẫm một vấn đề tẻ nhạt như vậy.”
Đại Yên đế quân phóng mắt nhìn về phía Nam lục địa, thần thái hững hờ: “Được, là may mắn của ta; mất, là vận mệnh của ta.”
Còn Đại Thành đế hậu dắt tay nhau lên đỉnh cung khuyết, nghe hỏi thế cũng đáp hững hờ: “Chỉ quản được hôm nay, chẳng quản được mai sau. Xưa nay không có giang sơn nào làm bằng thép, dẫu là Đại Thành ta cũng vậy. Dù hôm nay thịnh vượng nhất thời, tương lai cũng khó tránh khỏi con cháu lụn bại, vậy cần gì phải lo nghĩ nhiều như thế?”
Đây là câu truyện lưu truyền trong dã sử, đến nay vẫn còn ca tụng tuyệt đại ngũ thánh phóng khoáng phong hoa. Nhung thời thế đổi dời, biển cả hóa nương dâu, bây giờ xem ra, chỉ còn Hiên Viên thị vẫn ghi nhớ và tuân thủ lời thề của ngũ thánh.
Vị hậu duệ hoàng tộc này tính tình khoan dung, sau khi Phượng phu nhân qua đời hắn từng ám chỉ với Phượng Tri Vi rằng tổ chức của hắn phục tùng mọi sự sai phái của nàng, cũng vĩnh viễn bảo vệ cho nàng được an toàn. Còn thanh kiếm nắm trong lòng bàn tay nàng dùng để bảo vệ bản thân hay rút ra khỏi vỏ đả thương người khác, đều do nàng tự mình quyết định.
Trước vấn đề này, Phượng Tri Vi không nói gì cả.
Có một số việc đi đến tận cùng, thường là bốn chữ “thân bất do kỷ”.
“Thu Thượng Kỳ trọng thương chưa trị, thăng Thuần Vu Hồng lên làm Chủ soái, triều đình có thể phái Giám quân tới.” Phượng Tri Vi lật giở mật báo dưới ánh đèn, đột ngột ngẩng đầu nhìn Tông Thần, “Thu Thượng Kỳ … thật sự bị thương trên chiến trường ư?”
Tông thần im lặng hồi lâu rồi đáp: “Không phải.”
Phượng Tri Vi trầm ngâm, không hỏi tiếp nữa, nhất thời trong lòng nàng hơi ớn lạnh.
Khi nổ ra vụ án hoàng tự, Tông Thần tất nhiên sẽ cắt đứt tất cả những manh mối có thể bại lộ thân thế của nàng từ mọi góc độ. Cho nên, Thu phu nhân bỗng dưng đổ bệnh nặng không nói được; cho nên, Thu Thượng Kỳ ở Bắc Cương “bị loạn tiễn đả thương”.
Để bảo toàn một mạng sống cần rất nhiều sự hi sinh, hơn nữa, nàng không thể cự tuyệt.
Bất tri bất giác, nàng đã gánh lên lưng chừng ấy sinh mạng.
“Đại Liêu lâm trận đổi Chủ soái…” Phượng Tri Vi lại mở ra một phong thư khác. “Chiến sự giằng co, Hoàng đế Đại Liêu bất mãn, vốn phái Tam hoàng tử là An vương Tất Tư Vũ đi làm Giám quân, không ngờ vị điện hạ này mới giám quân chưa đầy hai ngày đã lâm trận chém tướng, rồi lại đích thân lên làm Chủ soái!”
Nàng chép miệng tán thưởng: “Hay, hay lắm, lại dám phạm vào sai lầm lớn nhất thiên hạ là lâm trận chém tướng, vị này là người thế nào? Trước kia ta không mấy quan tâm đến những quốc gia bên ngoài biên cảnh nên vẫn chưa nghe ai nói.”
“Đây là một trong những Hoàng tử dòng đích của Đại Liêu, nghe đâu được Hoàng đế vô cùng sủng ái. Đại Liêu không giống như Thiên Thịnh, đó giờ vẫn chưa lập Thái tử, vị Hoàng tử này có danh vọng cao nhất.”
“Tính cách thế nào?”
Lúc này ngay cả Tông Thần cũng trầm ngâm giây lát, một lúc sau mới nói: “Khó lòng nắm bắt.”
Có thể được Tông Thần thoạt nhìn ôn hòa mà thật ra mắt cao hơn đầu đánh giá như vậy, vị tân Chủ soái Đại Liêu này xem ra thật sự không phải một nhân vật đơn gảin.
Phượng Tri Vi cười cười, lại chuyển sang phong thư khác.
“…Quốc chủ Tây Lương băng hà, Hoàng thái tử một tuổi rưỡi đăng cơ, Thái hậu lâm triều thính chính.” Phượng Tri Vi “ơ” lên một tiếng, hỏi, “Ân Chí Lượng đã chết rồi à?”
“Nghe nói đã chết một thời gian rồi, song vẫn giữ kín không phát tang.” Tông Thần nói, “Cho đến khi xác định được cố mệnh đại thần, Hoàng thái tử mới đăng cơ khi tuổi còn rất nhỏ.”
“Tại sao lại giữ kín không phát tang?”
“Không biết, sau khi Ân Chí Lượng băng hà, Tây Lương hình như đã rối loạn một thời gian nhưng lại được che giấu cẩn thận. Trong thời gian ấy Bắc Cương của Thiên Thịnh có chiến tranh với Đại Liêu, Nam Cương có biến loạn của Thường gia, nên cũng không để tâm đến sự bất thường bên phía Tây Lương. Trái lại khi ấy chúng ta có một số người đang ở biên giới Mân Nam cận kề Tây Lương loáng thoáng nghe được một vài tin tức, từ đó cho đến tận bây giờ, Hoàng thái tử mới đăng cơ.”
Phượng Tri Vi cười, bỏ mật báo xuống, “Suy cho cùng đó cũng là chuyện của nước khác … Đây là cái gì?”
Trong mật báo kẹp theo mấy tờ thiếp, thấp thoáng còn có hoa văn. Phượng Tri Vi liếc mắt nhìn qua, cảm thấy có chỗ nào đó trông hơi quen mắt.
“Một vài công văn mà mật thám chuyển tới từ Tây Lương, là tin báo có liên quan đến hoàng tộc Tây Lương.”
Phượng Tri Vi đang định xem thử thì Cố Tri Hiểu bên cạnh đột ngột bò tới, túm lấy mấy tấm thiếp trong tay nàng, vần vò trong bàn tay mũm mĩm nhỏ xíu.
Phượng Tri Vi muốn giật lại thì Cố thiếu gia đã vào hùa với cái xấu, bắt đầu giúp Cố Tri Hiểu nhà mình lấy mấy tấm thiếp đó ra chơi trò gấp giấy. Hai con bút hầu không chịu buồn tẻ, mỗi bên túm một góc mà kéo, “xoẹt” một tiếng, tấm thiếp đang lành lặn đã bị xé thành hai nửa.
Mày liễu Phượng Tri Vi dựng ngược, định túm mấy đứa kia lại tét mông. Tông Thần dàn hòa, “Không sao cả, cũng chỉ là phụ lục, không quan trọng cho lắm.”
“Trẻ con không thể nuông chiều.” Phượng Tri Vi thở dài, tận tình khuyên bảo giáo dục Cố tiểu ngốc ngoan cố nhà nàng. “Bé gái được chiều hư, lớn lên sẽ cực kì phiền toái.”
Cái người mọi chuyện chẳng để vào lòng này, tại sao còn khéo chiều chuộng trẻ cơn hơn cả nàng chứ?
“Đừng học theo cô.” Cố tiểu ngốc chuyên tâm gấp giấy cho Cố Tri Hiểu nhà mình, không thèm ngẩng đầu lên. “Tri Hiểu phải được sống vui vẻ.”
Cố Tri Hiểu cảm động nhào tới, dùng mấy cái răng lưa thưa nhỏ xíu như hạt gạp nếp cắn ngón tay y, bị cha nó ghét bỏ đẩy ra.
Phượng Tri Vi cụp mắt, hơi cắn môi.
Y đang nói, không mong Cố Tri Hiểu sẽ giống nàng, cả đời bị gò bó, phải gánh vác trách nhiệm, không thể trở thành chính mình sao?
Bức tượng ngọc đặc ruột này, bắt đầu từ bao giờ đã nhìn thấu rõ ràng như thế, lại nói với giọng điệu nhẹ nhàng nhường ấy, dùng cách thức của y để yêu thương người khác.
Bên kia Cố Tri Hiểu bật cười khanh khách, Cố tiểu ngốc đã gấp giấy xong.
Y gấp rất đơn giản, thành hình phiến lá hẹp dài. Phượng Tri Vi giật mình, nhận ra đó là lá sáo mà nàng từng dạy Cố thiếu gia làm.
Trên thảo nguyên chỉ lác đác vài gốc cây, Cố thiếu gia đã rất lâu không thổi sáo lá, nhớ mãi không quên, đến khi gấp giấy cũng gấp ra một cái.
Cố Tri Hiểu đưa tay ra đòi, Cố thiếu gia lại tránh nó, ngẩn ngơ ngắm nhìn sáo lá gấp bằng giấy trong tay.
Trong nháy mắt lại nhớ đến cái đêm ở phủ Kị Dương Lũng Tây, nàng ngồi bên cạnh y, ngón tay mềm mại hất bay lá cây, trong đôi mắt có ánh sao lấp loáng.
Hay trong mấy ngày y thật sự hiểu được tử biệt là gì, y nằm tắm mưa trên mái nhà, thổi sáo lá đến nỗi khóe môi rỉ máu.
Cảm giác lạnh buốt và mằn mặn ấy có lẽ chính là sự “khổ sở” mà người ta vẫn gọi, giữa hàng trăm mùi vị trên đời.
Có lẽ y thích sự bình lặng vĩnh hằng trong quá khứ hơn, nhưng bây giờ, y tình nguyện thấu hiểu cảm giác này.
Hiểu được khổ là gì, sẽ hiểu ra niềm vui đằng sau nỗi khổ.
Nắm cây sáo lá bằng giấy trong lòng bàn tay rất lâu, rồi y đứng dậy, đi tìm một cái hộp, cẩn thận đặt nó vào bên trong.
Cố Tri Hiểu mù mờ ngồi trên tấm thảm, không hiểu vì sao cha gấp một món đồ chơi mà cuối cùng không chịu đưa cho mình, lại cất nó đi cứ như bảo bối.
Cái người thấu hiểu kia lặng lẽ ôm lấy nó, áp mặt lên khuôn mặt mịn như đồ sứ của nó. Gương mặt nàng cũng mềm mại như cánh hoa xuân, mà cõi lòng thì đã già đi trong dòng thời gian như nước chảy.
Có những tình cảm không thể nói rõ đã gì đi trong dòng thời gian như nước chảy, có những rắc rối chực chờ bùng nổ đã trở nên chín muồi trong dòng thời gian ấy.
Ban đêm trong trấn nhỏ ở biên giới.
Đi về phương Bắc là thảo nguyên, đi về phương Nam là nội địa. Ngày mai, ở trấn nhỏ tên là Hồi Nghiêu này, đoàn người đón dâu đến nghênh đón Mai Đóa sắp sửa hợp lại với đoàn người đưa dâu của vương đình thảo nguyên. Chủ trại ngựa ở Đức Châu sắp đón người vợ kế của mình về.
Đoàn người đưa dâu rầm rộ đã bao hết các khách điếm trong trấn nhỏ, vây kín lấy căn phòng của Mai Đóa vào chính giữa để bảo vệ. Trong viện các hộ vệ luân phiên canh gác, đèn đuốc sáng trưng, mấy bà thím cao lớn thô kệch cũng chia ca ra trông coi. Mai Đóa dù có muốn chiết cũng không tìm được cơ hội, càng đừng mơ đến chuyện nói một câu với người khác.
Phượng Tri Vi đã từng nói, tất cả đãi ngộ với Mai Đóa đều tôn quý như xưa nhưng tuyệt đối không cho phép nàng ta xảy ra chuyện gì, cũng không cho bất cứ kẻ nào trò chuyện với nàng ta, ai vi phạm thì tự mang đầu mình đến nộp.
Sau sự kiện vừa xảy ra, vương quân thảo nguyên không còn dám tỏ ra khinh thường nữ tử Trung Nguyên nữa, không ai có gan vi phạm mệnh lệnh của nàng.
Mai Đóa ngồi trong phòng, ngẩn ngơ đối mặt với ngọn đèn, mí mắt sưng đỏ như hoa đào. Dọc đường đi nàng ta khóc lóc quậy phá, la lối om sòm, mua chuộc, van cầu, giả bệnh mong chạy trốn, chiêu trò gì cũng đem ra xài hết nhưng tất cả đều vô dụng. Đám đông xung quanh lặng lẽ như núi cao sừng sững, dù nàng ta đâm đầu về hướng nào cũng đều đụng phải bức tường không thể vượt qua.
Sau ngày mai, mọi chuyện sẽ ngã ngũ. Từ Đức Châu tới vương đình quá xa xôi, nàng ta muốn trở về sẽ rất khó khăn; mà nàng ta đã trở thành vợ người khác, dĩ nhiên cũng không còn mặt mũi nào về.
Mai Đóa cắn răng, đáy mắt lộ ra thần sắc tuyệt vọng, vừa suy nghĩ cẩn thận, vừa vô thức xoa xoa lên thắt lưng mình.
Lập tức có một bà thím bước lại, ngồi bên cạnh, nhìn chằm chằm vào tay nàng ta, cứ sợ nàng ta rút thắt lưng ra rồi treo lên xà nhà tự sát vậy.
Mai Đóa cười khổ, buông tay ra.
Cánh cửa kêu đánh “kẹt”, một bà thím khác bước vào. Bà thím trước thở phào nhẹ nhõm, cười nói: “Bà đến rồi à, vậy tôi đi ngủ đây.”
Bà thím vào sau khẽ gật đầu, bà thím trước ngáp dài rồi đi ra cửa.
Bà thím vào sau đặt mông ngồi xuống bên cạnh Mai Đóa, động tác cứng đờ.
Mai Đóa tuyệt vọng thở dài, từ bên bàn đứng dậy, đi đến bên giờng.
“Cô còn muốn quay về nữa không?”
Giọng nam có phần quen thuộc, khiến Mai Đóa giật mình quay phắt lại.
Bốn phía không người, chỉ có bà thím kia đang nhìn nàng ta. Thấy nàng ta nhìn về phía mình, bà ta nheo nheo mắt.
Vừa nheo mắt lại, ánh mắt như mạ vàng.
“Khắc…” Tiếng thét kinh hãi của Mai Đóa suýt ra khỏi miệng, lại bị ánh mắt của đối phương ngăn cản.
“…Phượng Tri Vi đúng là một nhân vật lợi hại…” Khắc Liệt cải trang thành bà thím lười nhác vươn vai. “Giáo phái của ta gần như đã được điều động hết, bám theo từ vương đình đến tận nơi đây. Ngần ấy người nghĩ đủ mọi biện pháp, đến hôm nay mới có thể nhân lúc bọn họ sắp hoàn thành nhiệm vụ mà có phần lơi lỏng, tìm được một lỗ hổng, lẻn đến trước mặt cô…Chậc chậc…”
“Ngài tới đây cứu ta hả?” Mai Đóa kinh hỉ đến nỗi không dám tin vào tai mình, ngày thường nàng ta chẳng có giao tình gì với Khắc Liệt, kẻ này ngay cả vợ con của mình cũng không để trong lòng, thế mà lại chịu hao hết tâm tư mạo hiểm đi cứu nàng ta.
“Cứ cho là vậy đi.” Khắc Liệt khẽ cười. Mai Đóa lập tức xoay người thu dọn đồ đạc. “Vậy chúng ta đi ngay thôi!”
“Không.”
Mai Đóa ngạc nhiên xoay lại, Khắc Liệt đón nhận ánh mắt nàng ta, mỉm cười, “Nói thật nhé, ta không có cách gì đưa cô thoát khỏi đây, mà với giao tình giữa ta và cô, hình như cô đâu đáng để ta bắt thuộc hạ của mình chịu tổn thất nghiêm trọng.”
Câu nói này tuy vô tình nhưng lại là lời thật. Mai Đóa mặt mũi sa sầm, ngừng tay lại, lạnh lùng hỏi: “Vậy ngươi đến đây làm gì?”
“Cho cô một cách để tương lai có thể trở về.” Khắc Liệt lấy từ trong ngực áo ra một gói giấy. “Đây là kì dược của giáo phái ta, sau khi dùng nó, trên người sẽ dần dần xuất hiện một vài vết sẹp màu xanh tím, thoạt nhìn giống như chịu ngược đãi mà thành, mạch tượng cũng sẽ có tổn thương, nhưng thật ra không gây hại đến thân thể người uống. Tương lai chỉ cần cô có thể trở về, dùng dáng vẻ ấy xuất hiện trước mặt Trát Đáp Lan, với tình nghĩa của gã đối với cô từ trước đến giờ, cô nói xem…” Hắn bật cười, không nói gì nữa.
Mai Đóa ngẫm nghĩ, trên mặt lộ ra nét vui mừng nhưng vẫn nửa tin nửa ngờ. Phụ nữ trời sinh thích mình đẹp đẽ, theo trực giác bài xích hiệu quả của loại thuốc này, một lúc sau mới nói: “Ta làm sao tin được ngươi sẽ không hại ta? Vả lại nếu hiệu quả của thuốc không tan đi…”
Khắc Liệt lại lấy ra một bình nhỏ, nói: “Thuốc giải.”
Mai Đóa nhìn gói thuốc im lặng, Khắc Liệt nhướn mày ra chiều không để tâm, bảo: “Loại thuốc này phải uống lâu dài mới có thể xuất hiện vết sẹo, nói cách khác bây giờ cô uống vào, sau lễ cưới vết sẹo mới từ từ nổi lên, tương lại mới có thể dễ dàng chiếm được lòng tin của Trát Đáp Lan, khiến gã tin tưởng cô bị Phượng Tri Vi bố trí gả vào một gia đình tàn ác, chịu hết khổ sở. Cho nên cô muốn ta uống cho cô xem ngay bây gườ cũng vô ích, cô muốn tin hay không thì tùy, nếu thật sự không yên tâm thì trả lại cho ta.”
Nói đoạn liền tỏ vẻ muốn thu thuốc lại. Mai Đóa đưa tay đoạt lấy, siết chặt gói giấy kia trong tay mình, điềm nhiên nói: “Ta chưa bao giờ bị người ta ép ra nông nỗi này… Dù có chết thì đã làm sao? Nếu không vì muốn gặp lại Trát Đáp Lan một lần, tự mình hỏi ngài thì ngày ấy ta đã sớm đâm chủy thủ vào tim rồi!”
Ánh mắt Khắc Liệt lóe lên một tia mai mỉa, nhìn đi chỗ khác không nói gì cả. Hắn nheo mắt, nhớ lại cô gái mặt vàng cười khẽ mà tới kia, cô gái phi phàm mặt không đổi sắc giúp Trát Đáp Lan giải mối nguy kim minh, một mũi tên trúng vô số con chim là hắn, Gia Đức, Na Đáp, Mai Đóa, Đạt Mã. Hắn nghĩ đến những đường nét tinh tế bị người ta bỏ qua đằng sau bề ngoài mặt vàng mày rủ của nàng, một cô gái có những đường nét như thế, sao có thể là người xấu xí chứ?
Hắn mỉm cười, đôi mắt như hồ ly lóe lên tia xảo quyệt… Có làm thảo nguyên vương hay không cũng chẳng quan trọng đến thế, nhưng nếu trong cuộc đời này không có thách thức và thăng trầm, không có máu đỏ và xương trắng đẹp đẽ vô ngần tô điểm thì còn gì thú vị?
Rất may là, về sau vẫn còn trò vui …
Hắn mỉm cười, đẩy một chén trà sang.
Mai Đóa cắn răng, ánh mắt lấp lóe. Khắc Liệt mỉm cười bảo: “Thuốc này còn có công hiệu khác. Cô trở thành như thế, lão già góa vợ kia cũng sẽ không chạm đến cô làm gì, sau này cô uống thuốc giải rồi, còn có thể quay về bên Trát Đáp Lan với thân thể nguyên vẹn.”
Không do dự gì nữa, Mai Đóa nâng chén trà, uống vào thứ bột phấn màu xám trong gói giấy.
Thấy nàng ta uống thuốc rồi, ý cười trong mắt Khắc Liệt càng thêm đậm.
Mai Đóa dừng lại một lát, trên mặt dần dần nổi lên một vệt ửng đỏ. Nàng ta đè tay lên ngực, khẽ thở dốc một hơi, nói: “Thuốc của ngươi…thuốc của ngươi…”
“À, ta quên nói cho cô biết.” Khắc Liệt uể oải nói, “Trước đó ta đã bỏ vào một chút xuân dược.”
“Ngươi…” Mai Đóa ngẩng phắt đầu, vùng vẫy muốn đứng lên, lại nhận ra toàn thân mình mềm nhũn, mất hết sức lực.
Khắc Liệt tiến lên, nhẹ nhàng ôm lấy nàng ta.
Hắn ôm nàng ta bước về phía giường, mỉm cười cúi người, khe khẽ thì thào bên tai nàng ta: “Lão già góa vợ kia tất nhiên đã được Phượng Tri Vi dặn dò, canh giữ cô thật nghiêm ngặt. Nhưng người Trung Nguyên rất coi trọng trinh tiết, chỉ cần cô không còn nguyên vẹn, trong lòng lão sẽ ghét bỏ cô, rồi sẽ có một ngày cô chạy thoát…”
Mai Đóa yếu ớt giãy giụa trong vòng tay hắn, muốn nói câu gì, lại nhận ra mình thậm chí còn không có sức mà mở miệng.
Màn che trướng rủ, y phục ném đi, trong bóng lụa hồng, nam tử thân thể cao gầy, đè lên nữ tử uyển chuyển mềm mại…
Ánh nến chập chờn u ám.
Một lúc sau, vang lên một tiếng kêu trầm thấp.
Tiếng kêu ấy xé ruột xé gan nhưng không thể hoàn toàn phát ra thành tiếng mà giống như bị người ta nhanh tay lấy chăn bông chặn lại, nghẹn lại trong bóng tối.
Trong màn đêm, chiếc giường khẽ run rẩy, không biết là giường hay người run rẩy, cũng không biết là vì hoan lạc hay đau khổ mà run rẩy.
Ánh nến chập chờn vài nhịp rồi tắt lịm.
Có tiếng cười khẽ quanh quẩn trong gian phòng.
“…Mai di ơi là Mai di… Khi thân thể rách nát của cô tới Đức Châu, cô nói xem lão già góa vợ kia liệu có tưởng rằng Thuận Nghĩa vương ném cho lão một món hàng mà mình đã xài đến tàn tạ? Liệu có vì thế mà hận Trả Đáp Lan và Phượng Tri Vi? Vị chủ trại ngựa này, nghe nói còn có một thân thế người đời không biết, có quan hệ rất thân thiết với vị lương đạo Vũ Châu chưởng quản việc vận chuyển lương thảo cho tiền phương…Mai di, đa tạ sự hi sinh của cô, đã tạ đa tạ.”
Trong phòng dần dần tỏa ra mùi máu thoang thoảng, màn trướng vén lên, Khắc Liệt thờ ơ rẽ màn bước ra. Khi hắn mặc xong y phục rồi bỏ đi, ngón tay tùy tiện lau lên màn trướng bên cạnh cửa.
Một vệt máu đỏ tươi.
Khi Mai Đóa ôm đầy lòng thù hận đến với cuộc hôn nhân của mình, tiến vào trại ngựa Đức Châu, thì thảo nguyên cũng tiến vào một thời kỳ hoàn toàn mới dưới sự dẫn dắt của tân vương và Đại phi.
Cuộc phản loạn của Gia Đức cuối cùng còn chưa ra khỏi đại doanh đã bị ba tộc Thanh Điểu, Bạch Lộc và Hoàng Kim Sư Tử bóp chết tại chỗ. Sau khi hắn chết, gia tộc của tộc trưởng Hoàng Kim Sư Tử ngày trước đã chính thức bị đuổi ra khỏi thảo nguyên.
Cái chết của Gia Đức đã làm chấn động đám anh em chú bác không an phận kia. Gia tộc Khố Nhĩ Tra có thế lực hùng hậu nhất cũng thất bại, nguời khác tự nhiên không dám nuôi dị tâm nữa, bởi những kẻ nuôi dị tâm đều đã chết hết – Một đêm nào đó có một đám anh em chú bác tụ họp trong lều trướng, ngày hôm sau Đại vương đã thân thiết triệu kiến tất cả những người tham gia tụ họp, đọc lại cho họ nghe tất tật những nội dung mà đêm qua họ đã bàn với nhau, cũng căn cứ vào lời họ nói mà đối xử khác nhau, có người được thưởng ghế ngồi, có người phải đứng, có kẻ bị ép phải quỳ xuống, còn có người bị đẩy thẳng ra chém đầu rồi đưa vào.
Đám quý tộc Nhân Nhĩ Cát ngang bướng từ đó trở đi câm như hết – Đêm đó rõ ràng đã canh gác nghiêm ngặt xung quanh, một bóng ma cũng không thấy, Đại vương cớ sao biết tất cả các nội dung họ trò chuyện?
Mà địa vị của vương đình bây giờ cũng càng thêm vững chắc – Phật sống đời thứ mười tám sinh ra trong vương đình, Thuận Nghĩa vương đời này đã định trước sẽ đời vương quyền vững chắc nhất. Thần quyền cũng sinh ra trong lòng vương quyền, mọi người quỳ trước Phật sống thì đồng thời cũng quỳ trước Thuận Nghĩa vương, còn gì để nói nữa?
Hỏa Hồ bộ do sự làm loạn của Khắc Liệt nên bị ép phải rời khỏi lãnh địa hiện tại, cũng đổi một vị tộc trưởng mới. Mỏ ô kim trong lãnh địa này bị Hách Liên Tranh cưỡng ép thu về vương đình, tuyên bố sẽ do vương đình hằng năm căn cứ vào lợi tức và công lao để phân chia cho các bộ tộc, tránh để thảo nguyên tiếp tục rơi vào hỗn loạn vì nó.
Gần như đúng vào lúc thảo nguyên vừa mới yên ổn, Phượng Tri Vi liền bắt đầu huấn luyện cho chiến sĩ Nhân Nhĩ Cát. Công phu cưỡi ngựa và hạ bàn của hán tử thảo nguyên đều tương đối cao, nhưng nếu so sánh với cao thủ Trung Nguyên chân chính thì kĩ xảo tác chiến vẫn còn chưa đủ. Nàng bèn để Tông Thần đích thân phái cao thủ dưới tay mình đi huấn luyện, cũng chọn trong số đó ra ba nghìn chiến sĩ Nhân Nhĩ Cát ưu tú nhất trung thành nhất, tổ chức thành một đội “Thiết kụ Thuận Nghĩa” khác. Cố thiếu gia thi thoảng hứng lên cũng sẽ cõng theo nữ Phật sống nhà mình đích thân đi chỉ bảo. Cố Tri Hiểu trời sinh đã có năng lực thích ứng vô cùng tốt, dù là bay lên hay rớt xuống, Phật sống đều cảm thấy nằm trên lưng “nhũ phụ” là chuyện thoải mái nhất trần đời.
Tông Thần còn kê một đơn thuốc cho những người thể chất yếu đuối ở thảo nguyên do khí hậu và tập quán sinh hoạt, tiến hành điều dưỡng. Những năm qua trẻ sơ sinh trên thảo nguyên cứ đến mùa xuân lại thi nhau đổ bệnh, năm nào cũng chết đi rất nhiều. Sau khi Tông Thần đến đây, thảo nguyên gần như không còn trẻ con chết yểu nữa.
Đồng thời với sự củng cố vương quyền cho Hách Liên Tranh, vị Đại phu mới lên cũng đạt được uy tín và địa vị không thua kém Mẫu Đơn Thái hậu trên thảo nguyên.
Khi huấn luyện “Thiết kỵ Thuận Nghĩa”, thủ lĩnh giai đoạn sau dần dần đổi thành một thiếu niên họ Ngụy.
Nhân vật này đã ra mặt như thế.
Một hôm nào đó, Cố đại hiệp được các chiến sĩ kính ngưỡng nhất dẫn theo một thiếu niên người Hán đến tham quan thiết kỵ thao luyện.
Các chiến sĩ Nhân Nhĩ Cát rất thích thể hiện bản thân, đã trổ hết các kĩ năng, phô bày hết phong thái, chỉ đợi thiếu niên thoạt nhìn có vẻ gầy yếu kia lộ ra sự thán phục và khen ngợi.
Kết quả thiếu niên kia xem xong mà mặt không đổi sắc, chỉ đánh gia ba câu.
“Động tác ngu ngốc! Sức lực yếu đuổi! Ứng biến kém cỏi!”
Nói một câu làm ba nghìn hán tử cường tráng xanh mặt tại trận.
Ngày ấy thiếu niên kia đón nhận ba nghìn ánh mắt không phục, tay không xuống thao trường, liên tục khiêu chiến tám vị thủ lĩnh của ba nghìn thiết kỵ – Bát Bưu thân vệ của Đại vương.
Bát Bưu bị đánh cho tơi bời hoa lá, thê thảm ngã lăn ra đất.
Bát Bưu “không lết nổi người”, nằm bò ra đất chống cằm nghĩ, từ ngày họ đi theo Đại vương và Đại phi, năng khiếu diễn kịch ngày càng trở nên cao siêu, bảo ngã là ngã liền, bảo giả chết là giả chết ngay, bảo lăn sang trái ba vòng tuyệt không dám lăn sang phải bốn vòng…
Thiếu niên họ Ngụy dễ dàng thu được sự thần phục của các hán tử thảo nguyên, từ đó thường xuyên xuất hiện trên thao trường của các chiến sĩ. Y là người hòa nhã, rất có tài trí, trở nên quen thuộc với các chiến sĩ.
Dần dần mọi người đều biết, thiếu niên này là một người đáng thương, trong một lần bị tập kích y mất đi trí nhớ, mơ màng hành tẩu, đi một mạch lưu lạc đến thảo nguyên, không biết đến từ đâu không biết đi về đâu, chỉ nhớ được mang máng rằng mình họ Ngụy.
Thảo nguyên rộng rãi thiên lương, đã tiếp nhận một kẻ lãnh du thân phận nhập nhằng, ngay cả Đại phi cũng từng thiết yến chiêu đãi thiếu niên họ Ngụy này, hành động ấy được mọi người nhất trí ca ngợi.
Loáng cái đã mấy tháng trôi qua, tháng Tám đầu thu, triều đình phái sứ giả tới, chủ trì nghi thức Phật sống tọa sàng.
Miếu Hô Âm chuẩn bị một buổi lễ long trọng cho Phật sống, Cố Tri Hiểu lần đầu tiên bị ép phải rời khỏi cha mình, tỏ ra hết sức bực bội. Phượng Tri Vi vừa đe dọa vừa dụ dỗ, đe dọa nếu không ngoan thì từ nay về sau sẽ bắt nó ngủ một mình, dụ dỗ nếu ngoan thì sẽ cho phép nó ngủ cùng cha mình, mới thu phục được Phật sống đời thứ mười tám.
Vị sứ giả kia hóa ra lại là người quen, rất quen rất quen luôn – Tân Tử Nghiễn.
Ở nghi thức tọa sàng thiêng liêng, trong miếu Hô Âm hương khói vẩn vơ, Tân Tử Nghiễn sứ giả của triều đình và Thuận Nghĩa Đại phi Phượng Tri Vi lần đầu tiên gặp lại, trong mùa thu năm Trường Hi thứ mười bảy, sau biến cố bảy ngày ở Đế Kinh.
Nhìn nhau mỉm cười, vui vẻ thi lễ.
“Từ lần bái biệt trước, Đại phi có khỏe không?” Tân Tử Nghiễn vái dài tận đất, nho nhã lễ độ.
Phượng Tri Vi thấy thái dương ông đã lấm tấm những sợi tóc bạc, trước mắt chợt lướt qua hình ảnh cái mông màu nguyệt bạch trên cây ở Lan Hương viện năm ấy.
Lúc dó nàng cứu ông thoát khỏi đòn sát thủ dao phay của sư tử Hà Đông nhà ông, không lâu sau đó ông kéo nàng vào vụ án hoàng tự lớn nhất của Đại Thành, khiến nàng mất đi tất cả người thân.
Đây là kẻ thù.
Nhưng nàng đã sớm học được cách mỉm cười với kẻ thù.
“Nhờ phúc của Tân đại nhân.” Nàng ưu nhã đáp lễ, “Ta rất khỏe mạnh, đại nhân có khỏe không? Sống ở Đế Kinh thật không dễ dàng, thấy đại nhân thần thái rạng ngời, chắc hẳn là rất đắc ý.”
Tân Tử Nghiễn ánh mắt lấp lóe, ngẩng đầu lên nhìn nàng. Ông vẫn không biết Phượng Tri Vi chính là Ngụy Tri, bởi vậy trong ấn tượng của ông chỉ có tài hoa sáng chói của cô gái này bộc lộ trong cuộc thi thơ ở yến tiệc mừng thọ của Thường Quý phi và vẻ hờ hững thong dong của nàng khi theo Hách Liên Tranh từ biệt Đế Kinh. Bây giờ gặp lại sau nửa năm, tài năng rực rỡ của nàng đã ẩn đi, nàng trở nên ấm áp như ôn tuyền róc rách chảy, nhưng chính vì thế mà ông rùng mình ớn lạnh, tựa như thấy cánh phượng trên trời thu vuốt sắc, đậu trên núi tuyết trắng ngần, nghiêng đầu nhìn ông bằng đôi mắt lấp lóe những mũi châm.
“Không dám.” Tân Tử Nghiễn cụp mắt xuống, lùi lại một bước. “Tất cả đều nhờ vào ân đức của bệ hạ, nhờ vào lòng khoan dung của Sở vương điện hạ. Tử Nghiễn chịu ân huệ sâu nặng của chủ nhân, dù là chuyện lớn hay nhỏ, nếu chủ nhân nhất thời nghĩ không ra, Tử Nghiễn ắt phải dốc hết sức mình cho bề trên.”
Ông ra đang nói rằng vụ án hoàng tự lúc trước không liên quan đến Ninh Dịch, đây chỉ là chủ ý cá nhân của ông ta thôi sao?
Phượng Tri Vi mỉm cười nhàn nhạt.
Nếu Ninh Dịch thật sự muốn bảo vệ nàng thì sau khi rời kinh y sẽ không giao Kim Thược vệ cho Tân Tử Nghiễn.
Nếu Ninh Dịch thật sự chưa bao giờ muốn động đến nàng thì sự tra xét của Kim Thược vệ đối với Phượng gia sẽ chấm dứt rất nhanh.
Nếu không được Ninh Dịch ngầm đồng ý, có rất nhiều việc vốn sẽ không xảy ra thuận lợi như thế.
Y là bàn tay khống chế tất cả sau đám mây, có lẽ y không trực tiếp rút đao nhưng chỉ cần khẽ buông tay cho đao rơi xuống thì cũng có thể đả thương người.
“Phải rồi, tất cả đều nhờ vào phúc trạch của các vị chủ nhân.” Phượng Tri Vi càng cười càng thân thiết. “Nghe nói Sở vương điện hạ được bệ hạ vô cùng ưu ái, chắc hẳn ngôi vị Đông cung sớm muộn gì cũng tới tay. Bao giờ tiên sinh trở về kinh, xin hãy thay ta chúc mừng.”
Tân Tử Nghiễn do dự giây lát mới nói: “…Ta tạm thời không trở về kinh, lời này, vẫn phải để Đại phi đích thân nói với điện hạ.”
Phượng Tri Vi ngơ ngác – Tân Tử Nghiễn cũng phải đến chiến trường Bắc Cương sao? Ninh Dịch phái thân tín đắc lực của mình đến Bắc Cương là muốn triệt để nắm giữ quân đội Thiên Thịnh ư? Nhưng Tân Tử Nghiễn chỉ là một thư sinh, đến đây phỏng có ích gì? Lẽ nào là đến làm Giám quân?
“Đại nhân nói đùa rồi, thảo nguyên và Đế Kinh xa cách nghìn dặm, Tri Vi đã khồng còn người thân ở Đế Kinh, cả đời này không bao giờ trở lại, e rằng không có duyên bái kiến điện hạ lần nữa, thật sự đáng tiếc.”
Nói là tiếc nhưng sắt mặt nàng lại không hề tỏ ra tiếc, mỉm cười, xoay người, kết thúc đối thoại.
Phía sau, Tân Tử Nghiễn dõi mắt nhìn theo bóng lưng nàng, há hốc miệng, dường như muốn nói câu gì đó. Nhưng khi nhìn thấy nàng kiên quyết rời đi, cuối cùng vẫn không nói nên lời.
Thôi được … Rồi nàng sẽ biết.
Nghi thức tọa sàng trôi qua không lâu, là sinh nhật hai tuổi của Cố Tri Hiểu.
Sinh nhật của Cố Tri Hiểu hiện giờ chỉ có Phượng Tri Vi biết. Mảnh khóa vàng hoa quý hồi trước thoạt nhìn không có chữ, nhưng một hôm Phượng Tri Vi đem soi dưới ánh nến thì thấy một hàng sinh thần bát tự in trong cái bóng trên tường.
Thì ra mảnh khóa được khắc rỗng bên trong, chỉ khi soi dưới ánh sáng mới hiện ảnh. Đây là thiết kế vô cùng tinh xảo, không thể có ở một nhà giàu tầm thường.
Phong tục của Trung Nguyên, sinh thần bát tự của con nhà cao quý báo gia ngoài đều không phải thời gian chính xác, để tránh bị tiểu nhân lợi dụng. Sau khi phát hiện ra bí mật này, Phượng Tri Vi dứt khoát sửa lại ngày sinh cho Cố Tri Hiểu luôn.
Đêm đó, trên thảm cỏ của vườn hoa vương đình, mọi người quây quần bên đống lửa ngồi bệt xuống đất, con dê nướng chín vàng óng rả rõ mỡ tong tong. Ánh lửa phản chiếu khuôn mặt nhỏ xíu đỏ bằng của Cố Tri Hiểu, nó nhìn cha mình cười tươi tắn như hoa.
Hách Liên Tranh lấy đầu vai huých huých Phượng Tri Vi nháy mắt ra hiệu. “Ta phát hiện ra nha đầu kia chỉ khi nhìn Cố Nam Y mới cười đẹp nhất.”
Phượng Tri Vi có chút ghen tị: “Hồi đó người đầu tiến bế nó ra là ta chứ ai, đúng là đồ ăn cây táo rào cây sung.”
“Phụ nữ đều là như thế.” Hách Liên Tranh thở dài, “Hồi đó người đầu tiên đến cầu hôn nàng là ta chứ ai, vậy mà đến hôm nay nàng vẫn chưa chịu cho ta bước vào phòng nàng.”
“Ta chủ động bước vào phòng huynh, huynh còn chưa vừa lòng?” Phượng Tri Vi bình tĩnh cắt đùi dê.
“Nàng chủ động leo lên giường ta thì ta mới …” Hách Liên Tranh còn chưa nói hết câu, Phượng Tri Vi đã nhét một miếng thịt dê bự chảng vào miệng gã, bịt kín cái miệng đang thao thao bất tuyệt của Đại vương.
“Ta nói… nàng thực sự muốn…ra chiến trường…” Hách Liên Tranh miệng ngậm đầy thịt, ú ú ớ ớ hỏi.
Phượng Tri Vi rũ hàng mi, che đi đôi mắt lấp lánh huyền ảo, hồi lâu mới nói, “Hách Liên, thảo nguyên chưa nay đều thuộc về một mình huynh, dù Ngụy Tri có trở về hay không thì cũng không nên liên lụy đến thảo nguyên của huynh. Vì sao huynh cứ khăng khăng muốn ta thống lĩnh thiết kỵ Thuận Nghĩa?”
“Thảo nguyên của ta chính là của nàng.” Hách Liên Tranh nuốt miếng thịt xuống, vỗ vỗ bụng. “Ta không quản được thiên thu vạn đại hậu thế bách niên, mà chỉ muốn ta còn ở đây ngày nào thì nhất định phải bảo vệ nàng ngày ấy.”
Phượng Tri Vi lặng thinh không nói, đôi mắt ướt đẫm sương mù.
Hách Liên Tranh không thể không biết, một khi nàng lựa chọn dùng thân phận của Ngụy Tri tham gia cuộc chiến của Thiên Thịnh chống lại Đại Liêu thì có nghĩa là nàng đã đặt bước chân đầu tiên trên con đường trở về triều cục, nghĩa là nàng sắp chính thức bước lên vũ đài đánh cuộc cờ thiên hạ với Ninh Dịch. Đúng hay sai, sống hay chết, từ giờ trở đi đã không thể quay đầu. Là một thảo nguyên vương yêu thảo nguyên sâu sắc, gã nên sáng suốt chọn cách giữ mình chứ không phải xung phong vì nghĩa, lội chân vào vũng nước đục này.
Nhưng gã thậm chí còn chưa bao giờ do dự.
“Đừng nói với ta nàng không cần sự bảo vệ.” Hách Liên Tranh dường như chẳng suy nghĩ gì cả, chỉ cẩn thận cắt thịt dê cho nàng, hết sức tỉ mỉ cắt thành từng lát mỏng, đồng thời đưa tay đẩy Mẫu Đơn Thái hậu muốn đến ăn vụng và nghe lén ra ngoài. “Đừng nói với ta nàng không cô đơn. Tri Vi, ta chỉ mong nàng, vào thời khắc đi qua đêm tối, đừng cương quyết lựa chọn một người.”
Gã lấy mũi dao khều thịt dê, say sưa nhai được vài miếng, bất ngờ quẳng con dao đi, đứng dậy, vung tay gào to, “Phượng Tri Vi, lão tử vĩnh viễn là của nàng!”
Tiếng hô bất thình lình vang lên khiến mọi người giật mình, ai nấy đều ngơ ngác ngẩng đầu lên nhìn gã. Mẫu Đơn Thái hậu há hốc miệng nhìn con trai, một lúc sau khóe miệng chảy ra một vệt nước miếng, “cạch cạch” rớt xuống một khúc xương đùi dê.
“Cha à!”
Bỗng lại vang lên một tiếng hét lanh lảnh, giọng nói yêu kiều, so với tiếng gào to của Hách Liên Tranh thì cách một trời một vực, nhưng sát khí đằng đằng trong đó lại không thua chút nào.
“Của cha!”
Mọi người lập tức quay đầu, lại ngơ ngác phát hiện, giọng nói vừa rồi hóa ra là của Cố Tri Hiểu lên hai tuổi vẫn chưa chịu mở miệng.
Đúng là không mở miệng thì thôi, vừa mở miệng đã long trời lở đất.
Tri Hiểu của Cố gia ưỡn cái bụng nhỏ xíu, đứng bên cạnh Hách Liên Tranh, bắt chước tư thế của gã, tay chống nạnh ngửa đầu la to, “Cha ơi! Của cha!”
Nó không tài nào nói được một câu hoàn chỉnh, chỉ biết phun ra hai chữ một lần, nhưng mọi người trong nháy mắt đã nghe hiểu, nó đang học câu nói của Hách Liên Tranh.
Một lớn một nhỏ đứng đón gió, trang nghiêm thần thánh, cả đám người ngồi gần đám lửa bên dưới nhìn lên, ngây ra như phỗng.
Tông Thần bỗng bắt đầu ho khan.
Phượng Tri Vi ngậm miếng thịt, ngẩn người.
Bát Bưu ôm bụng lăn ra đằng sau bụi cỏ.
Mẫu Đơn Thái hậu ôm Sát Mộc Đồ nhà mình, tranh thủ thời gian dạy dỗ: “Cục cưng, con xem, đây là tấm gương tác động tiêu cực, toàn cái thứ không học chuyện tốt …”
Hoa Quỳnh mới ở cữ xong chưa bao lâu, vội vàng ôm con trai mình đi, tránh để nó chịu ảnh hưởng không tốt …
Chỉ có Cố thiếu gia vẫn bình thản, bế cục cưng nhà mình lên, lau khô nước miếng nó phun ra, chỉ vào Phượng Tri Vi, nói: “Của nàng ấy.”
“Của cha.” Cố Tri Hiểu không đồng ý.
Phượng Tri Vi bấy giờ đã hoàn hồn, bắt đầu ho khan, liều mạng muốn ngăn cản Cố thiếu gia nói ra câu kế tiếp. Đáng tiếc Cố thiếu gia luôn luôn coi mọi thứ ám hiệu như gió thoảng bên tai, ôm lấy bé con nhà mình, mặt đối mặt, vô cùng nghiêm túc dạy bảo: “Ta là của nàng ấy, con là của ta, cho nên con là của nàng ấy.”
Hách Liên Tranh phun ra một ngụm nước.
Phượng Tri Vi đưa tay lên đỡ trán…Cho xin đi, Cố thiếu gia nói chuyện đừng có ngày càng lưu loát như thế được không.
Cố Tri Hiểu không nghe hiểu những lời này, lại mơ hồ cảm thấy cha nó không cần nó nữa, nó bắt đầu khóc ré lên, chất giọng sắc lẻm như dao mổ lợn.
Sát Mộc Đồ lập tức bắt đầu diễn song ca cùng nó, Phượng Tri Vi bất đắc dĩ bịt lỗ tai mình lại. Giữa những tiếng khóc lóc ầm ĩ, nàng nhìn thấy vầng trăng sáng rực đã mọc lên nơi tận cùng thảo nguyên; dưới ánh trăng, trên khóe môi mọi người đều nở một nụ cười nhàn nhạt, thấy nàng vui vẻ, mọi người lại vây kín xung quanh, không thiếu một ai cả. Xa xa không biết có ai gáy lên cây đàn Đông Cổ Lạp chỉ có ở thảo nguyên, tiếng ca tang thương mà da diết.
Khi trời hửng sáng, Phượng Tri Vi mở bừng đôi mắt, phát hiện mình đang ngủ trên đùi Cố Nam Y, Hách Liên Tranh ngủ trên đùi nàng, Mẫu Đơn Thái hậu gối lên bụng Hách Liên Tranh, trên bụng bà Sát Mộc Đồ. Gương mặt Cố Tri Hiểu vẫn rưng rưng nước mắt, ôm chặt lấy thắt lưng Cố Nam Y. Thiếu niên xưa nay vẫn luôn đứng tách khỏi đám đông đã bình thàn ngủ say giữa mọi người.
Mà phương xa, mơ hồ vang lên tiếng vó ngựa dồn dạp, tiếng tù và ngân nga hùng hồn, bay khắp thảo nguyên bát ngát.
Tháng Tám năm Trường Hi thứ mười bảy, Hô Trác bộ lấy danh nghĩa báo thù cho bốn nghìn chiến sĩ Nhân Nhĩ Cát tử trận, lại xuất thêm một vạn quân, tiến vào chiến trường giữa Thiên Thịnh và Đại Liêu.
Cũng trong tháng đó, Thuận Nghĩa vương phi mang thai, do bào thai bất ổn nên ở lại vương đình dưỡng thai. Triều đình nghe được tin này, bèn tặng cho Đại phi rất nhiều thuốc bổ để dưỡng thai.
Tháng Tám năm Trường Hi thứ mười bảy, do cuộc chiến với Đại Liêu liên tiếp bại lui, triều đình Thiên Thịnh phái ra Giám quân, đồng thời triệu tập biên quan của bốn châu Ly, Bình, Vũ dự ở biên giới phương Bắc, cùng với hai mươi vạn phủ quân của Mạc Bắc đạo, sắp sửa quyết chiến với Đại Liêu trên núi Bạch Đầu thuộc thảo nguyên Hồ Luân bên ngoài Vũ Châu.